Thành
phố Konstanz,
ngày vui qua mau
Tháng
10 năm 1981, chúng tôi khoảng ba mươi người, từ trại chuyển tiếp
Göppingen về trại tị nạn „Meßhotel“ ở thành phố Konstanz. Thành phố
nằm trên bờ hồ rộng lớn Bodensee, ráp gianh với vùng đất sương mù
Thụy Sĩ.
Để chuẩn bị tình thần cho người Việt tị nạn sẽ về Konstanz, ông
trưởng trại Göppingen nói sơ qua cho biết Konstanz là một thành phố
du lịch nổi tiếng ở miền nam nước Đức, nhờ cái hồ rộng lớn có tên là
Bodensee. Nghe ông nói lòng tôi cũng thấy có phần nào hân hoan. Về
một vùng đất mới để định cư mà không biết ít nhiều trước đó về nó âu
cũng làm lòng người dao động, nao nao. Mặc dù ở Tây Đức này, đâu đâu
cũng vậy, cũng giống nhau, cũng được chánh phủ lo cho đầy đủ.
Trong thời gian này, từ trại Göppingen ra đi, ngoài trại Konstanz,
còn có các nhóm người Việt tị nạn khác đến Pforzheim, Plattenhart.
Không biết ngày tiễn đưa nhóm người này đi ông trưởng trại ở
Göppingen đã khen những nơi đến của họ như thế nào, chớ ngày tụi tôi
lên đường đến Konstanz chỉ nghe ông khen thành phố này, không nghe
thấy một lời „nói ra“.
Đến Konstanz vào lúc tháng 10. Buổi sáng sương mù đã giăng đầy. Mãi
trưa mới tan. Ngày nào hình như cũng vậy. Cũng sương mù phủ trùm
trên những những con đường, dãy nhà và những hàng cây hai bên đường.
Thời tiết bên ngoài giá lạnh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi hân
hoan vui vẻ và choáng ngộp với bầu trời thiên nhiên và cái hồ rộng
lớn của thành phố Konstanz.
Một năm trước đó đã có một nhóm người tị nạn VN đến đây rồi. Nên
người dân bản xứ đã biết qua người Việt. Khi chúng tôi đến, những
người Việt đến trước đã giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình, nên chúng tôi
cũng không đến đổi quá ngỡ ngàng trong những ngày đầu vừa đến. Bưu
điện ở đâu, nhà thương chỗ nào, siêu thị nơi nào rẻ... dần dà chúng
tôi đều biết hết.
Ôi những ngày tháng đầu đời của một thanh niên 27 tuổi nơi vùng có
sương mù buổi sáng và chiều chiều đã có làn không khí se se lạnh,
vùng của lá vàng treo trên những cành cây trong mùa thu, vùng Tây
Âu, Thụy Sĩ của tuyết trắng …, của những tháng ngày mơ mộng thời đi
học chỉ được nhìn thấy qua lịch treo tường, thì đây, hôm nay anh ta
đang đi trên những vùng ấy!
Một người Đức gây „ấn tượng“ cho tôi khi tôi vừa đến thành phố
Konstanz không phải là ông Đức làm việc trong trại tị nạn. Cũng
không phải là bà lo việc xã hội người Đức có văn phòng ngay trong
trại, mà là cô nhân viên ở Bưu Điện Konstanz. Nhớ lúc tôi đến để xin
gửi một bức thư về Việt Nam, báo tin chúng tôi vừa về một trại tị
nạn mới nằm cạnh nước Thụy sĩ, trại tị nạn lại là một Hotel cũ,
nhưng còn rất đẹp, cô mặc chiếc áo trắng, khăn quàng cổ màu vàng.
Chúng tôi nói vài tiếng Đức bập bẹ đã học được từ hồi ở Phi, do vợ
chồng bác sĩ Minh và ca sĩ Kim Loan giảng dạy, khi hai ông bà đi làm
công tác xã hội bên đó. Tiếng Đức chúng tôi bập bẹ nhưng cô nhân
viên bưu điện vẫn tươi cười chỉ dẫn chúng tôi. Ôi công chức nhà nước
Đức được đào tạo là để phục vụ nhân dân thật đúng nghĩa của nó!
