Phạm
Công Thiện,
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Ở
đây, trên đồi cao vắng vẻ, vào mỗi chiều tôi vẫn thường ra đứng nhìn
mặt trời khuất dần nơi các rặng núi phía xa, rồi chạnh lòng nhớ đến
những người thân đã đến rồi ra đi không bao giờ về thăm lại ngọn đồi
cao này. Tất nhiên, trong đó hình bóng của anh Phạm Công Thiện, một
thanh niên tài hoa vừa mới từ giã Sài Gòn về đây suốt ngày tự nhốt
mình trong một căn phòng đầy sách cùng những câu thơ mà anh đã từng
sáng tác ở đây, vào những đêm dài heo hút hay những chiều buồn lê
thê, lúc nào cũng sống lại đậm đà trong kí ức xa xôi của tôi:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim chiền chiện hót ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u.
Hay hai câu mà gần như những ai đã từng đọc thơ Phạm Công Thiện thì
đều thuộc nằm lòng:
Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Nhà thơ Quách Tấn, người mà Phạm Công Thiện đã từng phát biểu là :
“Một phật tử trọn vẹn, đã thu tóm tất cả những thơ mộng của Phật
giáo vào cuộc đời trầm lặng của mình”1. Một hôm có nói
với tôi rằng, tại sao Phạm Công Thiện không viết là mưa sáng mà lại
mưa chiều? Không về sớm mà lại về muộn và khi trở về lại ngọn đồi
cao ấy không xảy ra vào thứ Hai, thứ Năm hoặc thứ Sáu mà lại xảy ra
vào chiều thứ Bảy, tức là buổi chiều cuối tuần và điều quan trọng
nữa, cây khế không phải đang trổ bông mà đã trổ hết bông.
Nghĩa là tất cả đều lê thê heo hút, tất cả đều vắng vẻ và dường như
ta cũng còn nghe được cái tịch liêu trong hai câu thơ trên. Và rồi
Quách Tấn còn nói thêm với tôi là, nếu ở thời hiện tại có cái gọi là
thơ Thiền thì chắc chắn đó phải là hai câu thơ Thiền hay nhất ở thời
hiện đại.
Phạm Công Thiện rời đồi cao chùa Hải Đức (Nha Trang) đến nay đã gần
nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ với biết bao thăng trầm, nói theo ngôn ngữ
của Phạm Công Thiện thì nửa thế kỷ đầy “tang hoang dâu biển” không
chỉ dâu biển đối với quê hương đất nước và thế giới mà còn đối với
riêng cá nhân Phạm Công Thiện nữa. Nhưng chỉ có cái duy nhất không
thay đổi với anh, theo tôi đó là cái tịch liêu, cái hoang vắng trong
đời sống cô độc của anh. Dù anh sống ở đâu, dưới hình thức nào thì
cái hoang vắng, tịch liêu của những buổi chiều vàng vọt ấy vẫn cứ
bám riết lấy cuộc đời anh như bài thơ có tên là Một buổi chiều nào
đó ở California trong tập thơ Trên tất cả đỉnh cao là lặng im vừa
được xuất bản tại Việt Nam.
I.
Một gian phòng nhỏ một buổi chiều
Một người tựa cửa đứng buồn thiu
Một cô gái nhỏ băng qua phố
Một tiếng chim xa lọt xuống đèo
II.
Một gian phòng nhỏ một buổi chiều
Một người tựa cửa đứng đìu hiu
Một người lặng lẽ băng qua phố
Một kẻ xa buồn lén ngó theo
III.
Một gian phòng tối một buổi chiều
Không người tựa cửa đứng đìu hiu
Không ai bước nhẹ băng qua phố
Không tiếng bông khô rụng xuống đèo.
Bài thơ có ba đoạn, mỗi đoạn có bốn câu. Tám câu
đầu ta thấy có tám chữ Một nghĩa là một buổi chiều và một gian phòng
nhỏ, trong gian phòng nhỏ đó có “một người tựa cửa đứng buồn thiu”.
Tác giả không cho biết là người đang tựa cửa đứng buồn thiu đó có
thấy “một cô gái nhỏ băng qua phố” và có nghe “một tiếng chim xa lọt
xuống đèo” hay không? Nhưng đến đoạn hai của bài thơ thì có khác đôi
chút, vẫn có “một người lặng lẽ băng qua phố” nhưng không biết người
đó là đàn ông hay đàn bà, thanh niên hay con gái, nhưng lần này thì
bài thơ cho biết có “một kẻ xa buồn lén ngó theo”.
Nhưng đến bốn câu cuối của đoạn ba thì lại hoàn
toàn khác, vẫn có “một gian phòng” nhưng đó là “gian phòng tối”.
Trong gian phòng tối đó, tất nhiên “không có người đứng tựa cửa đìu
hiu” và cũng không có người nào “bước nhẹ băng qua phố” và chẳng có
bất cứ một “tiếng bông khô (nào) rụng xuống đèo” cả. Nghĩa là càng
cuối bài thơ thì càng xa xôi heo hút càng tịch liêu vắng vẻ.
