Chùa nhỏ
ven rừng
Những ngày cuối năm thật giá rét. Lá vàng như những cánh bướm chưa
kịp đập cánh, đã phải tung bay rào rào theo những cơn gió bụi. Mưa
lất phất đến rồi đi, để lại trên mặt đường những làn nước mỏng. Cây
bạch đàn cao lớn phía sau nhà rung chuyển mạnh, tất cả nhánh lá cùng
xuôi về một hướng, phần phật reo lên tựa hồ một cánh buồm trong gió.
Hương bạch đàn phảng phất trong tiết lạnh mùa đông. Chợt nhớ những
ngôi chùa ven rừng.
Những ngôi chùa ấy, ẩn dưới những tàng cây tràm, bạch đàn và khuynh
diệp. Đây là những loại cây dễ trồng, phát triển rất nhanh nơi vùng
đất đỏ và đất pha cát ở vùng đông nam bộ nên hầu như các chùa đều
có. Từ một cây con trồng xuống, trong vòng ba năm, đã có thể cung
cấp cành khô làm củi. Lá tươi có thể dùng để nấu nồi xông, còn lá
khô cũng được gom để nhúm bếp thay củi. Cả một vùng mênh mông hầu
như nhìn đâu cũng thấy chúng, cho nên mùi bạch đàn luôn quyện trong
không gian. Ngửi mùi bạch đàn hôm nay mà nhớ chùa xưa ở ven rừng là
vậy.
Từ những năm đầu thập niên 1980, nhiều tăng ni từ các tỉnh thành,
lập chí ẩn tu, hoặc dấn thân hành đạo tại những nơi hoang dã, núi
rừng, hoặc vùng kinh tế mới, vùng kinh tế tự túc; từ đó, những ngôi
tịnh thất và chùa nhỏ được dựng lên. Đặc biệt Long Thành và Tân
Thành là hai huyện tiếp giáp nhau, thuộc tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa –
Vũng Tàu, tập trung nhiều tăng ni và chùa chiền nhất, đến nỗi vùng
đất này được xem như là đất lành, là “linh địa” của Phật giáo. Trong
vòng 30 năm, hàng trăm ngôi chùa, thiền viện, Phật học viện và tịnh
thất mới được thành lập. Các thiền viện lớn và có tiếng như Thường
Chiếu, Tịch Chiếu, Viên Chiếu, Linh Chiếu, Chơn Chiếu, Hiện Quang,
Liễu Đức, Hương Hải, Bảo Hải, Tuệ Thông, An Lạc… cũng tọa lạc trong
vùng “linh địa” này. Riêng trong khu vực Đại Tùng Lâm, ngoài ngôi
đại tự Vạn Phật Quang còn có 5 ngôi tự viện lớn khác (thiền viện Huệ
Chiếu, chùa Huê Lâm I và II, thiền viện Phổ Chiếu, thiền viện Viên
Thông) và trên 40 tịnh thất lớn nhỏ; trường Trung đẳng, Cao đẳng
Phật học Đại Tùng Lâm và Ni viện Thiện Hòa cũng được mở dạy ở đây,
đào tạo rất nhiều tăng ni sinh trong những năm qua.
Nhưng cảm giác nhớ chùa ở đây không phải là nhớ những ngôi chùa nguy
nga tráng lệ, hoặc những ngôi chùa được ghi vào sách kỷ lục Phật
giáo (với chánh điện lớn nhất nước, tượng Phật cao nhất nước, hoặc
quả chuông lớn nhất nước, v.v…) mà chỉ đơn giản là nhớ những cảnh
chùa tĩnh mịch nằm sâu ở ven rừng, cách xa quốc lộ, có gió rì rào
quanh năm, có mùi bạch đàn ngai ngái dìu dịu lan theo gió rừng, có
khói lam từ bếp chùa vươn lên như muốn hòa sắc với nền tím của buổi
hoàng hôn, và đâu đó trong vườn chùa có những chiếc võng mắc giữa
những thân tràm rợp bóng. Nơi đó, có những tăng ni lặng lẽ học đạo,
hành đạo và tiếp dẫn đàn hậu học; có những điệu tăng và những tiểu
ni đêm ngày công phu bái sám, học kinh, chấp tác, nhanh chóng trưởng
thành như cây rừng. Và nơi đó, có một ngôi chùa thật nhỏ, với diện
tích rất eo hẹp, mang tên Bửu Lâm.
Hơn hai mươi năm trước, một sư cô từ miền trung vào nam, chọn vùng
đất hoang sơ u tịch trong khu vực Đại Tùng Lâm, cất một thảo am nhỏ
để ẩn tu. Ngày ngày đạm bạc tương rau, tự túc sống và tu tập trong
hạnh thiểu dục tri túc nơi bìa rừng thanh vắng. Nhưng chỉ trong vòng
vài năm, đạo hạnh của sư cô cũng dần lan tỏa như hương rừng theo
gió, gieo duyên lành đến một số phật-tử gần xa, để rồi theo nhu cầu
tu học của đồ chúng, sư cô đã tiếp nhận sự cầu pháp của một số người
trẻ xuất gia, tạo thành một Ni chúng ngày một đông hơn, từ đó thảo
am sơ sài được chuyển mình thành chùa Bửu Lâm.
Chánh điện chùa Bửu Lâm được xây bằng gạch ngói, nhưng với tài chánh
eo hẹp và do vì đất của thảo am ngay từ khởi thủy vốn rất khiêm tốn,
nên không thể xây lớn. Diện tích chung cho cả ngôi chánh điện chỉ có
42 mét vuông (6m x 7m), trừ phần hành lang bao quanh, điện Phật chỉ
còn 15 mét vuông (3m x 5m), nhỏ như một cái am. Chính vì quá hẹp như
vậy, bên trong chỉ thờ duy nhất tôn tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni; mỗi khi có đại lễ hoặc bố-tát, sám hối, Ni chúng không thể tập
trung tất cả vào điện Phật mà một số phải lễ bái ngoài hành lang; và
dĩ nhiên phật-tử phải đứng ngoài trời.
Chánh điện nhỏ hẹp ấy trải qua gần 20 năm, cũng đã hư hoại nhiều.
Khi mưa xuống, mái bị dột, phải dùng thau chậu mà hứng nước. Những
lúc gió lớn, mưa tạt từ bên ngoài vào cả chánh điện, không chỗ nào
mà không ướt.