Chỉ khoảng một tháng sau ngày đến trại chúng tôi cũng phải vào lớp
học tiếng Đức. May mắn thay, trại tị nạn là một Hotel cũ, có rất
nhiều phòng lớn, nên chúng tôi học ngay trong Hotel. Một lớp sáng,
một lớp chiều. Các em nhỏ khổ hơn chúng tôi nhiều vì sáng sáng đã
phải đội sương đi ra ngoài để học trong các trường trung học của Đức
như trẻ em bản xứ. La tha, lếch thếch đầy mũ áo mùa đông, cộng cái
cặp quảy trên lưng trông các em cũng rất tội nghiệp. Vậy mà khi
trưa, tan học, về đến trại mặt mày đứa nào cũng hồng hào, vì đã đi
bộ thể dục một đoạn đường.
Cuối tháng 11, tuyết bắt đầu rơi nhẹ. Chúng tôi đi xuống phòng
Caritas xin áo quần mùa đông. Ai không tìm được quần áo vừa ý thì đi
mua. Hình như mùa đông lần đầu trên xứ Đức, chúng tôi ai ai cũng đều
mặc áo lạnh của Caritas. Nhưng mặc dù là áo của Caritas, của „xã
hội“ nhưng còn rất được. Còn tiền sỡ Xã Hội cho để mua quần áo mùa
đông mới, chúng tôi đã dùng để mua đồ đạc gửi về nuôi thân nhân ở
Việt Nam. Viết Bic, hộp quẹt gas, kem đánh răng, bàn chải, xà bông,
vải…, chúng tôi tiếp tế đều đều bằng tiền trợ cấp của nhà nước Đức.
Có nhiều anh sống một mình cứ mua cánh gà để ăn, hỏi ra mới biết anh
để dành tiền để gửi những thùng đồ về VN cho vợ bán lấy tiền nuôi
con.
Ngày tuyết rơi đầu tiên, chúng tôi đứng từ cửa sổ của Hotel nhìn ra
bên ngoài xem tuyết. Lần đầu tiên trong đời thấy tuyết! Nỗi hân hoan
như vừa nhận món quà. Những lần sau đó cũng bắt đầu „chơi“ với
tuyết, cũng từng té ngã ngữa trên đường vì tuyết (đóng băng). Tôi đi
xe đạp bị té hà rầm. Ngày ấy còn trẻ, té cũng chẳng sao, đứng dậy
lau lau, phủi phủi rồi lên xe đạp tiếp. Bây giờ, già rồi, chắc té là
khổ!
Sau Lễ Giáng Sinh và Tết Tây đến gần cuối mùa đông ở Đức thì ở quê
nhà VN là mùa Tết. Chúng tôi cũng tổ chức một cái Tết Tha Hương ngay
trong phòng khánh tiết của Hotel. Tụ họp người Việt cũ, mới, ở trong
và ngoài Hotel. Mời mọc những ân nhân, bạn bè người Đức. Làm „văn
nghệ văn gừng“ xôm tụ. Cũng có bánh tét bánh chưng. Cũng có Xuân Tha
Hương hay Mùa Xuân Này Con Không Về từ những giọng ca tài tử.
Mùa đông lạnh lẽo đầy sương tuyết rồi cũng qua, để nhường cho mùa
xuân đến. Tiếng chim kêu buổi sáng bắt đầu trên những cành cây. Nụ
non hé mở. Màu xanh đã trở về và không khí dịu mát. Mọi người thở
phào nhẹ nhõm vì đã chịu qua mùa đông đầu tiên trên xứ Đức, có khi
lạnh xuống dưới 10 độ âm là chuyện bình thường. Lớp học vẫn tiếp
tục. Ngày vẫn đi qua trên những niềm vui nỗi buồn của người xa xứ.