Dù ở California hay bất cứ nơi nào trên mặt đất
này thì đời sống của con người cũng chẳng có gì thay đổi, cũng chỉ
lặp đi lặp lại từng ấy chuyện. Trong tác phẩm Đi cho hết một đêm
hoang vu trên mặt đất Phạm Công Thiện viết:
“…hai người gặp nhau, yêu thương nhau, sống chung
với nhau rồi chết. Tất cả bài thơ của đời người đã được viết ra từ
thế kỷ này đến thế kỷ khác. Rồi cũng có một căn nhà nào đó, rồi cũng
có một gian phòng nào đó… Rồi cũng có một đoạn văn buồn hiu hắt của
Céline “Rồi thì chúng ta sống ở đây, lại cô độc nữa. Tất cả đều quá
chậm chạp, lê thê nặng nề, quá buồn… Rồi thì tôi sẽ già. Rồi thì sau
đó sẽ xong, sẽ hết. Bao nhiêu đã người đã đi vào phòng tôi. Họ nói
nhiều điều. Họ không nói gì đáng nói cho tôi cả. Rồi họ bỏ đi. Họ
trở nên già nua, khốn khổ và chậm chạp, mỗi người trong góc bể chân
trời nào đó nơi địa đầu thế giới”2.
Tôi nghĩ, Phạm Công Thiện khi viết câu trên có
thể là viết cho chính mình mà cũng có thể cho tất cả những con người
đã, đang và sẽ đến trên mặt đất buồn hiu này.
Những người đời thường của chúng ta mỗi khi cảm
thấy cô độc vẫn thường trốn tránh nó bằng cách lao vào những cuộc
vui hay tìm đến những nơi đông người để mong bớt đi phần nào nỗi cô
độc nhưng với Phạm Công Thiện (hay tất cả những nghệ sĩ sáng tác
chân chính khác) thì ngược lại càng ở giữa đám đông bao nhiêu thì
nỗi cô độc của họ càng lớn mạnh bấy nhiêu. Đối với họ, cuộc đời lúc
nào cũng giống như buổi chợ chiều:
Phố phường xe rầm rộ
Tôi đứng yên một chỗ
Lũ lượt đời cuộn trôi
Thoáng chốc thiên cổ rồi
(Chợ Chiều)
Trong tác phẩm Khơi mạch nguồn thơ thi sĩ Seamus
Heaney (Nobel Văn chương năm 1995) Phạm Công Thiện viết:
“Một nhà thơ đúng nghĩa là kẻ có khả năng làm
sống dậy cả một vũ trụ, cả một thế giới ba động chung quanh một của
củ khoai tầm thường qua những luống khoai tây tầm thường, Seamus
Heaney có thể làm bừng dậy bao nhiêu thế hệ đã trôi qua trên mặt
đất, lòng kiên nhẫn sắt son của con người đối với đất đai làng mạc
quê hương, tiếng động thổ ngơi, truyền thống thôn quê âm u, nhịp đẩy
của đời sống, sức hút của cái chết, cả một triều sóng dậy của lịch
sử kinh qua luống khoai bùn lầy”3.
Và trong một tác phẩm khác Phạm Công Thiện cũng
viết:
“Thơ đúng nghĩa là thơ, đều không có ý nghĩa gì
hết mà vẫn không vô nghĩa. Bài thơ không nói gì hết, vì mỗi bài thơ
là một sự hiện diện linh thiêng, làm bùng vỡ lên một sự trống vắng
bao la như “ núi vắng không thấy người” mỗi một nhịp thơ khai mở cả
một thế giới bừng dậy, như một cái bông xương rồng bé nhỏ lất phất
trong gió sa mạc”4.
Vậy là cũng giống như Seamus Heaney, chỉ có một
củ khoai tây thì Phạm Công Thiện cũng vậy, chỉ có một cây khế trổ
bông trên một ngọn đồi vắng vẻ trong một buổi chiều âm u nào đó của
quê hương, vậy mà cái hoang vắng, cái tịch liêu của những buổi chiều
xa xôi ấy vẫn đeo đuổi và ám ảnh anh trên khắp nẻo đường của thế
giới như chính anh đã xác nhận:
“Nó buồn buồn nhớ lại những khu phố hoang liêu
vào những buổi chiều vàng vọt trên khắp mặt đất mà nó bước qua”5.
Hay hai câu thơ trong Ngày sinh của rắn cũng buồn hiu hắt như vậy:
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
Bởi thế cho nên, ta chẳng lấy gì làm lạ khi Phạm
Công Thiện cho rằng, dù sống dưới hình thức nào thì anh vẫn nghĩ
rằng suốt đời mình vẫn là một tu sĩ sống cô độc trong một tu viện:
“Dù sao đi nữa, dù sống thế nào đi nữa, cả đời nó, nó vẫn chỉ là một
tu sĩ, dù với bất cứ hình thức đổi thay nào, với bất cứ hoàn cảnh
nào, nó vẫn là một ông thầy tu… Tu viện là cả vũ trụ này”6.
Nhưng “những khu phố hoang liêu”, “những buổi chiều vàng vọt trên
khắp mặt đất”, những “lê thê phố cũ”, những “nghe buồn hè xưa” thì
đã tác động đến tâm hồn của Phạm Công Thiện như thế nào?
