Trẩy hội Làng Mai
Anh
Chân Tịnh Nhãn,
Tôi có cảm giác về nhà của một người sau nhiều năm
tháng tha phương khi về Làng trong dịp này. Tôi chưa hề đặt chân
trên mãnh đất xa lạ này một lần trong đời mà như thể thân yêu lắm.
Cái cảm giác nôn nao hồi hộp mong cho chóng đến cổng Làng, và hình
dung như có nhiều người thân thương đang chờ đón. Qua khỏi nhà ga
Saint Foy, chỉ còn lại con đường nhỏ trước mặt, lòng tôi mở rộng
theo chân trời. Vườn nho bát ngát ngút ngàn, thỉnh thoảng là những
cánh đồng hoa hướng dương vàng rực; hoa xô nhau chạy lùi như muốn ôm
chầm lấy tôi mừng rỡ. Chung quanh chỉ còn là tiếng gió lùa vào khung
cửa xe. Chân trời càng mở rộng, lòng tôi bắt đuổi chân trời. Hoa
càng nhiều, nhắm hướng mặt trời mà chạy lùi hai bên tôi như vẫy
chào. Lòng nhẹ nhàng rộn rã…
Đường về Làng sao dài quá. Chắc mình nôn... Nhớ
lời Thầy dặn, đi không cần tới. Tha hồ tự tại nhìn ngắm hai bên.
Thỉnh thoảng vài cụm nhà củ kỷ, lưa thưa còn toàn là nho. Nho xứ này
làm rượu nỗi tiếng, rượu vang
Bordeaux...
À nếu mà giới cấm uống rượu được áp dụng ở xứ này thì những vườn nho
bát ngát chắc trở thành những vườn hoa hướng dương hết. Tha hồ mà
ngắm.
Anh Tịnh Nhãn, đến Làng rồi. Vừa rẽ vào xóm Hạ,
khóm trúc xanh tươi, thân vàng đập vào mắt tôi trước tiên. Chắc anh
hỏi tại sao. Không biết trả lời sao cho anh. Chắc tôi thích trúc và
bởi vì xứ Bắc Mỹ khó tìm thấy trúc để mà ngắm. Nhưng thực ra khi
nhìn đến trúc nguyên một bầu trời quê hương đổ ập vào trong tâm. Quê
tôi nhiều tre và trúc lắm. Rồi con đường sỏi, những căn nhà vách đá,
ngói âm dương củ kỷ, những tàng cây cổ thụ… đối với tôi như quen
thuộc lắm.
Tự nhiên tôi chắp tay lại chào vạn hữu. Như một
kiếp nào tôi đã gặp, đã thấy, lòng nhẹ nhàng như về đến nhà mẹ. Dân
Làng đang sinh hoạt nhưng tôi không thấy ai vội vã, không náo nhiệt
như bất cứ nơi công cộng nào tôi gặp. Họ đang thật sự sống trong
hạnh phúc? họ đang thực tập hạnh phúc? Cả hai. Tôi hòa nhập với dân
Làng, với nếp sống ở Làng một cách dễ dàng, không bở ngỡ, không cần
một cố gắng nào hết... Tôi không vội vã tìm phòng trú, thong thả
từng bước chân trên sỏi. Cái nóng của ngày hè đã tan, gió chiều nhè
nhẹ lay khóm trúc trước mặt. Tôi chấp tay chào mọi người và có ý đi
lẩn vào con đường nhỏ giữa các căn nhà cổ kính để tận hưởng cảm giác
thật sự của mình với Làng. Thiền đường Nến Hồng, quán sách Ô Môi,
thiền đường
Cam Lộ… những tên quen thuộc nhưng
chưa hề thấy. Tôi thích nhất là sự hài hòa của những căn nhà cổ kính
bốn năm trăm năm, vách đá giữ nguyên vẹn, phơi trần. Những chiếc cửa
sổ cùng tuổi với nhà, có cái đã mục còn một mãnh nhỏ dính vào bản lề
sắt to tướng, hoen rỉ, khép nép đứng bên chiếc màng che mới mẽ. Mái
ngói âm dương, loại ngói không thể tìm thấy được ở đâu nữa. Bước vào
bên trong, sự sạch sẽ, yên tịnh, ấm cúng với nền gỗ láng bóng được
chăm sóc kỷ lưỡng làm mình có cảm giác hay hay, thiền vị vô cùng.
Tôi đứng ngắm thật lâu sự dung hợp cố tình này với một xúc động nhẹ
nhàng. Thầy muốn cho dân Làng từ thập phương về biết rằng đây là một
nông trại nghèo nàn, là chuồng nuôi gia súc. Nay Thầy muốn chuyển
hoá thành một đạo tràng tu tập. Chuyển hoá chứ không phải đập phá
phải không anh? Anh và tôi và các anh em trong nhóm cũng đang ngủ
giấc ngon lành trong chuồng bò này. Tất cả đang hiện hữu.