Đêm về vẫn với những điệu nhạc lời ca Việt Nam từ chiếc cát-sét nhà
ai trong Hotel: Cho tôi được một lần nhìn hoa rơi đầu ngỏ, một
lần nhìn nắng ấm lên ngôi, một lần dìu em sang nhà mới, tình ta muôn
ngàn lối…Cho tôi được một lần nhìn quê hương ngời sáng… Nghe
đoạn nhạc rồi nghĩ về hoàn cảnh nước VN trong hiện tại thấy lòng
ngao ngán.
Khi xuân đến trọn vẹn, mang làn gió mát vào những buổi sáng cuối
tuần, không còn sợ lạnh, chúng tôi cũng tụ năm tụ ba, rủ nhau đi đá
banh với những đội bá banh của người Thổ, hoặc đá với những đội đá
banh của người Việt ở những trại tị nạn nơi khác đến. Tiếng reo hò
khi vào khung thành địch cũng làm cho đội đá banh với toàn thành
phần trẻ hưng phấn. Người VN tướng tá nhỏ hơn người Thổ, nhưng được
cái là đi banh hay hơn, nhanh hơn và lừa banh thì số một. Người Thổ
thì to lớn, mạnh bạo nên khi đụng vai với họ thì thanh niên mình hay
té nhào, còn các ông thần này đứng vững như trụ đồng, nhưng bù lại
mình đứng dậy rất nhanh, lại tiếp tục theo banh, chạy tiếp. Kết quả
thường là huề. Dĩ hoà di quý.
Những ngày xuân, cuối tuần, khi chiều xuống, chúng tôi hay đi dạo
dọc bờ hồ. Vợ chồng tôi đẩy chiếc xe có thằng con nhỏ sáu tháng tuổi
và có cả ghế ngồi cho đứa con trai lớn hơn em nó mười bốn tháng trên
xe. Trời xuân, trong buổi chiều, mặt hồ Bodensee rất đẹp. Những
chiếc phà, những du thuyền màu trắng chở xe chở người chạy đi chạy
về từ Konstanz qua thành phố Meersburg, Friedrichshafen, Lindau… và
ngược lại, xuyên suốt hết mùa đông, nay đến xuân, vẫn tiếp tục làm
việc như không bao giờ có thì giờ để nghỉ. Mặt hồ trong xanh, nguồn
nước từ sông Rhein xuất phát trên dãy núi Alpen đã tồn đọng tại đây
thành một hồ nổi tiếng ở Âu Châu, tiếp giáp ba vùng đất nước Đức,
Thụy sĩ và Áo. Những chiếc thuyền buồm, thuyền máy nho nhỏ chạy đều
trên mặt hồ. Dọc bờ hồ đầy những con ngỗng trắng khổng lồ chờ ăn
bánh mì từ những khách lãng du.
Khi mùa hè đến, lúc nước hồ bớt lạnh, chúng tôi có dịp cùng người
địa phương, khách du lịch bơi lội trong hồ, rất vui. Có những bãi
tắm, trưa hè, rất đông người. Bên kia hồ, Thụy Sĩ, ngày hè nổi lên
những dải sườn đồi màu lá cây rừng.
Đảo Mainau nổi tiếng ở Konstanz chúng tôi cũng vào thăm ngay khi
ngày hè vừa đến. Những con thú bông khổng lồ được đan kết (bông
trồng lên những khối đất hình con thú như thiên nga, lạc đà, voi…)
với nhiều màu sắc thật đẹp. Người người tấp nập. Áo hoa đủ màu. Đứng
ở ngôi nhà cao nhất trên đảo Mainau sẽ thầy toàn bộ cảnh hồ
Bodensee. Nước màu trong xanh và những cánh buồm. Tàu lớn tàu nhỏ
xuôi ngược, để lại sau lưng những đường sóng trắng nhấp nhô, kéo
dài.