Nghĩa là đưa anh vào ngõ cụt hay mở ra nhưng chân trời mênh mông cao
rộng? Đây là lời giải đáp của chính Phạm Công Thiện:
“Năm tàn tháng tận, nhưng với lòng trong sạch, tính trong sáng, tâm
thức bình lặng trên những đỉnh cao của đời sống linh hiện thì chẳng
có gì tàn và chẳng có gì tận. Mỗi giây phút hiện tại là sự bừng vỡ
cọ xát bắn lửa giữa hai thiên thu vĩnh cửu. Mỗi giây phút hiện tại
là sự cọ xát mãnh liệt giữa vô số tỉ triệu ngàn năm trước và vô số
tỉ triệu ngàn năm sau. Mỗi thoáng chốc mong manh của hiện tại như tơ
trời mà vẫn đủ thu phối lại tất cả tuyệt đỉnh của quá khứ và của
tương lai, rồi bừng nở thành cái bông bìm bìm trong đám rêu xanh”7.
Phạm Công Thiện có dịch một bài thơ có nhan đề là Seuls Comprennent
Les Fous (Chỉ những người điên mới hiểu được) của nhà thơ Pháp
Pierre Emmanuel. Trong bài thơ Pierre Emmanuel cứ băn khoăn thắc mắc
tự hỏi tại sao vĩnh cửu lại xanh màu lá cây? (Pourquoi
Verte,l’éternite?) Dù thắc mắc như vậy, nhưng cuối cùng Pierre
Emmanuel cũng tìm được câu trả lời cho chính mình:
“Kẻ nào chưa cảm thấy trong lòng mình ru khẽ lên những chiếc lá đầu
mùa, thì không bao giờ biết được vĩnh cửu”. (Qui n’a senti en lui
crier – Les premières feuilles des arbres – Ne sait rien de
L’éternité.)
Vào một ngày cuối năm, nghĩa là lúc đất trời đang ở trong giây phút
giao mùa, Phạm Công Thiện cũng chợt thấy lòng mình “ru khẽ lên những
chiếc là đầu mùa”, anh bèn làm một chuyến hành hương trong tâm tưởng
của mình về lại nơi chốn mà anh tin chắc là có “màu xanh vĩnh cửu”:
“Năm tàn tháng tận, những ngày cuối năm, trời lạnh se se và ánh nắng
vùng thị tứ Los Angeles ràng rạng vàng tươi trong suốt như cách đây
trên 2500 năm khi Người – Đến – Như –Thế (Tathàgata) đang ngồi một
mình lặng lẽ trong phòng vùng thị tứ Vaisàli hay những thành phố
khác như Sràvasti tuyệt đẹp ngày xưa của Ấn Độ, một thị tứ mà trước
kia ra đi, đứng trên đỉnh đồi ngó lại, Đức Phật đã nói lời giã biệt
đầy xúc động thầm kín: “Ồ, Vaisàli, đây là cuối cùng ta nhìn mi.”8
Hình ảnh ấy của Đức Phật đã để lại bài học gì cho chúng ta trong
cuộc hành trình đi về lại nơi chốn vĩnh cửu? Phạm Công Thiện viết
tiếp:
“Hình ảnh Đức Phật đứng trên đồi cao quay lại nhìn Vaisàli một lần
cuối cùng giống như hình ảnh của một đời người. Mỗi cái nhìn là
thiên thu vĩnh biệt, mỗi bước chân là trùng khơi vạn lí, mỗi giây
phút trôi qua là tất cả thời gian và không gian biến mất” nhưng
không hề gì vì Phạm Công Thiện cũng như tất cả những nghệ sĩ lớn
trên mặt đất phù du này đều tin tưởng một cách mãnh liệt rằng, có
một nơi chốn thiên thu vạn đại để những kẻ lữ hành chúng ta trở về :
“Hình ảnh của người đi và lân la đứng trên đồi nhìn lại cũng chính
là hình ảnh bất hủ của thi sĩ Đức Rilke: “Dù mình có làm gì đi nữa
trên cõi đời này thì mình vẫn có dáng dấp của kẻ lên đường.” Mặc dù
tất cả ngày tháng đều kéo nhau đi mất, nhưng thi sĩ Nhật Basho:
“Những ngày và những tháng đều là kẻ lữ hành của thiên thu, và những
năm tháng trôi qua thì cũng thế”. Tất cả đều đi mất, nhưng không hẳn
là đi mất biệt luôn, vì sự lên đường bỏ đi ở đây là đi về với Thiên
Thu Vạn Đại, vì thế sự trôi chảy liên tục và sự giã biệt liên tiếp
kia chỉ là sự trở về Nhất pháp giới Đại Tổng Tướng Pháp Môn Thể( Đại
Thừa Khởi Tín Luận). Tiếng kêu của bầy ngựa vào thời Mã Minh Bồ Tát
cách đây 2000 năm cũng là tiếng kêu của bầy ngựa ngày hôm nay trên
những cánh đồng hoang khắp thế giới”9.
