Khi anh trở thành
"kẻ chợ"
(Viết để nhớ lại kỷ
niệm về nhạc sĩ Đỗ Thành Huấn và Dân oan Trần Thị Hài với lòng quý
mến)
Tôi vẫn không nhớ rõ
tôi quen nhạc sĩ Đỗ Thành Huấn lúc nào. Có thể trong một cuộc họp
mặt văn nghệ sĩ, nhà báo hay trong những lần đi tập huấn các trại
sáng tác văn học nghệ thuật do Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh tổ chức
vào những tháng mùa hè. Nhưng có một điều làm tôi nhớ nhất là anh có
đôi mắt hơi sâu, sắc xảo, nụ cười rất miền Nam. Tính tình hiền hoà,
nhả nhặn và quý bạn bè. Ở vào thời bao cấp, người tốt nghiệp đại học
bên Nga như anh trở về phải giữ những chức vụ cao cấp tại Tỉnh Ủy.
Nhưng cái máu văn nghệ sĩ chảy trong huyết quản của anh, cộng thêm
không thích ăn nhậu, đàn đúm với các quan to nên anh không thể lên
chức. Suốt mấy chục năm sống ở Bình Dương, Đỗ Thành Huấn suốt ngày
chỉ ở trong rừng, làm giám đốc một công ty Cơ Khí Nông Nghiệp nghèo
nàn với hơn chục nhân viên ở tận nơi khỉ ho, cò gáy của Xã Lai Uyên,
Huyện Bến Cát. Sau khi công ty giải tán thì về làm đường ở tận vùng
sâu, vùng xa như Bàu Bàng, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Bình Long, Phước
Long hay biên giới Miên… đi lăn đá để mưu sinh. Có khi bị người ta
quịt không trả tiền. Vì vật lộn với cơm, áo, gạo, tiền, con đường
văn nghiệp của anh đã dừng lại. Và nó đã thực sự dừng lại vĩnh viễn
từ câu chuyện bị chiếm đất đai.
Những năm 80, chúng
tôi là những văn nghệ sĩ nghèo đói, rách rưới như một lũ ăn mày đã
từng đến thăm anh và ngồi nghe anh nói về khai phá rừng chồi để
trồng bạch đàn. Mơ ước của anh nghe mê say lắm. Hồi đó, có con ma
nào thèm bám rừng, mơ mộng hảo như anh. Quan lớn, quan bé khoái về
thành phố hưởng thụ, đi xe hơi bóng lộn, rượu thịt ê hề, đèn điện
sáng trưng. Còn cái Xã Lai Uyên sình lầy, hoang vu, lạnh lẽo, chó ăn
đá, gà ăn muối không điện, không nước chỉ sinh hoạt bằng nước giếng
thì ai mà thích ở? Đất ở đó năn nỉ cho cũng không ai thèm! Tôi thấy
anh hăng say lý tưởng hiện đại hoá nông nghiệp như bên Nga nên chỉ
im lặng lắng nghe. Anh Huấn thương đám bạn bè quá rách nát nên muốn
đám văn nghệ sĩ mạt rệp của chúng tôi cùng với vợ chồng nhà thơ Lê
Giang và nhạc sĩ Lư Nhất Vũ bỏ Sài Gòn hoa lệ, đi về rừng trồng cây
với anh cho vui. Cái máu mê đất đai thấm vào xương anh từ khi còn bé
vì anh xuất thân từ đồng bằng Sông Cửu Long. Nhưng may mắn là ông bà
Lê Giang-Lư Nhất Vũ, nhạc sĩ Phan Nhân, Lưu Hữu Chí (con trai nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước), nhà thơ Từ Nguyên Thạch (Báo Người Lao Động) và
cả tôi cũng lắc đầu nói “Thôi rừng rú ở buồn lắm. Mưa gió lạnh
lẽo. Muỗi cắn bệnh sốt rét.”. Không phải chỉ có thời tiết mà còn
dân ở đó sống rất quê mùa, lạc hậu. Suốt ngày có thời gian là họ
nhậu nhẹt, say sưa. Nếu hồi đó, chúng tôi nghe lời anh Huấn mần