Rồi mùa hè cũng qua, xuân lại đến, đông sang, Konstanz lại chìm ngập
trong sương mù. Sau này, sau những năm tháng đi đây đi đó trên toàn
nước Đức, tôi chưa bao giờ thấy nơi nào có sương mù dày đặt như ở
Konstanz. Sương mù đem ướt át, đem nỗi buồn, đem giá lạnh trong mỗi
buổi sáng, nhưng bù lại Konstanz lại có cái hồ thật đẹp. Sự san sẻ
của tạo hóa thật công bằng.
Nhưng dần dà chúng tôi, những người tị nạn, cũng phải rời bỏ
Konstanz, chỉ vì công ăn việc làm. Konstanz là thành phố du lịch,
không có hãng xưởng nên những người cần công việc làm đều phải đi về
nơi khác: Freiburg, Singen, Reutlingen, Stuttgart, Schondorf …v.v…
Dù xa Konstanz, nhưng mỗi năm, khi hè đến, chúng tôi lại rủ nhau
chạy xe về Konstanz, tắm hồ Bodensee; đi trên con đường rừng dọc bờ
hồ để nhớ lại ngày nào, những ngày mới đến xứ lạ, thênh thang trên
những con đường rừng, mà nơi đó, mùa hè, người ta „FKK“ bình thường
thả cửa, mặc mình cứ mắc cở, họ cứ thản nhiên đu cây như khỉ, chơi
bóng chuyền tập thể, phần trên phần dưới đong đưa, nằm phơi mình
trên cỏ, họ như sống giữa thiên nhiên không có loài người hiện hữu.
Sau một năm rưởi trên nước Đức, lần đầu tiên trong đời tôi mua một
chiếc xe hơi cho riêng mình! Một chiếc xe Opel cũ, giá 800 D-Mark.
Mua xe một phần là vì lúc đó tôi đang theo học một lớp tiếng Đức của
cơ quan Otto Benecke Stiftung, ở thành phố Heilbronn, cách Konstanz
khoảng 200 KM. Khi gia đình tôi nhận được một căn nhà riêng bên
ngoài, không còn phải ở chung trong Meßhotel nữa, cứ đến chiều thứ
sáu tôi về lại Konstanz. Vừa thăm vợ con vừa lo cho căn nhà mới. Đã
ba bốn tháng cứ đi đi về về bằng xe lửa, thấy bất tiện quá nên đã
tìm mua xe hơi. Quả thật mua xe hơi thật tiện vô cùng. Chiều cuối
tuần tôi đã có mặt ở Konstanz với gia đình. Chiều chủ nhật cứ tà tà
chạy về trường cũ, không quá bận rộn như lúc còn đi xe lửa. Vài anh
em ở có gia đình ở Konstanz, về Heilbronn học như tôi, cũng hay tháp
tùng, cùng chia tiền xăng với tôi để lên đường về quê hương
Konstanz, xum họp gia đình sau một tuần „đi học“ xa.
Có xe hơi rồi cuối tuần tôi mới chở được gia đình đi chơi xa như đến
Überlingen, Meersburg, Ravensburg và qua cả xứ của hồ, núi: Thụy Sĩ.
Nhưng xa nhất lúc đó cũng chỉ là thành phố Zürich, cách Konstanz
khoảng 60 KM, chớ xe cũ tôi không dám chạy xa hơn. Hình chụp hai đứa
con trai nhỏ ngồi „oai vệ“ trên mui chiếc xe Opel cũ, màu vàng, tôi
và bà xã đứng bên cạnh, thỉnh thoảng nhìn lại tôi thấy thời gian ấy
quả là „thời vàng son“ của người tị nạn CS vừa đến từ VN. Chỉ đi
học, gia đình có nhà nước nuôi, vậy mà còn có xe! Nhưng nói „dzậy
chớ không phải dzậy!“ Vì khi học ở Heilbronn, mỗi tháng cơ quan từ
thiện Otto Benecke Stiftung chỉ cấp cho chúng tôi mỗi đầu người 600
D-Mark. Số tiền này đủ để tôi tiêu xài ăn uống và gửi về tiếp tế bà
già và gia đình các chị còn đang ở VN, nên tôi đâu có đủ tiền lo cho
chiếc xe, và xăng nhớt…, vì thế tôi đã xin vào làm công nhân hút bụi
trên những chiếc thảm trong khu bán quần áo, mỗi chiều chiều 2 tiếng
đồng hồ, trong một siêu thị ngay giữa phố chính của thành phố
Heilbronn. Làm khổ nhưng vui vì có tiền trang trải cho chiếc xe hơi.
