Cô giáo
viên và anh trưởng phòng thương nghiệp
Năm 1979, sau khi về dạy trường cấp 1, 2 xã A, huyện B được một năm,
Thành nhận được một lời mời dự lễ Tuyên Bố kết hôn của cô Du, giáo
viên cấp 1. Thời ấy, tuổi từ hai mươi mốt đến hai mươi lăm, giáo
viên nam nữ cặp bồ cặp bịch với nhau nhiều lắm, nhưng tất cả đều
"tình trong như đã mặt ngoài còn e". E đây là vì không ai dám làm
đám cưới, lễ Tuyên Bố gì cả. Cứ cặp nhau cho vui, còn chuyện lập gia
đình cứ phải chờ.
Cảnh mua
bán tại một quầy hàng mậu dịch Nhà nước.
Năm 1979 là năm Việt Nam đói rã rời ai cũng biết. Ở miền Đông Nam
phần của Thành còn đói bạo hơn nữa, vì do "ngăn sông cấm chợ", lúa
gạo miền Tây nào được về đây. Thành ra vùng miền Đông này có gì ăn
nấy: cơm, bo bo, nần, bắp, khoai mì, khoai lang, bột mì Liên Xô,
chuối, ổi, vú sữa, mít, v.v... Cứ đói có gì đem nhét đầy bụng là
được rồi. Không có gì khổ bằng những người giáo viên xa gia đình,
dọn đến những nơi ở tập thể giáo viên, để làm nghề dạy học trong
thời gian này.
May mắn cho Thành, nhà anh chỉ cách trường 5 cây số, nên anh vẫn
sáng sáng trưa trưa xe đạp đi, về. Còn những thằng bạn người Bắc bảy
mươi lăm, người miền Trung, Sài Gòn mới thật là khổ. Một tháng 55
đồng, 13 ký gồm gạo ba bốn ký, còn lại là bobo và khoai mì. Tiêu
chuẩn bồi dưỡng: đường nửa ký, sữa một hộp, lave hai chai (thỉnh
thoảng mới có), nếu có xe Honda được thêm vài lít xăng (thỉnh thoảng
mới có). Tiêu chuẩn như vậy ai cũng thấy là khổ rồi, vì bấy giờ phở
bình dân, loại dở nhất, cũng đã ba đồng một tô. Còn ngon nhất thì
thú thật lúc đó bọn giáo viên nghèo như Thành không có thằng nào dám
thử.
Thành đi dạy học, sáng sáng được nhà cho một ít cơm trộn khoai vào
trong lon Guigoz, trên mặt để một miếng cá chiên nhỏ. Đó là tiêu
chuẩn ăn trưa. Bỏ lon guigoz vô cặp, đôi lúc Thành nhớ lại thời nhỏ,
thấy các anh chăn bò, trưa trưa, ngồi dở mên cơm ra ăn, cũng tiêu
chuẩn y chang như vậy. Đúng là giáo viên lúc này khổ bằng mấy anh
chăn bò trước đó hai mươi năm. À quên, lúc đó mấy anh chăn bò ăn
toàn cơm trắng, không có độn khoai lang khoai mì như bây giờ.
Buổi trưa sau giờ dạy học, trời miền Nam nắng quá, chưa có vợ con,
nên Thành ít có lật đật đạp xe về nhà như những đồng nghiệp đã có
gia đình. Anh ở lại, vào nhà ăn tập thể ăn trưa với các bạn giáo
viên cho vui. Chiều, trời mát mới đạp xe về. Thú thật, lúc đó chỉ
thấy mấy thằng bạn dân Sài Gòn này ăn mỗi tháng có ba bốn lần cơm,
còn phần nhiều là ăn bo bo, thậm chí năm bảy bữa, buổi trưa chỉ có
ăn khoai mì luột chấm muối trắng! Nhưng phòng tập thể bên cạnh, dành
cho các cô giáo, hình như các cô ăn tử tế hơn, vì nữ nên ít ăn, ít
tốn, với lại các cô không có tiêu sài vụ cà phê, thuốc lá như đồng
nghiệp nam, nên các cô còn tiền để mua gạo.
Khu tập thể có một chị công nhân viên tên Pho nấu cơm cho giáo viên.