thiệt thì bây giờ tất cả đã trở thành dân oan mà không chừng đi tù
như chị Trần Thị Hài hay có khi cuộc đời đã tiêu tùng. Lâu lâu về
thành phố, anh Huấn còn buồn buồn sáng tác bài hát “Kẻ Chợ” để nhớ
về rừng:
Kẻ chợ
Sáng ngay còn ở
rừng
Chiều đã thành kẻ
chợ
Nghe tiếng xe hơi
chạy
Tưởng suối róc rách
reo
Nhìn lên cột thu
lôi
Tưởng tầng xanh cổ
thụ
Đêm khuya mơ màng
ngủ
Gió thổi bay mí
mùng
Ơi! Tiếng của núi
rừng
Sao mà thương mà
nhớ
Bây giờ thành kẻ
chợ
Biết cột võng đâu
đây
Để nhìn lên bóng
mây
Để nhìn lên lá biếc
Để trầm ngâm ký ức
Thả tâm hồn vi vu…
Đỗ Thành Huấn
(Trích trong tập thơ nhạc :Sau Cơn Mưa, Bình Dương 10-1987)
Khi nghe anh đánh đàn
bài hát nầy, tôi cười vì thấy anh còn mơ mộng nhớ lại những ngày xa
xưa trong chiến khu của một thời hiến dâng tuổi trẻ cho cộng sản
miền Bắc. Và những cánh rừng xanh bất tận đã trôi vào giấc ngủ của
anh. Anh nhớ rừng ngay khi đất nước đã thanh bình.
Có những ngày, đoàn
chúng tôi băng rừng, lội suối đi sưu tầm ca dao dân ca trong xóm
làng tận Bình Long, Lộc Ninh, Bù Gia Mập, Đồng Xoài, Bến Cát, Tân
Uyên…vừa mệt, vừa đói, khát nên ghé ngang thăm vợ chồng anh Huấn.
Chị Hài đi chợ nấu ăn cho chúng tôi rồi chị chào hỏi vài lời: “Em
vụng về không biết nấu ăn ngon. Các anh chị ăn có ngon miệng không?”
Sau đó, chị biến vào trong bếp. Tôi còn nhớ đó là ngày 17 tháng 4
năm 1988, anh Huấn có nuôi vài con thú trong nhà: Kỳ nhông, trăn
con, cá sấu con, chồn con, chim, gà rừng…Anh bắt được chúng trong
rừng nơi anh đang công tác. Anh sợ công nhân đói quá sơi tái chúng
nên đóng chuồng đem về nhà nuôi như nuôi con. Trời đất ơi! Tôi sợ
trăn muốn chết. Nhưng nhạc sĩ Lưu Hữu Chí đòi chơi trăn. Chí đòi anh
Huấn mở chuồng ra. Chàng nhạc sĩ trẻ thò tay xuống cho con trăn quấn
rồi ôm con trăn chơi, ngắm nghía với vẻ thích thú. Tôi sợ quá chạy
vô góc phòng trốn. Anh chàng đâu có tha. Đây là dịp trả thù cái tội
tôi “làm chảnh” với anh chàng. Anh chàng đem trăn dí vào mình tôi.
Tôi hét lên om sòm, nhảy tưng tưng như con khỉ. Anh Huấn và mọi
người ngồi cười ha ha. Nhà thơ Lê Giang thì la Chí: “Đừng có chọc
nó. Nó sợ rắn, sợ trăn lắm. Cái thằng rắn mắc vừa vừa đó. Mầy chuyên
môn theo chọc ghẹo nó suốt ngày.” Chàng nhạc sĩ trẻ nhe răng ra
cười. Anh chàng tha cho tôi lần đó nhưng còn nháy mắt hứa hẹn sẽ có
trò chơi khác để trả thù dân tộc! Khi chúng tôi về, mấy ngày sau anh
Huấn làm một bài thơ gởi tặng chúng tôi:
Mai kia mình có lên
rừng
(Kính tặng Đoàn sưu
tầm dân ca Bình Dương)
Lâu ngày bè bạn tới
chơi.
Nhà thơ, nhạc sĩ
nói cười vô tư
Một chiều dẹp nỗi
âu lo
Một chiều thư thả
chuyện trò mông lung
Cho tấm lòng được
ung dung
Đời mà cứ mãi boăn
khoăn ích gì?
Trò chơi thứ nhất
bày ra
Tập cho cá sấu hửi
hoa mai vàng
Ôi! Con sấu quá dữ
dằn
Nó không cần biết
mùa xuân trên đời
Hoa mà nó tưởng
thịt tươi
Nhạc, thơ gì nó
cũng xơi chẳng chừa.