Nhưng số chiếc xe Opel cũ cũng không ở lại với tôi được lâu! Chạy
đâu được 5 tháng, khi mùa đông đến, nhiệt độ xuống đến trừ 10 độ,
sáng ra đề máy xe không chạy, tôi lên phòng kêu thêm mấy người bạn
cùng học xuống đẩy phụ dùm. Đẩy một hồi mệt lã người, xe chạy đâu
không thấy, chỉ thấy nước dưới bụng xe chảy ra ào ào. Ông Hausmeiter
của trường ra thấy ổng kêu mein Gott, trời ơi! Kết quả là bể máy xe,
vì nước đã đóng thành băng trong các bộ phận máy. Chỉ vì tôi không
biết trước để đổ thêm nước Frostschutz vào khi trời quá lạnh, nên
chiếc xe đã thực sự từ giả tôi và từ giã luôn các con đường. Xe hơi
mà bể máy thì xem như „giã từ vũ khí“. Sau đó ông Hausmeister đã
giúp tôi gọi ADAC tới kéo xe về nghĩa địa xe. Tôi phải trả tiền kéo
đến 50 D-Mark!
Khoá học hết, tôi về lại Konstanz bằng xe lửa, y như lúc lên, nhưng
lại thấy vui vô cùng, vì được „đoàn tụ“ lại với gia đình sau một năm
„đi học“. Tôi bắt đầu đi xe đạp trở lại, nhưng lần này không phải
một mình như trước đây hơn một năm, mà có hai thằng con trai, đứa
trước, đứa sau trên ghế ngồi chắc chắn. Mùa hè, ba đứa tôi tung
hoành trên các nẽo đường ở Konstanz, nhưng khi đông vừa đến tôi dẹp
xe đạp ngay vì sợ cả ba cha con có thể té sãi sòng ngoài đường khi
bị trượt té, như những lần tôi bị trượt một mình trước đây. Đi bộ
chắc ăn hơn.
Ôi Bodensee của Konstanz, của Đức, Thụy sĩ, Áo một thời đã qua.
xxx
Mới đây lại một lần nữa tôi về lại Konstansz để thăm một người thân.
Tôi cho xe chạy trên con đường Stein, có trại tị nạn „Meßhotel“ ngày
nào. Những người xưa nơi đâu, nhưng cảnh cũ còn đây. Trời vừa vào
xuân, những nụ non đã ra đầy trên những cành cây. Con đường này, 29
năm trước, tôi đi đi về về, nay không thay đổi nhiều lắm. Vẫn khu
chung cư, vẫn những hàng cây…cho những nhánh tàng che mát cả con
đường. Meßhotel vẫn còn đây, nhưng đã cũ lắm rồi. Hình như vẫn còn
cho những người tị nạn từ các nước khác đến ở, vì các cửa sổ có gắn
Satellit. Thường các trại tị nạn, người tị nạn hay làm như vậy để
xem những băng tần truyền hình từ quê nhà: Afika, Kurden, Iran…
Rời con đường Stein, tôi chạy qua con đường có khu chung cư, nơi gia
đình tôi ở cách đây 29 năm. Ba dãy nhà to lớn vẫn còn nằm song song
đó. Vẫn còn đẹp, chắc do sự tu bổ thường xuyên của chính quyền thành
phố. Khu chơi cho trẻ em ở trước các dãy nhà vẫn y nguyên như ngày
nào: Bãi đất trống, những chiếc ghế xích đu màu xanh đỏ…. Nhìn mảnh
đất nhỏ bé này tôi nhớ đến ngày nào, khi con còn nhỏ, cứ chiều chiều
tôi hay dẫn các con xuống đây để cho chúng nó chơi. Tôi chỉ ngồi
trên ghế xích đu nhìn, mặc các con vọc đất chơi cho thoả thích với
trẻ con Đức. Trong khi má tụi trẻ đang lo nấu ăn chiều trên nhà.