Đọc đoạn trên của Phạm Công Thiện khiến tôi lại liên tưởng đến câu
sau đây của Trịnh Xuân Thuận, nhà thiên văn lỗi lạc của Việt Nam và
thế giới đương đại:
“Chúng ta là sản phẩm của những hạt bụi trên các vì sao cũng là anh
em muôn thưở với cỏ cây hoa lá. Với việc chúng ta thở, chúng ta có
liên hệ với vạn vật trên thế gian. Khi một cơ thể chết đi và tan rã,
những nguyên tử của cơ thể đó sẽ thoát ra môi trường và xâm nhập vào
các cơ thể khác. Cơ thể chúng ta đang chứa một tỷ nguyên tử của cây
Bồ Đề nơi Đức Phật đã thành đạo.”10.
Nhưng nếu các nhà khoa học đã phải miệt mài trong phòng thí nghiệm
từ ngày này sang ngày khác, thậm chí từ năm này sang năm khác thì
mới khám phá ra rằng “chúng ta là hạt bụi trên các vì sao” hay
“chúng ta là anh em với cỏ cây hoa lá” và đặt biệt là “cơ thể của
chúng ta đang chứa đựng khoảng một tỷ nguyên tử của cây Bồ Đề nơi
Đức Phật đã thành đạo” thì với Phạm Công Thiện: “Thi sĩ cũng giống
như một tu sĩ tự nhốt mình trong tu viện để nhóm lửa tâm thức, đốt
cháy tập khí và cặn bã của ngôn ngữ loài người và giải thoát mở rộng
khai thông tất cả những tinh lực khủng khiếp đọng lại trong âm thanh
vũ trụ”11, và trong một đoạn khác anh lại viết: “Thi nhân
chính là kẻ khẩn hoang, khai khẩn, phá hoang, lầm vỡ đất, tung bắn
nước nguồn, tồn dưỡng tinh thần thổ ngơi, hậu trạch cho sự lưu trú
thơ mộng của loài người trên mặt đất”12. Chính vì “tự
nhốt mình trong tu viện” hay giống như người nông dân “khẩn hoang,
khai hoang, vỡ đất, làm tung bắn nước nguồn” nên tất nhiên cũng chỉ
có thiền sư và thi nhân mới nhận ra được cái thơ mộng tuyệt vời này,
những thơ mộng mà ta có thể tin chắc là những kẻ đầu óc thực dụng
của thời đại ngày nay không bao giờ có thể thấy được:
“Những người không biết chữ ở tận rừng rú hoang vu cũng phải đọc
từng lá cây ngọn cỏ, từng dấu vết chân voi, từng vết mây dưới chân
đèo, từng hơi gió thoảng qua trên suối vắng. Đọc không phải chỉ là
đọc chữ, một người chỉ biết đọc chữ vẫn chỉ là người đọc chữ. Trong
mỗi chữ tầm thường nhất vẫn phảng phất một âm thanh nào đó, và trong
một âm thanh nhẹ nhàng nhất vẫn còn run rẩy một sự im lặng nào đó.
Mỗi một chữ, một tiếng, một lời mở ra một thế giới đang thành hình
và một thế giới đang sụp đổ”13.
Phạm Công Thiện còn có một bài thơ nữa mà theo tôi, vô cùng độc đáo,
đó là bài Lên Đường. Hồi còn ở với anh tại Nha Trang cũng nhu Sài
Gòn gần như ngày nào anh cũng say sưa nói với tôi về kinh Hoa Nghiêm
(Avatamsaka), đặc biệt là Phẩm Nhập Pháp Giới (Gandavyùha) tức là
phẩm dài nhất và quan trọng nhất của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm này ghi
lại cuộc hành trình đầy gian nan của Thiện Tài Đồng Tử (Sudhana) đi
tham vấn từ vị đạo sư này đến vị đạo sư khác. Tất cả là năm mươi ba
vị ở khắp tầng cảnh giới, mang đủ lốt của mọi chúng sanh.
Trước khi lên đường, Bồ Tát Văn Thù thầy của Thiện Tài Đồng Tử đã
căn dặn học trò của mình rằng:
“Này Thiện Nam Tử! Nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng trí
(Sarvajnã-jnãna) thì phải quyết định cầu thiện tri thức. Này Thiện
Nam Tử, cầu thiện tri thức thì chớ mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ
có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi thì phải tùy thuận.
Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm”14.
Vị Thiện Tri Thức mà Bồ Tát Văn Thù khuyến cáo Thiện Tại đến tham
vấn đầu tiên là Tỳ kheo Đức Vân. Vị Tỳ Kheo này ở phương Nam cư trú
trên núi Diệu Phong thuộc nước Thắng Lạc.
Tại sao lại khởi đầu đi đến Phương Nam mà không là các phương khác
như Đông, Tây hay Bắc?
Phạm Công Thiện đã nhiều lần nói rằng chữ Việt trong chữ Việt Nam có
nghĩa là vượt về Phương Nam mà “Trong tất cả truyền thống đạo lý
Đông phương, phương Nam luôn luôn có nghĩa là “chỗ hội tụ tập đại
thành của đạo lý” (Lão Trang ở phương Nam, tư tưởng Bát Nhã cũng nằm
ở phương Nam, trọn cả Nhập Pháp Giới Phẩm) của Hoa Nghiêm kinh đều
nhấn mạnh Thiện Tài liên tiếp đi về phương Nam để học đạo”15.