Giờ tới trò chơi
thứ hai
Cho trăn quấn cổ
mới tài đó nghe
Chuyến nầy sẽ có
tài khoe
Dẫu rằng mặt mũi
xanh lè hoảng kinh
Con trăng rất đổi
hiềnlành
Vậy mà nghệ sĩ thất
thần chẳng chơi
Con trăn bò tới, bò lui
Nghe hơi ấm bàn tay người – lim
dim
Trò chơi thứ ba tới liền
Chồn chưa mở mắt biết tìm chủ
nhân
Như là trẻ nít vô tâm
Hò reo hết cỡ, hân hoan hết lòng
Một chiều thương quá là thương
Mai kia mình có lên rừng, nhớ
nghe
Kỳ nhông, gõ kiến, hoạ mi
Đem về nuôi ở trong nhà thật
đông
Cho thơ, nhạc với
chim muông
Chiều nào gặp lại
tâm hồn rảnh rang…
Dễ đâu được phút an
nhàn
Cho tôi giữ mãi
tình bằng chiều nay…
(Bình Dương 4-1988)
Ngày đó, tôi cảm nhận
anh còn say với lý tưởng cộng sản nên không bao giờ phá bỏ những gì
anh ôm ấp một đời. Còn tôi thì ôm giấc mơ đi thật xa, rời khỏi cảnh
ao tù, nước đọng, sình lầy hôi hám tại Việt Nam. Tôi đã nhận ra chế
độ cộng sản là một chế độ phi nhân ngay từ năm 1975 dù lúc đó tôi
chỉ là đứa trẻ mới lớn. Sau nầy, tôi lang thang lạc vào nghề vừa
viết, vừa lách để “kiếm cháo” sống lây lất qua ngày nên tôi quen với
nhóm văn nghệ sĩ tỉnh Bình Dương. Như một sự hạnh ngộ tình cờ, tôi
quen với anh Đỗ Thành Huấn, một người anh, một người bạn lớn đã dành
cho tôi khá nhiều cảm mến. Dù tôi khoảng ngoài hai mươi, nhưng tôi
gần gủi với anh hơn những văn nghệ sĩ khác. Con trai thời đó rất
ghét cái tính lạnh lùng, thờ ơ của tôi nên chọc tôi “ế chồng”. Tôi
chỉ cười. Tôi thân anh Huấn vì chị Trần Thị Hài là người phụ nữ điềm
đạm, lịch sự và có học. Chị không bao giờ ghen tuông bậy bạ và có
lòng ganh tị dù tôi trẻ hơn chị. Nhạc sĩ Lưu Hữu Chí có chụp hình
tôi và anh Huấn đứng trên một chiếc cầu nhỏ bắt qua một con suối với
con chó nhỏ. Nhà thơ Lê Giang la Chí: “Nè chụp hình nó với ông
Huấn coi chừng bị hiểu lầm. Mầy tài lanh quá đi. Thấy gì chụp đó.
Còn nhe răng ra cười cái gì hả?” Chí gãi đầu ba hoa chích choè:
“Con thấy hai anh em thân nhau nên chụp thôi. Chị Hài không có
ghen đâu. Cô đừng có lo.”
Tấm hình đó tôi còn
lưu giữ. Tôi kính trọng, thương anh chị và các cháu như người trong
gia đình. Anh chị thì thương tôi như em gái nên tình cảm chúng tôi
vẫn gắn bó, tôn trọng nhau cho đến nay. Thỉnh thoảng gặp nhau, anh
Huấn hay nhắc tôi về nhạc sĩ Lưu Hữu Chí. Và hỏi tại sao? Tại sao
tôi…?!?..Tôi chỉ cười cười cho qua chuyện. Chỉ có tôi mới trả lời
được vì sao tôi tránh không gặp lại Chí kể từ khi tôi dự tang lễ của
cha anh, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, qua đời. Và mới đây nhất trong cuộc
điện đàm dài. Anh Huấn lại hỏi tôi “Tại sao em không chọn Chí
khi bà Lê Giang muốn làm mai làm mối cho em?” Tôi cười dòn
tan đáp: “Bây giờ em mới trả lời thật với anh. Vì em không muốn
cướp đoạt tình yêu của một cô gái đang si mê Chí. Và câu trả lời thứ
hai là em muốn rời khỏi Việt
Nam để thoát khỏi chế
độ cộng sản.”