Thỉnh thoảng một người Đức đi ngang tôi cất tiếng chào Guten Abend,
lịch sự, vì toàn là những người hàng xóm. Sau đó nhìn lại mảng trời
xanh trong nắng chiều và ngọn những cây đang dao động. Lòng trầm
xuống trong cuộc đời tha hương. Chung quanh xa lạ. Cố hội nhập cho
qua ngày. Quê hương xa vời vợi. Hành trình trên xứ người còn đang
trước mặt. Chưa biết ngày sau sẽ ra sao. Kỵ nhất là khi ngồi đây tôi
gặp ông Đức già ở tầng dưới, ngay dưới nhà tôi. Cứ trưa chiều, khi
các con trong nhà chạy giỡn, phá giấc ngủ trưa, ông hay lấy gậy thọt
lên trần nhà ông kêu bộp bộp: cảnh cáo mấy đứa nhỏ chạy nhảy bên
trên. Thỉnh thoảng ông tự đi lên, gỏ cửa than phiền. Vì sợ vậy nên
cứ chiều, đi làm về là tôi đem các con xuống sân chơi ngay, để khỏi
mích lòng hàng xóm. Gặp ông trước sân chơi cố gắng lắm tôi mới gượng
gạo chào được ông. Trong khi ông nhìn mấy đứa nhỏ cười cười. Bây giờ
các con đã lớn. Mỗi đứa mỗi ngả, tự ra đời bương chải, tự làm kiếm
sống, thỉnh thoảng cha con mới gặp lại nhau.
Sau 29 năm bây giờ có lẽ ông bà hàng xóm đã chết rồi. Mọi phiền hà
với người hàng xóm VN chắc ông không mang theo vào lòng đất để làm
gì. Và các con cũng không bao giờ có dịp gặp lại ông. Gặp lại cái
ông già khó tính.
Hồ Bodensee vẫn mênh mông như muôn đời. Cứ khi gặp hồ, nhìn hồ, tôi
lại nhớ đến biển quê hương. Khoáng đạt rộng lớn. Không gò bó chật
hẹp. Trời đã vào xuân, sắp hè nên thấy ít sương trên mặt hồ. Thành
phố đã cho xây thêm một chiếc cầu mới để bắt ngang sông. Cầu thênh
thang, rộng lớn. Giúp chiếc cầu cũ, nhỏ bé. Giải quyết được lượng xe
lưu thông qua lại ngày càng nhiều. Chiếc phà, chúng tôi dùng qua lại
ngày nào, chắc nay đã bị dẹp.
Một thời gian dài đã qua. Nhiều người thân từ VN đã mất. Cha mẹ mất.
Bạn bè vài người bằng tuổi nhau ở đây, ở bắc Mỹ, ở VN cũng đã vào
lòng đất. Nỗi sinh diệt u hoài. Đôi người bạn gái thời đi học ở VN
đã già yếu, bịnh hoạn, nghèo, ung thư… cần sự giúp đỡ, cũng không
thể làm tròn dù lòng rất muốn. Nỗi buồn riêng cho một con người cũng
là nỗi buồn chung cho cả đất nước. Một dân tộc, một đất nước chưa
thấy lối nào hay để thoát ra! Bế tắc, mà ai cũng thấy!
Và như bao người, tôi cũng phải tiếp tục ngày qua ngày, sáng đi
chiều về, quay cuồn trong xã hội Đức. Nhưng được cái là vẫn có niềm
vui từ gia đình, bạn bè, văn thơ… Vui để sống.
Vũ Nam (Germany)
|