Nhưng chị chỉ nấu cho nam. Các cô giáo không muốn làm phiền chị, tự
nấu riêng. Chị Pho quanh năm suốt tháng mặc bộ đồ bà ba đen, dù chị
không phải dân trong rừng mới ra. Chị hút thuốc dấn liên miên, nhưng
chị hay cười nên đưa nguyên hàm răng đóng khói vàng như những đàn
ông hút thuốc lá ở nhà quê, và cứ trưa trưa chiều chiều chị đều cho
giáo viên tập thể ăn món cá trít kho. Kho triền miên chiến.
Ăn xong mấy thằng thầy giáo rủ nhau ra quán đầu đường kêu nước đá
nhận uống để cơ thể có thêm chút ít đường. Còn các cô giáo đời nào
dám đi, dù tụi Thành có rủ cách mấy. Trái cây tráng miệng thì hình
như rất hiếm thấy. Thỉnh thoảng có bác hàng xóm phụ huynh học sinh
nào đó được mùa tốt bụng nấu cho nồi chè, thì lúc đó nam nữ giáo
viên mới có dịp ngồi ăn chè chung.
Trở lại vụ mời « đám cưới ». Chị Du, lớn hơn tụi Thành năm sáu tuổi.
Người miền Nam từ hồi nào đến giờ. Nhan sắc chị trung bình, được một
điều chị hiền thục, từ tốn. Trong trường chị không nổi cũng không
chìm. Không hiểu sao, đến lúc ấy chị vẫn chưa có chồng, trong khi
tuổi chị thường các cô đã có chồng ít ra một hai năm rồi.
Thấy chị hiền, nhưng lanh, biết lo nên ban giám hiệu và Công Đoàn
trường cử chị lo về chuyện mua, lãnh nhu yếu phẩm cho công nhân,
giáo viên. Thỉnh thoảng chị trực tiếp nhờ, hoặc trường phân công,
Thành cũng đi lãnh hàng với chị ở Phòng Thương Nghiệp huyện.
Vào căn nhà to lớn, thời trước dùng để cho Cảnh Sát Dã Chiến, như
bao người khác, chị Du cũng phải xếp hàng để trình Sỗ Mua Nhu Yếu
Phẫm. Ở bàn ngồi, anh cán bộ tuổi trung niên, tên Hải, người Bắc mới
vào Nam sau ngày ba mươi tháng tư, đang duyệt sổ sách để ký giấy cấp
hàng. Nước da anh ngâm đen, má anh hõm, nhưng hàm răng trắng. Trông
anh cũng được. Không đẹp không xấu. Anh hiền, không hách dịch, tra
hỏi. Thời này, ghế ngồi này hái ra tiền. Sữa, đường, bột ngọt, bột
mì…dư, tồn kho. Nhứt thương nghiệp, nhì…gì ? Lâu quá rồi, quên
mất ! Sổ được duyệt xong, Thành và chị Du đi đến kho để lãnh hàng,
khệ nệ chở về phân phát cho giáo viên. Mồ hôi chị Du lấm tấm trên
trán, thấm trên áo bà ba. Về đến trường chị sắp đồ đạc ra trên bàn.
Khổ nhất là thấy các chị ra chia từng phần nửa ký đường và những
nhúm bột ngọt. Hai mươi lăm giáo viên là hai mươi lăm bịt nửa ký
đường và hai mươi lăm nhúm bột ngọt. Đường cát còn dễ chia, chớ bột
ngọt thật khó vô cùng, ly ti, chẳng lẽ đếm từ hột. Nhưng được tiếng
là giáo viên miền Nam, ngày đó, dù phải chịu cảnh mới Quốc Doanh,
bao cấp, tem phiếu, nhưng không ai vì một chút đường một chút bột
ngọt mà lời qua tiếng lại. Cùng một cảnh bên trời lận đận, thương
nhau không hềt ai nở vì một chút miếng ăn do nhà nước ban phát mà
gây gổ với nhau. Lãnh 1 hộp sữa thì lúc nào Thành cũng bán để lấy
tiền xài chỉ trừ khi nào trong nhà có người bịnh, lãnh xăng thì để
dành cho chiếc xe Honda cũ khi cần chạy, còn thỉnh thoảng họa hoằn
được 2 chai lave loại trái thơm, con cọp, thì Thành cho ông già để
gọi là trả hiếu. Nửa ký đường cát thì giao cho bà già. Công cha mẹ
làm lụng nuôi con ăn học, giờ ra đi làm cũng phải có gì trả hiếu cho
ông già. Nhưng ba cái cho này như muối bỏ biển.