Giờ đây, hơn 20 năm, khi tất cả chỉ còn là kỷ niệm vui buồn trong
quá khứ, tôi không có lý do gì giấu diếm anh. Thật sự, tôi đã quay
lưng lại với ánh mắt và sự săn đón của người nhạc sĩ trẻ, vui tính,
thật thà và dễ mến. Anh sinh ra trong một gia đình nổi tiếng, trí
thức. Bản thân là một giáo sư dạy âm nhạc tại Trường Quốc Gia Âm
Nhạc Sài Gòn. Còn tôi là con của một quân nhân bên kia chiến tuyến.
Tôi lại có cái máu quốc gia sâu đậm. Tôi lại là người đã được huấn
luyện trong trường QGNT. Liệu rằng tôi không làm cho bản thân và lý
lịch anh có tì vết? Anh còn có tương lai trước mặt. Tại sao tôi lại
làm cho cuộc sống của anh rắc rối?
Tôi có máu “anh hùng”
giống ba tôi nên thấy chuyện bất bình chẳng tha, lại không thích bợ
đỡ nịnh hót. Cho nên, bạn tôi toàn là những người có chồng là chế độ
cũ, có chồng đi tù vì tham gia chống chế độ cộng sản, những người
hoạn nạn mà ai cũng tránh xa vì chơi với họ chẳng có lợi lộc gì. Tôi
cũng thuộc loại bơ đời nên không màn đến danh lợi trước mắt. Khi mọi
người vào Đoàn, Đảng thi đua trối chết để lấy danh, trở thành giáo
viên Tiên Tiến, được bằng khen liên miên (đó cũng là bệnh dối trá
tại Việt Nam) thì tôi đi dạy học 6 tháng đã bị “đì” và Sở Giáo Dục
phát lệnh cấm dạy trên toàn quốc cũng vì tội viết báo tố cáo ông Ba
Nứa, Hiệu Trưởng và băng đảng của ông ta ăn chặng tiền của sinh
viên, ăn cắp tiền xây dựng trường. Hỏi thử với cái máu anh hùng đó
thì làm sao sống được với cộng sản? Nhà thơ Lê Giang thương tôi
nhưng cũng rất bực mình cái máu anh hùng rơm, ngu ngốc của tôi nên
phải đi theo dặn dò:“Mầy mà chọc giận tụi nó là nó giết. Có nghe
tao không hả nhỏ?!” Tôi nghe ớn xương sống. Bởi ai làm văn nghệ
sĩ tại Việt Nam cũng biết đến cái chết bất thường, mờ ám của vợ
chồng cố nhà thơ Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh. Tôi âm thầm tìm đường
vọt mất. Bao nhiêu năm qua, tôi không còn liên lạc với ai. Nhóm bạn
văn nghệ sĩ của tôi người đi, kẻ ở, kẻ sống cù bất cù bơ, bệnh tật,
có người sống rất cô đơn hay bị mất trí…Còn lại thì đi bán bánh tiêu
với diêm vương. Họ là những người dám đối diện với sự thật. Họ xác
nhận vị trí của mình, dấng thân vào văn học vì cái nghiệp chướng. Đã
bước vào là khó bước ra. Họ cố gắng mài giũa, học hỏi đi tìm cho
mình một chỗ đứng xứng đáng với tài năng của mình. Họ mơ ước có tiền
in sách, in CD, nhưng ước mơ đó xa với tầm tay của họ vì quá nghèo.
Ai mà không thích in sách để nổi tiếng, để người ta biết mình là ai?
Nếu nói không cần ai biết tên tuổi thì họ sống tự lừa dối bản thân.