Và vị Thiện Tri Thức cuối cùng trong năm mươi ba vị Thiện Tri Thức
mà Thiện Tài đến tham vấn là Bồ Tát Di Lặc. Trước khi Bồ Tát Di Lặc
mở tháp Tỳ Lô trang nghiêm cho Thiện Tài chiêm ngưỡng thì Bồ Tát đã
không ngớt ca tụng những đức tính tuyệt vời của Bồ Đề Tâm
(Bodhicitta), vì chính Bồ Đề Tâm nghĩa là khát vọng giác ngộ nóng
bỏng đã khiến Thiện Tài mới có đủ sức mạnh tâm linh để làm một cuộc
hành trình vĩ đại gặp gỡ các đạo gia, triết gia, những ông thức giả
và những bà thức giả.
Nhưng vì sao Đồ Đề Tâm lại quan trọng đến như vậy? Thay vì trả lời
trực tiếp D. T. Suzuki đã nói lên tầm quan trọng của Nhập Pháp Giới
Phẩm: “Ganda quả là một bản truyện kí của những nỗ lực tri thức và
tâm linh xuất hiện quanh câu hỏi Hạnh của Bồ Tát là gì? Nghĩa là ý
nghĩa của đời sống con người là gì? Sự trỗi dậy của Bồ Đề Tâm là
chìa khóa mở vào bí ẩn muôn đời đó, chính đó là lí do vì sao Bồ Tát
Di Lặc đã nói hết sức cặn kẽ và rộng rãi về Bồ Đề Tâm”16.
Thế là có nghĩa là ngày nào chúng ta chưa phát Bồ Đề Tâm thì ngày đó
chúng ta chưa tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống.
Bài thơ được chia làm mười hai đoạn và một đoạn có bốn câu. Trong
mười hai đoạn đó, đều được mở đầu bằng một câu duy nhất:
Chim Ca Lăng kêu sương
Chim ca lăng gọi cho đủ là chim Ca Lăng Tần Già, một loại chim huyền
thoại từng sống trên đỉnh Hi Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới nhưng đồng
thời cũng là tên của một vị Bồ Tát nữa. Bồ Tát Di Lặc đã đem con
chim huyền thoại này để ví dụ cho Thiện Tài thấy cái vĩ đại của Bồ
Đề Tâm:
“Như chim Ca Lăng Tần Già (Kalavinka) dù chưa ra khỏi vỏ trứng, mà
đã có khả năng ca hát tuyệt vời, tiếng hát của nó đã hơn hẳn tất cả
đàn chim trên Hi Mã Lạp Sơn. Cũng vậy, khi Bồ Tát Ca Lăng Tần Già
(Bodhisattva Kalavinka) bắt đầu công hạnh lúc đang ở giữa cõi luân
hồi mà không lui sụt nên có khả năng làm tâm đại bi và Bồ Đề Tâm
không hề bị thoái hóa vào tất cả thành tựu của Thanh Văn và Duyên
Giác”17.
Trong số những đức tính Bồ Đề Tâm mà Bồ Tát Di Lặc đã ca ngợi với
Thiện Tài, tôi nhớ Phạm Công Thiện thường nhắc tới những câu sau
đây. Những câu mà theo tôi, rất phù hợp với tâm hồn gần như lúc nào
cũng đều dậy lửa của anh:
“Bồ Đề Tâm như lưỡi cày vì dọn sạch ruộng Tâm của hết thảy chúng
sanh”, “Bồ Đề Tâm như dao bén vì chặt đầu phiền não”, “Bồ Đề Tâm như
cõi đất vì gìn giữ tất cả thế gian”, “ Bồ Đề Tâm như ngọn lửa vì đốt
cháy tất cả hý luận”, “Bồ Đề Tâm như núi tuyết (Himalaya) và sản
xuất đủ tất cả các cây thuốc trí tuệ”,“Bồ Đề Tâm như kim cương
(Vajra) vì xuyên thủng hết thảy mọi thứ” và đặc biệt là câu: “Bồ Đề
Tâm như hố thẳm vì có làm sụp đổ tất cả các ác pháp” mà tôi đã nhớ
là trong một bài viết trên báo Tin Phật của Tổng Vụ Hoằng Pháp
(trước năm 1975) anh đã nói rằng từ khi đọc được câu này trong kinh
Hoa Nghiêm thì cảm thấy mình “như đang đi hỏng chân trên mặt đất”,
và cũng vì đọc được câu này mà anh đã tung ra một loạt tác phẩm mang
tên Hố Thẳm như Hố Thẳm Tư Tưởng hay Im Lặng Hố Thẳm chẳng hạn.
Không còn hồ nghi gì nữa, chính thứ ngôn ngữ kì lạ của Ganda đã cuốn
hút mãnh liệt để Phạm Công Thiện viết nên bài thơ có tên là Lên
Đường, cũng bằng thứ ngôn ngữ sấm sét như vậy. Thứ ngôn ngữ mà tôi
tin chắc rằng, không chỉ thúc giục anh lên đường mà có lẽ tất cả
chúng ta nữa. Ví dụ đoạn bốn trong bài thơ:
Chim Ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi Bồ Đề Tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Hay đoạn bảy:
Chim Ca Lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi Bồ Đề Tâm dậy
Sấm chẻ đứt: Kim cương
Nhưng trên đường đi, kẻ lữ hành không chỉ gặp “sấm sét nổ mười
phương” hay “sấm sét chẻ đứt: Kim cương” mà kẻ lữ hành còn bất ngờ
gặp những bông hoa xinh xắn, dịu dàng nữa. Có thể đó là đóa hoa
quỳnh:
Chim Ca Lăng kêu sương
Tôi sụp lạy thiên hương
Bồ Đề Tâm tăng trưởng
Bông quỳnh nở bất thường
Hoặc cây bông trang đang nở rộ :
Chim Ca Lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vách tường
Bồ Đề Tâm qui ngưỡng
Bông trang nở đầu đường
Hai đóa bông quỳnh và bông trang thơ mộng này chắc chắc Phạm Công
Thiện đã lên đường tìm kiếm từ lâu lắm rồi nhưng đến bây giờ anh mới
gặp được chăng?