Hôm dự lễ Tuyên Bố ở nhà chị Du, lần đâu tiên Thành mới biết nhà
chị. Nhà không xa đường cái lớn, nhưng muốn vào phải đi trên bờ đê
đám ruộng. Bờ đê này để đi bộ chớ không phải để đi xe đạp, hoặc xe
hơi. Lạng quạng, không chú ý có thể bị trược chân ngả xuống vì đường
trơn trợt. Ruộng mùa này vừa cấy xong, nước săm sắp, màu mạ xanh
tươi. Ngôi nhà chị là căn nhà nhỏ lợp tôn, vách dán. Chị sống với
một mẹ già. Cha chị mất đã lâu.
Đã nghe về người chồng tương lai của chị Du, nên tụi này không mấy
ngạc nhiên khi gặp đôi vợ chồng đang đứng trước nhà đón chào khách.
Chồng chị Du là anh Hải. Nghe nói bây giờ anh làm trưởng phòng
Thương Nghiệp Huyện, không biết ngày trước khi ngồi ký sổ Nhu Yếu
Phẩm anh có chức vụ gì ? Có lẽ vì cứ đi mua hàng hàng tháng cho
trường nên anh chị có dịp gặp nhau, phải lòng nhau. Bây giờ, khi anh
đứng Thành mới thấy anh có dáng cao, người ốm, nhưng rắn chắc. Hôm
Lễ Tuyên Bố anh mặc chiếc áo trắng cụt tay, quần Tây màu xanh da
trời. Giày Sandal mủ, màu trắng ngà. Nhìn anh đúng là cán bộ. Còn
chị Du mặc chiếc áo cưới màu đỏ, có những vân chỉ màu vàng kim
tuyến, đầu đội mũ „Trưng Trắc, Trưng Nhị“. Lần đâu tiên thấy mặt chị
có phấn hồng, mắt chị kẽ đường viền đen. Hôm đó thấy chị đẹp hẳn ra.
Không biết bỡi nguyên nhân gì nhưng trông chị có vẻ e thẹn trong
ngày cưới. Anh Hải cũng vậy, nhưng anh nén vẻ e ngại bằng cung cách
lịch sự, cười nói cỡi mở với bạn bè của vợ.
Ngày đám cưới không thấy ai là thân nhân của anh từ Bắc vô. Hôm ấy
quan khách ăn đám cưới với bánh ngọt, nước trà, sau khi cô dâu chú
rể đứng trước bàn thờ có hình ông Hồ để tuyên bố gì đó. Đám cưới đơn
giản, đánh dấu ngày anh Hải, chị Du thành vợ chồng.
Hai mươi mấy năm sau, nghe kể lại, chị đã nghỉ dạy học lâu rồi, làm
nghề bán quần áo cưới trong căn nhà khá lớn của hai vợ chồng tậu
được ở một góc đường, ngoài thị xã. Cũng mừng cho chị. Rồi sau đó
nghe nói, thị xã phá nhà hai bên đường để làm đường lớn, nhà chị Du
bây giờ có bề ngang 10 mét nhưng bề sâu có khoảng 4 mét. Như cá lẹp.
Anh Hải hay cằn nhằn : Mấy bố bây giờ, cứ được cho đi tham quan ở
Sin-Ga-Por, thấy xứ người ta làm sau thì về cứ y như thế mà làm. Mở
đường cho lớn, làm nhà dân chẳng ra làm sao !
Trong trường cấp 2 của Thành bấy giờ đã có anh giáo viên trẻ người
Bắc vừa từ Bắc vào, tên Quân. Quân hiền hậu, hoà đồng. Không thấy
Quân một lần khoác lác, khoe khoang về xã hội ngoài Bắc. Giáo viên
trong trường cũng đầy người Bắc 54, nên Quân hoà đồng rất dễ dàng,
nhất là món „cầy tơ“ thì các anh này hoà đồng lẹ nhất. Gặp Thời,
giáo viên từ miền Hố Nai Gia Kiệm, hai anh này họp lại chủ trì những
lần làm thịt chó ngay tại trong nhà tập thể giáo viên vào những buổi
tối. Dưới ngọn đèn dầu tù mù (những khi bị cúp điện) món chó luột
chấm muối cũng làm cho đám giáo viên ham thịt chó vui như có ngày
hội nhỏ.