Này anh, nhớ lời Thầy dặn, về Làng mà không đi
thiền hành là là thiếu sót lớn lao đó. Tính tôi hay quên nhưng ưa
thiền hành trên những con đường mòn băng qua vườn mận ở Xóm Hạ và
nhất là những con đường rợp bóng cây rừng ở Xóm Thượng. Cho nên ngày
nào tôi cũng có mặt trong đoàn người lặng lẻ, chẫm rãi theo bước
chân Thầy. Từng bước chân trên nền lá, tiếng sỏi đá dưới chân hoà
với tiếng chim bình yên làm sao. Nhìn xuống thung lũng sâu, một cụm
khói vươn lên nhẹ nhàng. Những lúc ngồi trên đồi, dưới gốc cây nhìn
Thầy, Thầy ốm ghê phải không anh? Nhìn những người tây phương họ
nhìn Thầy với con mắt trìu mến, mình cảm động.
Đêm mùa hè ở Làng là một thích thú nhất. Lâu lắm
không được nằm ngửa mặt lên trời nhìn sao đêm như ở quê mình. Đêm ở
Làng tuyệt diệu, bầu trời trong và đen, không bị ánh sáng thành phố
quấy nhiễu. Tôi nằm trên cái ngựa gỗ trước sân thiền đường Cam Lộ,
tha hồ ngắm sao. Nằm theo thế thiền nằm. Vừa đặt lưng xuống - thú
thật với anh tôi giật mình bởi vì mắt tôi bắt gặp một giãi lụa trắng
trên trời đêm - tôi thấy giãi Ngân Hà vắt ngang từ Đông sang Tây.
Giãi lụa màu sữa này tính ra cũng hơn chục năm nay mới thấy lại và
sực nhớ là mình quên nó từ lâu. Lần này thấy sao sáng hơn, gần mình
hơn. Nhìn từng vì sao li ti trong rừng ánh sáng bạc của giãi lụa, cả
vũ trụ đang hiện hữu, đang thở với tôi và đang nói với tôi nhiều
lắm. Muôn sao lấp lánh như gắn chặt vào bầu trời từ vô thỉ, như bất
động bất biến nhưng kỳ thực không biết bao nhiêu là thay đổi trong
từng sát na. Tôi vừa nghĩ đến đó thì một vệt sáng nhỏ và ngắn chợt
vụt qua trên một góc trời. Nhìn một vì sao lẻ loi hiện hữu trong
rừng ánh sáng, và tất cả giãi lụa đang trải dài làm bằng những vì
sao li ti. Không một chút vẩn đục của lý luận, tôi đã thấy vậy, và
trái đất chúng ta đang ở là một hạt bụi có mặt trong rừng ánh sáng
trên kia. Và Làng Mai đang có mặt trong hạt bụi đó phải không anh
Tịnh Nhản? Nhớ lời thiền sư Đạo Hạnh đời Lý: Nếu không có hạt bụi
này thì làm gì có giãi Ngân Hà trên kia (tất hữu trần sa hữu. Vi
không nhất thiết không).
Có tiếng chân ai chẫm rãi trên sỏi phía nhà bếp
làm ngọn đèn tự động bật sáng. Tôi chẫm rải ngồi dậy thở vài hơi,
ngước mặt lên trời như muốn hẹn gặp lại đêm mai.
Sáng hôm đó tôi dậy sớm hơn mọi hôm. Đứng nhìn mái cong của chùa
Làng Mai và chiếc đại hồng chung in bóng trên nền trời vừa rạng
sáng. Trăng hạ tuần còn lại một mãnh cong trong vắt ngay trên mái
chùa. Lòng nhẹ nhàng. Chữ nghĩa làm sao nói hết được cái đẹp đó anh.
Một vài bước chân rồi nhiều bước trong sáng tinh mơ, tôi hoà nhập
vào đại chúng như đang trẩy hội; trẩy hội chùa Làng Mai. Mà thật hôm
nay bắt đầu cho đại giới đàn Hương Tích. Tôi nghe nói có đến sáu
trăm người từ bốn phương trên thế giới về đây, có người ở tận Úc,
Thái Lan... dĩ nhiên là nhiều người từ Bắc Mỹ trong đó có anh và
tôi. Trên sáu trăm người mà tôi không nghe một tiếng xầm xì,chỉ
những tiếng chân bước trên sỏi. Hình ảnh hùng tráng của các thầy các
sư cô trong những chiếc y vàng đắp cẩn thận đang sáng rỡ dưới những
tia nắng tinh khôi buổi bình minh. Đại chúng đứng theo thứ lớp quanh
tháp chuông chùa Làng. Tiếng đại hồng chung được thỉnh lên hoà với
giọng xướng danh hiệu Đức Bồ Tát Quán Thế Âm trầm hùng của Thầy Làng
Mai cầu mong cho giới đàn viên mãn, cho thế giới bình an, cho đại
chúng nhiều năng lượng tu học… Buổi lễ thật ngắn gọn nhưng uy nghi,
hùng tráng, Đại chúng ai cũng cảm nhận một nguồn năng lượng thiêng
liêng của chư vị Bồ tát như đang có mặt. Tôi nghe có vài tiếng sụt
sùi cảm động vì lời xướng trầm hùng của Thầy Làng Mai rõ ràng trong
nắng mai thanh vắng. Không có diễn văn, không có giới thiệu quan
khách tuy tôi biết nhiều vị cao tăng đang có mặt đến từ nhiều quốc
gia ngay cả từ Việt
Nam.