Nếu không thích nổi tiếng, thành nhà văn thì ở nhà rữa chén, nấu
cơm, giặc quần áo cho chồng con, hay các ông thì quét nhà, đuổi gà
cho vợ không nên giao du, bôn ba với giới cầm bút. Và viết ra thì
tốt nhất nên để dành cho mình, cho chồng con đọc, in sách ra làm chi
cho tốn tiền?! Bệnh lừa dối bản thân là một căn bệnh tai hại khiến
cho người cầm bút tư ti mặc cảm lẫn tự cao, tự đại. Muốn vượt trội
người khác nhưng chưa đủ tài năng để tự khẳng định mình đối với độc
giả. Ở Bình Dương, nếu nhạc sĩ Giáp Văn Thạch chỉ biết đến tên tuổi
qua bài hát “Quê Hương” thì nhạc sĩ Võ Đông Điền đã thành công trong
nhiều bài hát. Bước chân anh đã đặt được trên danh vị của một nhạc
sĩ tài năng và được nhiều người mến mộ. Đó là món quà tinh thần của
người nghệ sĩ.
Cách đây mười mấy năm,
tôi có trở về Việt Nam và ghé thăm vợ chồng anh Huấn và chị Hài cùng
các cháu. Cả gia đình gặp tôi rất vui. Anh đang tưới cây liễu trước
sân nhà. Tôi bước vào. Anh nhìn sững tôi một giây rồi la lên: “Em
ơi! Em gái mình về nước nè!” Chị Hài từ nhà sau chạy lên, thấy
tôi chị rất vui. Chị lấy bánh mứt ra mời tôi và hỏi thăm tíu tít.
Các cháu thì muốn tôi đến ăn Tết với các cháu. Anh Huấn ngồi nhìn
tôi một lúc rồi nói: “Nghe tin em đi anh sững người. Anh buồn lắm
em biết không? Anh không ngờ em bỏ nước đi không một lời từ
giã anh chị” Tôi cười buồn và nói: “Đâu có ai biết em rời
khỏi Việt
Nam. Em ra đi rất âm
thầm. Tại cái tính của em không thích làm cho người khác bận lòng.”
Thấy cuộc sống anh chị vẫn bình lặng, không có gì thay đổi nên tôi
yên tâm và vui. Tôi ngại liên lạc với những người trong nước vì sợ
chính quyền ghép họ vào tội “vọng ngoại, tư tưởng ngoại lai”. Tôi
cũng không muốn bạn bè tôi thất vọng khi nghe tôi nói về chế độ cộng
sản với những giấc mơ kinh hoàng của những ai đã mù quáng tin tưởng
nó.
Bởi vậy, hơn năm năm
nay, khi tấm hình chị Trần Thị Hài đưa nắm đấm lên cao trong cuộc
biểu tình chống Trung Cộng vào tháng 12 năm 2007 lưu truyền trên
website, tôi không còn nhận ra người đó là bạn của tôi. Chị quá
phong trần, nước da trắng hồng, nụ cười rộng mở trên đôi môi đầy đặn
của chị đã biến đi đâu? Chị đã thay đổi 180 độ. Chị bỏ anh Huấn ở
nhà một mình, bỏ căn nhà ấm cúng để lang thang, trôi nổi đi tìm công
lý vì uất hận. Cái máu yêu nước và muốn bảo vệ tổ quốc trước bọn Tàu
xâm lược lại nổi lên trong lòng chị. Vừa qua, anh Huấn cho tôi biết
vì sao chị tham gia biểu tình chống Tàu cộng. Gia đình anh Huấn hay
đưa các cháu về quê anh ở Cần Thơ thăm bà con và quan sát đồng bằng
sông Cửu Long. Chị hay khóc vì thấy quê anh nghèo quá. Nhất là nông
dân lạc hậu nhất nước, nghèo đói nhất nước và đa số phải tha hương
cầu thực. Những cô gái quê nghèo phải đi lên Sài Gòn hay các tỉnh
làm ô-sin, làm gái. Nhất các cô gái trẻ tuổi phải trần truồng xếp
hàng như cá mòi cho tụi Đài Loan, Đại Hàn, Trung Quốc lựa chọn làm
vợ. Chị Hài đã khóc và nói với anh Huấn “Sao họ khổ như thế hở
anh? Vậy thì mình làm cách mạng để làm chi? Mình bị chúng nó lừa.”
Vì có kiến thức nên anh chị Huấn biết thảm hoạ của những con đập của
Tàu trên thượng nguồn sông Mêkông sẽ hủy hoại vựa lúa đồng bằng sông
Cửu Long trong một thời gian không xa. Bởi nước mặn sẽ xâm nhập vào
đồng ruộng do phù sa không còn trôi về hạ nguồn, cá tôm sẽ chết dần.