Vì đất chùa và chánh điện đều nhỏ hẹp, nơi cư trú và các sinh hoạt
lễ tụng, thọ trai, học hành, giảng thuyết… của Ni chúng và phật-tử
đến chùa đều bị giới hạn. Vào những dịp lễ lớn, phật-tử không có chỗ
để ngồi nghỉ chân và thọ trai, chùa phải trưng dụng hai chòi tranh
trong vườn chùa để cung ứng, vì trai đường chỉ vừa đủ dung chứa Ni
chúng.
Chùa nhỏ, đất hẹp như vậy mà Ni chúng ở đây đã có những lúc tập
trung đến 50 vị, tạo thành một đạo tràng trang nghiêm, nề nếp. Đó
cũng nhờ phẩm đức và chí nguyện hoằng pháp kiên trì suốt hơn 20 năm
qua của sư cô trụ trì, nay đã là Ni sư, với đạo hiệu Thích Nữ Như Ý.
Trong số 50 đệ tử xuất gia tu học tại chùa Bửu Lâm, hiện có 9 sư cô
theo học tại Vạn Hạnh (Học Viện Phật Giáo TP. HCM), 1 sư cô du học
Ấn Độ, 1 sư cô đang học tại Học Viện Phật Giáo Huế, 8 sư cô được
phân bố hoằng pháp tại các địa phương khác, và khoảng 30 sư cô (bao
gồm tỳ-kheo ni, thức-xoa ma-na và các sa-di ni) đang thường trú tại
chùa.
Để nuôi dưỡng hàng mấy chục đệ tử xuất gia trẻ tuổi trong bao năm
qua, Ni sư trụ trì đã hy sinh hầu như trọn thời gian của mình để sắp
xếp, hướng dẫn, điều hành mọi sinh hoạt của chùa, và đặc biệt là một
chương trình tự túc kinh tế lâu dài, không những để chăm nom cơm ăn
áo mặc (dù đạm bạc thô sơ của người xuất gia) cho Ni chúng, mà còn
phải lo cho việc học hành của đệ tử ở các trường gần-xa, từ tiểu học
đến đại học. Đây quả là một kỳ tích mà không ai tưởng được là một
ngôi chùa nhỏ đất hẹp, cách xa thị thành, lại có thể thực hiện nổi.
Kinh tế tự túc của chùa dựa vào hai việc chính: làm bánh (bánh ít,
bánh lọc, bánh chưng, bánh tét, v.v…) và đan len. Hàng ngày có giờ
chấp tác nhất định, thầy-trò quây quần gói bánh, nấu bánh, nơi trai
đường hoặc ở chòi tranh; có khi trong không khí ấm cúng nơi phòng
khách hoặc ni xá, thầy-trò bên nhau, cùng đan len, kể nghe những câu
chuyện thiền ý vị.
Nhưng chánh điện cũ của chùa, mái đã hư dột, tường vách rạn nứt, và
cũng không đủ sức dung chứa cho lượng Ni chúng lẫn phật-tử sinh hoạt
lễ bái hàng ngày. Vì vậy, từ ý nghĩa hoằng pháp cho đến thực tế cơ
sở vật chất, chánh điện Chùa Bửu Lâm thực sự là cần phải mở rộng,
phát triển. Nhu cầu hiện nay là xây ngôi bảo điện mới hai tầng, tầng
trên làm chánh điện thờ Phật, tầng dưới làm trai đường, cũng là hội
trường để thuyết giảng. Ni sư trụ trì không mong cầu xây cất một
ngôi bảo điện lớn đẹp nguy nga mà chỉ mong sao mỗi khi hành lễ,
không một sư cô hay tiểu ni nào phải bị đứng ở ngoài hành lang, nhất
là những khi mưa to gió rét; và khi phật-tử tề tựu đông đảo ở chùa
trong các dịp đại lễ, ít nhất cũng có nơi chốn cho họ được ngồi nghỉ
chân, dùng cơm chay dưới mái chùa ấm cúng. Đây là ước nguyện từ lâu
của Ni chúng và bổn đạo chùa Bửu Lâm, nay đã đến lúc cần phải thực
hiện, dù sẽ gặp muôn vàn khó khăn.
Ngôi chánh điện và hội trường tương lai, theo Ni sư cho biết, sẽ có
diện tích (tính luôn hành lang) là 187 mét vuông (với cạnh 11m x