Sau lễ mọi người đều khoan thai từng bước tản mát. Sinh hoạt hàng
ngày lại tiếp tục bình thường. Mọi người làm việc mình phục, làm
không hở tay nhưng đâu vào đó. Đại chúng tiếp tay từ việc hái rau
làm bếp, tưới cây làm vườn, chùi cầu tiêu, hay quét dọn… không ai
bảo ai mọi người làm việc cho mình và cho tất cả. Làm sao áp dụng
được cách làm việc này trong đời sống hàng ngày trong xã hội thì lợi
lạc nhiều. Tôi thích “ngày làm biếng” của Làng mỗi tuần vào ngày thứ
hai. Chắc anh cười nghĩ rằng tôi làm biếng. Tôi thích vì ngày đó là
dịp để định giá khả năng an lạc và chánh niệm của mình và của dân
làng. Những ai “đạt đạo” đến mức nào thì thể hiện ít nhiều trong
ngày này, vì trong ngày làm biếng mọi người được “thả lỏng” ai muốn
làm gì thì làm. Tôi về Làng lần đầu tiên nhưng học được nhiều điều
quí giá, nhất là tính khiêm cung. Những gì thấy và thực hành đã dũa
mòn nhiều cái tôi của mình.
Đêm đầu tiên của giới đàn là lễ thọ Năm Giới Quí Báu và lễ thế phát
xuất gia. Tôi cảm phục sự chấp tác nghiêm túc của các giới tử Tây
phương. Họ thể hiện đúng đắn lòng tin đối với Tam Bảo và giới luật.
Lần đầu tiên trong đời tôi chúng kiến lễ thế phát xuất gia. Cảm nghĩ
“đoạn tuyệt” cuộc sống trần tục vẫn còn le lói trong tôi mỗi khi
Thầy cắt một ít tóc trên đầu những người trẻ. Nhưng cảm giác “chạy
trốn” cuộc đời khổ đau không còn trong tôi như ngày xa xưa mình
nghĩ. Những người đang quỳ trước mặt tôi rõ ràng họ đang nở những nụ
cười hạnh phúc.
Chúng tôi rời Làng sau anh vài ba hôm nhưng không dự được ngày Nhớ
Ơn Tổ Tiên truyền thống của Làng. Buổi sáng chuẩn bị đồ đạt lên xe,
trời âm u như muốn mưa. Dân làng thưa thớt hơn, nhưng sự sinh hoạt
vẫn bình thường. Tôi đưa mắt nhìn quanh Xóm Hạ một vòng, ý nghĩ trở
về Làng hiện ra. Xe qua cổng Làng, tôi nhìn lui khóm trúc đang oằn
người theo cơn gió. Đêm nay chắc không nhìn được giãi Ngân Hà, nhưng
nó vẫn hiện hữu trên kia.
Anh Chân Tịnh Nhãn, tính từ đó đến nay cũng mười bốn năm dư anh em
mình chưa trở lại Làng. Biết bao nhiêu thay đổi, Vườn mận ở Xóm Hạ
nay chắc đã cao và cỗi lắm rồi. Nhớ anh em mình buổi trưa ra ngồi
dưới gốc mận, vui tay với lên là hái được mận để ăn. Có lẽ đến nay
muốn có mận dân làng phải trèo lên. Năm có giới đàn Hương Tích Làng
chỉ mới có hai xóm Thượng và xóm Hạ. Xóm Trung ở giữa chỉ là căn nhà
Làng thuê tạm cho thiền sinh trẻ về tu học. Nay có thêm Xóm Mới, Xóm
Đoài, Xóm Trung, Sơn Hạ… Tất cả đang làm mới, phát triển theo nhu
cầu. Các xóm đã có những cơ ngơi mới mẽ rộng rãi, thiền đường đủ chỗ
cho hàng ngàn thiền sinh. Nhưng tôi biết chắc chắn những căn nhà cổ
kính trăm năm vẫn còn, khóm trúc vàng nay chắc đã sinh được nhiều
thế hệ khác và được chăm sóc kỷ lưỡng. Con đường thiền hành ở xóm
Thượng rợp bóng tùng, quanh theo sườn đồi vòng đến cốc Ngồi Yên hàng
ngày vẫn đón những bước chân bình yên. Và chiều chiều từ chân đồi
xóm Thượng nhìn xuống thung lũng Sơn Hạ thấy nắng vàng trên những
ngọn cây đẹp như bức tranh sơn dầu. Và đêm Làng Mai hình như sao
trời sáng hơn nơi khác.
Nguyễn Thế Hà |