Thời gian này đất nước Việt Nam nghèo lắm. Tận cùng bằng số. Nhưng
niềm vui vẫn đến. Giáo viên, học sinh vẫn cười và tình yêu vẫn nở.
Yêu nhau nhưng không ai muốn cưới nhau. Nhìn về tương lai ai cũng
sợ. Mình ăn bo bo, khoai, bắp được rồi, lấy nhau có con lấy gì cho
con bú, con ăn.
Nhưng chính những anh giáo viên người Bắc 75 có lẽ là những người
mang lại quan niệm sống mới cho các giáo viên miền Nam cũ. Các anh
các chị thấy rất vui. Có lẽ những năm tháng ngoài Bắc khó khăn hơn
nhiều, miền Nam hiện tại đối với người miền Nam thì khổ thật, nhưng
với họ đã là thiên đường nho nhỏ rồi. Họ tươi vui, ít tỏ ra sầu não.
Một anh bạn hơi lớn tuổi, cán bộ người Bắc làm ở Phòng Giáo Dục
huyện, khi thân đã có lần tâm sự với Thành: Ở ngoài Bắc tớ cũng làm
trong Phòng Giáo Dục. Cứ lập phương án, cứ đề nghị…thế là có tiền
tiêu. Tụi mày cứ như thế. Anh rất vui và tỏ ra rất là dân chịu ch..
ơ..i!
Người như anh bạn này đâu có gì để mất, bây giờ lại có thêm, không
vui sao được.
Một hôm trường của Thành đón một đoàn khoảng 15 giáo sinh về thực
tập. Trường đón đoàn thực tập về là chuyện bình thường, nhưng lần
này người dẫn đoàn là một giáo viên người Bắc, dạy môn vẽ ở trường
Cao đẳng Sư Phạm của tỉnh. Anh đẹp trai, lanh lẹ, miệng mồm. Nhưng
vài ngày sau thì trong trường nếu chút để ý, ai cũng nhận ra ngay:
anh đang theo đuổi cô giáo sinh người Nam rất đẹp đang có mặt trong
đoàn thực tập. Tình Bắc duyên Nam. Chắc vì vậy nên anh xin làm
trưởng đoàn này. Nhìn cô lúc đó không thua gì ca sĩ Băng Châu của
năm 72 đâu. (Có cần phải diễn tả khuôn mặt và vóc dáng của ca sĩ
Băng Châu ra đây không. Chắc là không, vì ai ai cũng từng thấy cô ca
trên truyền hình và trong các phim đã được trình chiếu ở miền Nam
trước 75). Anh chìu chuộng săn sóc cô rất mực. Hôm đoàn thực tập
sinh hoạt văn nghệ với giáo viên trong trường, anh làm giáo viên
trường Thành kinh ngạc khi anh đứng lên đóng góp bằng hai câu vọng
cổ. Anh ca nghe cũng được, nhưng chắc hôm đó anh muốn ca cho „cô
giáo sinh của anh“ nghe thôi. Bọn Thành, ai thích cũng đóng góp màng
ca, kể chuyện, cho vui trong ngày họp mặt.
Nhưng anh trưởng đoàn này không qua mặt được giáo viên Quân, cũng
người Bắc, về môn văn nghệ. Hôm đó Quân ngâm thơ. Về bài thơ, Thành
còn nhớ vài câu như sau:
Con đi trăm núi nghìn khe
Không bằng khó nhọc đời Bầm sáu mươi.
Con đi đánh giặc mười năm
Không bằng….
Giọng Quân ngâm nghe lảnh lót. Theo Thành, anh trưởng đoàn thực tập
ca vọng cổ là muốn chơi trội, còn Quân, ngâm thơ, là tiếng lòng thật
của Quân khi nghĩ về người mẹ còn ở trên đất Bắc. Khi ngâm, mắt Quân
mơ màng hướng về phía xa, giọng Bắc trong trẻo, khi ngâm nghe rất
lạ, rất thống thiết. Kể từ hôm đó trong trường mọi người mới biết
ngoài tài làm thịt chó, Quân còn có tài ngâm thơ.
Hai mươi mấy năm sau, nghe kể lại Quân về Bắc cưới vợ đem vô Nam,
sinh con, Quân vẫn đi dạy học, lên làm hiệu phó, vợ ở nhà nuôi heo.
Cuộc sống bình yên.
Chuyện trường lớp sau 75 chắc viết hoài cũng không hết. Xin tạm dừng
lại nơi đây.
Vũ Nam (Germany) |