17m). Tất nhiên với phương thức tự túc kinh tế của chùa như lâu nay,
việc xây cất ngôi chánh điện mới này là cả một công trình lớn, vượt
ngoài khả năng tài chánh của chùa. Nhưng theo nhu cầu thực tế mà
nói, đây không phải là ước nguyện gì xa xỉ, quá đáng. Chùa Bửu Lâm,
trong thời gian qua, đã có những đóng góp thật lặng lẽ nhưng xứng
đáng trong việc hoằng pháp và giáo dục, đối với phật-tử địa phương,
và đặc biệt là đối với Ni chúng hữu duyên nơi đây.
Một đạo tràng trang nghiêm đủ sức dung chứa Ni chúng và phật-tử
trong những khóa lễ và sinh hoạt tu học hàng ngày. Đây là ước nguyện
chân thành và chính đáng mà ai cũng có thể chia sẻ, cảm nhận được.
Kính mong sự gia tâm hộ trì và yểm trợ tài chánh của bạn đạo khắp
nơi.
Câu chuyện của chùa Bửu Lâm là như thế: chùa nhỏ, đất hẹp mà chứa cả
một khung trời đại nguyện. Đại nguyện của một hành giả từ ý chí ẩn
tu chuyển thành dấn thân tiếp chúng độ người; từ một chòi tranh để
sống thanh bần an vui với cảnh u nhàn tịch tĩnh, phải vì phương tiện
độ sinh mà ứng hiện thành ngôi đạo tràng mở rộng cánh tam quan.
Có thể xem đây là câu chuyện của mùa đông tôi kể quý vị nghe nhân
dịp xuân về.
Mùa đông, khi những cơn gió lạnh buốt thốc qua những hàng cây khô,
những cây tràm và bạch đàn lá vẫn xanh, vẫn kiên trì đứng đó, tỏa
hương theo gió. Có những ni cô trẻ rời xa gia đình, học hạnh xuất
trần, ngồi gói từng chiếc bánh, gói theo cả tấm lòng và niềm hy vọng
một mùa xuân an lạc cho nhân sinh. Có vị ni sư đã từng một thời ẩn
tích mai danh, nay ngồi xuống cùng các đệ tử, lặng lẽ đan những phẩm
vật bằng len, gửi vào đời hơi ấm của lòng từ bi và ước nguyện an cư
lạc nghiệp của muôn nhà.
California cuối năm 2011.
Vĩnh Hảo
---oOo---
Chùa Bửu Lâm đã được cấp giấy phép xây dựng số 54/GPXD ngày 06 tháng
7 năm 2011; và sẽ chính thức cử hành lễ đặt viên đá đầu tiên khởi
công xây dựng vào ngày 12 tháng 02 âm lịch năm Nhâm Thìn (nhằm ngày
Chủ nhật 04 tháng 3 năm 2012).
Mọi sự ủng hộ xin gửi về:
NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ Ý
CHÙA BỬU LÂM
Thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Điện thoại Chùa: (0643) 894164
Điện thoại di động: 0932033740
Chủ tài khoản: Võ Thị Hà Giang
Số Tài khoản: 76210000265265
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
Một vài hình ảnh của Chùa Bửu Lâm:

Trai đường chùa Bửu Lâm được dựng bằng lều, nền lót gạch hoa xin
được từ các xưởng đúc gạch ngói

Một buổi lễ cúng dường trai tăng tại chùa nhân Mùa Vu Lan

Chòi tranh để chư ni ngồi học hàng ngày,
khách thập phương nghỉ chân uống nước trong những ngày lễ lớn

Căn thiền thất dành cho hành giả phát nguyện nhập thất,
nay đã bị tốc cả mái tranh và vách, chưa kịp sửa chữa

Thầy-trò “đồng sự” gói bánh, tự túc kinh tế, nuôi chúng tu học


Đan len gây quỹ cho chùa cũng là một thực tập thiền định

Hình lưu niệm Ni chúng chùa Bửu Lâm


Ni sư trụ trì Thích Nữ Như Ý
Vĩnh Hảo
|
|
|
|