Nước công nghiệp đầy ô nhiễm của bọn Tàu sẽ chảy về Việt Nam. Miền
Tây sẽ hứng chịu mọi hậu quả. Đó cũng là lý do chị Hài tham gia biểu
tình chống Tàu Cộng quyết liệt. Chị gọi chúng là bọn ác bá.
Những người bạn văn
nghệ sĩ trong tỉnh, cũng như những người thân quen của tôi và anh
Huấn bây giờ không còn ai dám đến thăm anh. Anh đã bị cô lập hoàn
toàn. Nhà thơ Lê Giang và nhạc sĩ Lư Nhất Vũ bây giờ đã già và họ đã
lui về Mũi Né sống an nhàn. Có lẽ họ cũng muốn tránh cảnh ồn ào, đầy
tranh chấp đang diễn ra. Tôi nghĩ họ chưa biết gì về tình cảnh của
anh chị Huấn. Nhạc sĩ Lưu Hữu Chí thì bận lo vợ con và có chắc gì
anh ta còn nhớ đến chúng tôi. Nhà thơ Từ Nguyên Thạch từ khi về làm
cho báo Người Lao Động cũng đã không còn trở lại Bình Dương thường
xuyên. Chỉ còn lại một mình tôi ở cách xa anh cả một đại dương. Mỗi
khi nghe tôi gọi điện thoại về giọng anh reo vui như trẻ con được mẹ
cho quà. “Xa xôi quá anh Huấn ơi! Cô em gái nhỏ của anh không thể
cùng ngồi bên anh để an ủi, chia sẻ cùng anh những nỗi muộn phiền
cuối cuộc đời.” Tôi buồn khi biết bạn tôi lâm nạn mà không thể
làm gì được. Có một lần tôi nói chuyện giúp đỡ anh về chuyện thăm
nuôi chị Hài ở trong tù anh đã từ chối. Tôi nói với anh rằng: “Lúc
chúng ta giàu sang, danh vọng, hạnh phúc thì sự giúp đỡ đâu có cần
thiết. Chỉ khi gặp tai nạn thì mới cần có nhau và mới biết tình bạn
như thế nào. Cho em được chia sẻ với anh hoạn nạn. Cũng
như anh đã từng an ủi em.” Tôi biết anh rất cảm động. Đến bây
giờ khi tôi sống ở Hoa Kỳ 20 năm, những cảm xúc về tình bạn nơi đây
không sâu nặng, thương mến bằng những người bạn xa xưa:“Không cầu
danh lợi, không ganh tị nhỏ nhen, không tính toán so đo hơn thua,
được mất…chúng tôi chỉ biết cho nhau những gì mình có.
Đó là trái tim.” Có thể vì nghèo, chúng tôi chẳng có gì để
tranh giành nên cứ vô tư thương nhau và không biết học thói ganh tị.
Mà tôi cũng đâu có gì để người đời ganh tị? Tôi cũng chỉ là một
người bình thường giống như ngày còn sống ở Việt Nam. Ở Mỹ, có khi
tôi còn lè phè, bụi đời hơn vì quá bận rộn với công việc mưu sinh.
Thời gian trôi qua
nhanh, tôi càng ngày càng già. Bạn bè cùng trang lứa có người đã đi
vào cõi thiên thu. Tôi vẫn nhớ thương từng người bạn. Tôi thương cho
sự bất hạnh của họ bởi tôi nhìn thấy hình bóng của tôi, số phận của
tôi hoà nhập vào số phận của họ: “SỐ PHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM”.
Ngồi đây viết những
dòng kỷ niệm cho anh Đỗ Thành Huấn và chị Trần Thị Hài với tất cả
lòng quý mến. Tết nầy anh ăn Tết một mình, còn chị thì bị ở tù. Nhà
tù yêu cầu chị phải đóng tiền mỗi tháng 5 triệu để cải thiện bửa ăn
cho chị. Một dịch vụ kiếm tiền đối với tù nhân. Nguyện cầu cho anh
Đỗ Thành Huấn bình an và chị Trần Thị Hài được khoẻ mạnh để chống
chọi lại với sự khắc nghiệt của nhà tù cộng sản./.
Phong Thu
Những ngày Xuân năm Quý Tị 2/2013
Chú thích: Bài hát “Kẻ
Chợ” trong tập thơ nhạc của nhạc sĩ Đỗ Thành Huấn. |