Mười lăm tỉ năm qua
Từ vạn triệu sơn hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm quaPhạm Công Thiện vốn nổi tiếng giỏi ngoại ngữ nhất
là các ngôn ngữ Tây phương. Hồi mới mười sáu tuổi anh đã soạn Anh
Ngữ Tinh Âm Từ Điển. Việc thông thạo các thư tiếng Tây phương, chắc
chắn đã quyết định hướng đi cho anh. Ngoài hai tác phẩm Nguyễn
Du,đại thi hào dân tộc và Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử thì tất
cả các tác phẩm còn lại đều viết về các triết gia, văn hào và thi
hào trên thế giới. Vào những năm cuối đời, Phạm Công Thiện còn dịch
và viết nhiều về tư tưởng Phật giáo Mật Tông Tây Tạng nữa.
Vậy, Phạm Công Thiện có tự nói gì về con đường sáng tác của chính
mình? Tôi còn nhớ trong tác phẩm Ý Thức Bùng Vỡ anh đã biết một câu
như thế này:
Phải đẩy sự ly hương đến cùng độ thì mới biết thế nào là nỗi nhớ quê
hương. Vậy là chính anh đã tự nhận mình là kẻ đã “đẩy sự ly hương
đến cùng độ”. Bây giờ ta thử xem anh đã thể hiện “nỗi nhớ quê hương”
trong các tác phẩm của anh như thế nào?
Trước hết là quê hương theo nghĩa đen, nghĩa là nơi chôn nhau cắt
rốn. Phạm Công Thiện vốn chào đời bên Mỹ Tho bên dòng sông Cửu Long.
Đây là con sông hùng vĩ phát nguyên từ Tây Tạng trên đỉnh Hi Mã Lạp
Sơn. Trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn anh đã nhắc đến con sông với
đầy hãnh diện:
Cửu Long ca từ Tây TạngTuổi thơ anh cũng như bao trẻ thơ khác ở Mỹ
Tho đã từng bơi lội trên dòng sông này. Sau này lớn lên đi khắp thế
giới, mỗi khi có dịp ngồi nhớ lại tuổi thơ của mình, anh vẫn quả
quyết rằng, khắp thế giới không có nơi nào thơ mộng hơn cảnh tượng
này:
“Tuổi thơ tắm sông, ăn bần, khắp thế giới không có cảnh tượng nào
thơ mộng hơn nữa. Nó ngồi học lại từng tên cây lá, từng bông hoa quê
hương. Cuộc đời của nó được lớn lên giữa những đám dừa nước, bần,
lau, sậy, lác, dứa, vẹt, cóc kèn, ô rô”18.
Cũng giống như bất cứ một người Việt Nam nào khi rời bỏ thôn quê
sống ở thành thị đều luôn nhớ những con trâu trên những cánh đồng
hay trên nương rẫy của một thời tuổi thơ đã xa xôi:
“Ôi! Những con quạ đậu trên lưng trâu, ơi tuổi thơ nào đã bay mất
trên những con trâu già quê hương? Những con trâu Việt Nam, Những
con trâu Việt Nam”19.
Nếu một người nào đó suốt đời chỉ quanh quẩn nơi các thành phố của
quê hương rồi nhớ và kêu lên một cách tha thiết như vậy thì có lẽ
không làm cho ta xúc động nhiều. Nhưng một người như Phạm Công Thiện
hơn bốn mươi năm rời bỏ quê hương đất nước đã từng sống nơi những đô
thị tân tiến và hiện đại nhất như Paris, London, NewYork, Washington
hay Los Angeles… thì khi nhớ đến những con trâu già của tuổi thơ
trên quê hương thì chắc chắn phải làm cho anh bồi hồi và xúc động
hơn nhiều.
Và một điều vô cùng quan trọng hơn nữa là trong các tác phẩm của
Phạm Công Thiện mà hầu hết đều viết về các triết gia, văn hào và thi
hào trên khắp thế giới nhưng dường như lúc nào anh cũng để một vị
trí đặc biệt cho các Thiền sư, nhà văn hay nhà thơ của quê hương đất
nước.
Ví dụ trong tác phẩm rất quan trọng là Im Lặng Hố Thẳm (có thể là
quan trọng hơn cả ý thức mới trong văn nghệ va triết học), Phạm Công
Thiện đã mở đầu bằng hình ảnh của một Thiền sư đứng chót vót không
chỉ với tư tưởng Việt Nam mà còn cả tư tưởng của nhân loại nữa:
“Thiền sư Không Lộ thời Lý của quê hương một lần kia cô đơn bước lên
tận một đỉnh núi chót vót và sực kêu lên một tiếng bơ vơ làm lạnh cả
bầu trời xanh lơ đầy mây trắng. Dưới kia là hố thẳm hoang sơ, hố
thẳm của quê hương, niềm câm lặng của hố thẳm bỗng vọng lên Tính và
Việt: Triết lý Việt Nam ra đời, vỗ cánh bay lên như phượng hoàng để
rồi mười năm sau làm rồng bay vút trời nhân loại…
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Tiếng nói ấy, tiếng kêu trầm
thống ấy làm lạnh buốt cả bầu trời và xoáy vòng cuộn xuống hố thẳm,
xuống niềm im lặng của hố thẳm mà người xưa gọi là: “uyên mặc”20.
Phạm Công Thiện vốn rất say mê Vương Duy một đại thi hào vào thời
đại nhà Đường của Trung Quốc, đặc biết nhất là hai câu:
Nhất sinh kỷ hử thương tâm sự
Bất hướng không môn hà xứ tiêu
(Ở đời bao chuyện thương tâm
Không về cửa Phật biết làm sao khuây?)
Mà mặc dù Phạm Công Thiện đã tự trả lời hai câu trên của Vương Duy:
“Mặc dù tự hỏi như vậy, nhưng Vương Duy cũng thừa hiểu rằng Không
Môn nằm ngay giữa lòng thương tâm sự”. Nhưng quan trọng nhất trong
toàn thể thi nghiệp của Vương Duy theo Phạm Công Thiện vẫn là bài
thơ Lộc Trại: “Chỉ có hai chục chữ thôi mà Vương Duy đã linh hiện sự
bình yên bao la nhất trên tất cả những đỉnh cao của thi ca nhân
loại:
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản ảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
(Đỉnh núi trống vắng, không thấy người mà chỉ có nghe tiếng xa đồng
vọng, ánh nắng xế chiều đi vào rừng sâu, chiếu rọi trở lại trên vùng
rêu xanh).
Theo Phạm Công Thiện bài thơ này đã được nhiều
thi sĩ nổi tiếng trên khắp thế giới như Gary Snyder, Keneth Rexroth
hay Burton Watson dịch sang tiếng Anh nhưng quan trọng nhất theo anh
vẫn là nhà thơ Mễ Tây Cơ Octavio Paz người đoạt giải văn chương
Nobel vào năm 1990 dịch ra tiếng Tây Ban Nha và Octavio Paz còn “cho
rằng bài thơ trên của Vương Duy chiếu hiện lên thế giới Tây phương
tịnh độ của Đức Phật A Di Đà”21. Từ nhận xét trên của
Octavio Paz, Phạm Công Thiện viết một câu vô cùng quan trọng sau
đây:
“Nhận xét trên của thi sĩ Octavio Paz đáng được
chúng ta trầm tư, nếu chúng ta đủ sức mạnh tâm linh để lời nhận xét
của Octavio Paz trở về mấy câu kín đáo sau đây của đời Trần ở quê
hương, mấy câu bằng chữ Nôm đơn sơ mà đủ nuôi nguyên khí để nuôi
dưỡng mấy ngàn năm hiện thức tuyệt đỉnh của dân tộc: Tịnh độ là lòng
trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây Phương, Di Đà là tính sáng soi,mựa
phải nhọc tìm Cực Lạc”22.
Mặc dù tác phẩm Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc
hơn bốn trăm trang, nhưng theo tôi chỉ một đoạn ngắn sau đây của
Phạm Công Thiện cũng đủ nói lên hết tất cả sự vĩ đại của Nguyễn Du
đối với các thi hào của toàn thể nhân loại:
“Chỉ cần một cơn gió nhẹ thở và thổi qua rặng Vi
lô bên bờ Ái Nhĩ Lan bé nhỏ cũng đủ thay đổi trọn vẹn không khí thi
ca Anh Cát Lợi. Chỉ sáu chữ của Nguyễn Du cũng đủ làm xuất hiện một
buổi chiều trong những buổi chiều hoang vu nhất của Việt Nam:
Vi lô san sát hơi may…
Nguyễn Du đã lắng nghe hơi may, Yeats đã lắng
nghe hơi gió và Seamus Heaney cũng đã lắng nghe được hơi thở nào của
thiên địa lúc hồi tưởng lại những nơi chốn linh hiện của truyền
thống quê hương”23. Đây có phải là lòng tự tôn về dân tộc
của mình rồi phóng đại hay cường điệu lên không? Chắc chắn là không.
Với Phạm Công Thiện tổ tiên hay quê cha đất tổ luôn luôn là một cái
gì vô cùng thiêng liêng trong tâm hồn của anh:
“Con người chỉ biết nghe khi con người nghe được
tiếng nói thì thầm của tổ tiên mình đồng vọng từ bao nhiêu ngàn năm
từ suối nguồn núi cao cho đến cơn gió vèo qua rặng lau sậy dưới bãi
biển chiều hôm nay. Chiều hôm nay là tất cả buổi chiều trên mặt đất”24.
Phạm Công Thiện đã viết như vậy vào một buổi
chiều nơi tận địa đầu thế giới nghĩa là khi “ đã đẩy sự ly hương đến
cùng độ” nói theo cách nói của anh.
Còn một quê hương nữa mà ta không thể nào không
đề cập ở đây, đó là quê hương tâm linh. Như mọi tâm hồn lớn khác,
Phạm Công Thiện cũng suốt đời đi tìm kiếm một quê hương tâm linh của
chính đời mình, và quê hương tâm linh mà anh đã lựa chọn đó chính là
Phật giáo. Vì sao lại là Phật giáo? Trong tác phẩm Im Lặng Hố Thẳm,
nơi chương đầu có tên là Phá hủy biện chứng pháp Phạm Công Thiện đã
nói lên sự vĩ đại của Phật giáo khi để Phật giáo đối mặt với tư
tưởng Tây phương cũng như đạo lí Đông phương như thế này:
“Triết lý và văn minh Tây phương khởi đầu và chấm
dứt nơi của cái chết Jesus và Socrate. Triết lý và văn minh Đông
phương khởi đầu và chấm dứt nơi ngoài thành cửa Đông, lúc Khổng Tử
đứng tiều tụy và tự nói rằng mình giống như “con chó mất chủ”, lúc
Lão Tử cỡi trâu bỏ đi về phía Tây. Phật không khởi đầu và không chấm
dứt mà mở rộng phương trời cho khởi đầu thành khởi đầu và chấm dứt
thành chấm dứt”25.
Bởi vậy Phạm Công Thiện cho rằng, Phật giáo chẳng
những điều động “trọn vẹn cả tính mệnh Đông phương, mãnh liệt nhất
là tính mệnh của Việt Nam đặc biệt là từ thời Lý cho đến hôm nay” mà
Phật giáo còn “đứng nơi đỉnh của vũ trụ, đương thời và đồng thời với
sự bắt đầu của vũ trụ”.
Trong lời tựa cho tác phẩm Triết Lý Việt Nam Về
Sự Vượt Biên Phạm Công Thiện Viết một câu mà đọc lên tôi có cảm
tưởng là anh đã viết cho chính anh sau hơn nửa đời người lang bạt
khắp thế giới:
“Trong ý nghĩa khác, có người đột nhiên mới hiểu
tại sao Novalis gọi triết lý là nỗi nhớ đất mẹ, là cơn đau hoài
hương”26.
Cách đây gần đúng nửa thế kỷ, Phạm Công Thiện leo
lên đồi cao chùa Hải Đức (Nha Trang). Đây là ngôi chùa mà anh đã bắt
đầu cho cuộc lên đường tìn kiếm một quê hương vĩnh cửu cho chính đời
mình và cũng chính tại nơi đây anh đã từng trải qua những giấc mơ
tuyệt đẹp:
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Người em nào còn đứng bên cửa? Có phải đó là một
chốn quê mà anh đã vô tình đánh mất trên những nẻo đường lênh đênh?
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Và sau này dù anh đã rời bỏ đồi cao nhưng những
giấc mơ tuyệt đẹp ấy vẫn cứ nuôi dưỡng tinh thần cho cuộc đời của
anh:
“Nhưng đại dương có phải là một thực tại? Không,
đại dương là một giấc mộng. Thiền là một giấc mộng đặt trên một giấc
mộng”.
Và phải chăng cái mà Novalis (hay Phạm Công
Thiện) gọi là Đất Mẹ là cơn đau hoài hương ấy chắc còn đẹp bằng hay
hơn cả một giấc mộng đặt trên giấc mộng như một lần Phạm Công Thiện
đã phát biểu như vậy trong một bài tùy bút cũng đẹp chẳng khác gì
một giấc mộng có tên là Con Bướm Băng Qua Đại Dương.
Nha trang, mùa hè 2011.
2. Trang 36, NXB Trần Thi tại Mỹ 1998
3. trang 61-62,Xuất bản tại Mỹ năm 1996
4. Triết lý Việt Nam về sự vượt biên, Tr. 215,
Xuất bản tại Mỹ năm 1995.
5. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu… trang 96
6. Sdd tr. 216
7. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu, Tr. 7.
8. Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng,
tr. 164 NXB Phương Đông TPHCM 2009
9. Sđd. tr. 166
10. Đối Thoại Giữa Khoa Học Và Phật Giáo của
Mathieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, B. s Hồ Hữu Huân dịch,Tr. 67.
NXB Phương Đông TPHCM năm 2009.
11. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu…Tr. 71
12. Khơi Mạch Nguồn Thơ, Tr. 64
13. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu…Tr70 & 71.
14. H. T Trí Tịnh dịch
15. Triết Lí Việt Nam Về Sự Vượt Biên, Tr. 41 –
42.
16. Thiền Luận, quyển Hạ,Trang 270-271, Tuệ Sỹ
dịch NXB An Tiêm, Sài Gòn 1970
17. Sđd tr 202.
18. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu, tr. 298
19. Sđd tr. 25
20. tr 9-10 NXB An Tiêm, Sài Gòn 1967.
21. Triết Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên, tr. 216
22. Sđd, Tr. 216.
23. Khơi Mạch Nguồn Thơ…tr 15.
24. Sđd Tr. 12
25. Sđd Tr 25.
26. Sđd Tr. 8 |