Trường
sa và người lính Địa phương quân
Khoảng
những năm 70, 71, 72 khi đang học ở Sài Gòn, thỉnh thoảng Thành hay
về thăm quê vài ba ngày vào dịp cuối tuần cộng những ngày lễ của
quốc gia như lễ Quốc khánh, lễ Hai Bà Trưng, khi tất cả các trường
trên toàn miền Nam đóng cửa để nghỉ lễ. Nghỉ vài ngày dưới quê, cũng
làm người học trò thành phố như có thêm “nhiệt” để trở về Sài Sòn mà
cố gắng học hơn.
Quê Thành là một làng cạnh biển, nhưng chỉ chừng hai ba cây số đã có
những cánh đồng trồng lúa rộng mênh mông. Lội bộ khoảng nửa giờ trên
những con đường đất, qua những đồi cát trắng, những ngôi mộ, rừng
chồi miền biển, dưới tầm nhìn sẽ là những ao sen, cây bình bát,
những bụi cây và cánh đồng lúa lúc xanh lúc vàng tùy theo mùa. Nhưng
vào thời này, Thành không còn làm theo như thời nhỏ dại nữa là sẽ
cùng các bạn đi chăn bò không công cho người ta, bắt cá đồng nướng,
bắt cá lia thia về đá vào những ngày cuối tuần trong những ngày hè,
nghỉ học dài hạn. Bây giờ ở tuổi 16, 18 Thành chỉ còn về quê là để
thăm cha mẹ, chị em, bà con làng xóm.
Bạn bè dưới quê bây giờ cũng vậy, đã thay đổi hết rồi. Thành nghe
tin có thằng đi lính Biệt Động Quân, nhưng cũng có thằng vào rừng
làm "cách mạng". Chưa biết ngày sau sẽ ra sao, nhưng đường ai người
nấy cứ đi. Còn riêng Thành được học, cứ học. Cũng không ngờ được,
chỉ khoảng chín mười năm trước đây, chín mười tuổi, cùng học cùng
chơi, cùng bị thầy đánh đòn vì một tội chung nào đó, giờ hai thằng,
bốn thằng đã đứng hai bên chiến tuyến, gặp mặt có thể nổ súng bắn
nhau như thường.
Mỗi khi nghỉ học về nhà, thú vui nhất của Thành là trưa đi tắm biển,
nhưng không như hồi nhỏ cùng lũ bạn bơi sát cạnh những chiếc xuồng
đang neo, leo lên xuồng nhảy cắm đầu xuống nước, rồi bơi vòng lại
leo lên, hay lấy những miếng ván nhỏ trên xuồng đem xuống để lượn
với sóng biển, nằm trên những con sóng lớn từ xa đánh ụp đẩy vào bờ.
Bây giờ lớn rồi, Thành ngại nơi ồn ào nên thường đi khỏi làng một
chút, về phía núi, xa nơi làm biển. Xa những chiếc xuồng đang đậu
trên bờ sau một ngày đi làm về. Xa những chú bác anh chị đang ngồi
trên những chiếc xuồng để vá lại lồng lưới vừa rách, chuẩn bị lưới
cho ngày hôm sau, ra khơi đánh cá. Nằm một mình trong dòng nước,
ngâm mình trong làn nước biển, Thành như có ít giờ phút thoát khỏi
sự ràng buột với đời sống, ít ra là thoát khỏi không khí ồn ào ở
thành phố và những bài học ở trường. Xa xa trước mặt là dãy núi màu
đen đậm, xen lẫn trong núi có những tảng đá thật lớn màu trắng. Sau
lưng là làng chài lưới của Thành, những mái tranh mái ngói đỏ khít
khao và những chiếc xuồng, chiếc neo trên nước, chiếc đậu trên bờ,
với những cây cờ hiệu màu đen trắng, hình ảnh rất quen thuộc, rất
quê hương, mà khi nhắm mắt lại vẫn như thấy rõ ràng trước mặt. Thành
không vẫy vùng bơi lội như thuở nhỏ, anh chỉ trầm mình trong nước,
vẫy tay nhẹ nhàng trên ngọn sóng nhỏ, bờ môi thắm mùi mặn của nước
biển, và nhận biết đây là quê nhà.
Khi trời xế bóng, Thành đi dạo thăm nhà những người dì, người cậu
đang làm biển. Hỏi thăm gia đình cậu dì lúc này làm ăn ra sao, biển
cả thế nào. Cậu dì, người quê mùa, biển giả, hiền thục chân chất, có
sao nói vậy. Xổng, xuồng đánh cá, ngày được ngày không. Bạn đi biển,
người nghèo không có tiền cứ phải cầm lưới, cho con đi ở. Chủ xuồng,
người làm lên, làm thêm xuồng mới, lại thêm muối cá đi bán ở Sài
Gòn... “Thành, mày về chơi bao giờ mới đi?...Biển cả bây giờ làm
ngày nào ăn ngày nấy thôi con à!... Trời mấy bữa nay thổi quá, xuồng
nằm bờ hết!... Thằng Hải con thằng Tám vừa bị chết đuối tuần trước,
mày có hay chưa?...”. Qua những lời cậu dì kể Thành cũng có được
bảng tóm tắt tình hình ở làng.
Những năm này, ba má đã lớn tuổi, ông bà để quán lại cho người chị
Hai của Thành, vừa làm thợ may, vừa buôn bán. Ba về trên thị xã ở
với chị Ba đang làm cô giáo dạy tiểu học. Hằng ngày ông vô khu vườn
của ông để trồng những cây táo, ổi bom, mãng cầu, mít, bắp, khoai…
mãi chiều mới về nhà. Do giặc giả, ông bỏ khu vườn rộng ở dưới quê
mà ông đã đổ ra biết bao nhiêu tiền bạc và công sức để săn sóc,
trồng trọt, bây giờ trắng tay. Nay, mảnh vườn nhỏ nằm ranh thị xã,
còn an ninh, ông lại lần nữa trút xuống những lao lực sau cùng, với
hy vọng có được hoa trái sau này cho con cháu, cũng có thể là mảnh
đất sẽ ôm thân xác ông, nếu một ngày nào đó cái chết đến bất chợt
với ông nơi đây. Má ở với chị Hai, phụ giữ nhà khi chị đi chợ hoặc
bán hàng. Thỉnh thoảng má mua cá biển, ngồi xe đò 15 cây số lên thăm
chồng con, nấu cho chồng con một buổi cơm với cá biển tươi. Sau đó
lại quẩy vài trái mít, chục bắp từ vườn ba về quê cho chị Hai.
Thời này dưới quê đã lộn xộn, nên chiều tối Thành hay chạy xe Honda
về nhà chị Ba trên thị xã để ngủ, sáng mới chạy xuống làng lại. Bạn
bè, thằng tình nguyện đi Việt Cộng, thằng bị bắt đi dân công, muốn
trốn về mà trốn chưa được, nghe nói có thằng đã bị bắn chết... Nhiều
chuyện quá, nên bà già và chị Hai không cho Thành ngủ lại đêm ở dưới
làng. Lỡ có chuyện rồi sao. Làm sao mà đi học lại được. Chịu khó về
trên chị Ba mày ngủ đi con, sáng mai rồi xuống. Má Thành hay kêu như
vậy khi trời gần chiều.
Về nhà hai ba ngày vào những ngày lễ lộc thường Thành hay ở nhà với
bà già. Phụ chút gì được cho má Thành phụ. Rảnh rang Thành sang thăm
những nhà hàng xóm chung quanh. Ông bà Bổn, làm nghề đẻo đòn gánh ở
căn nhà lợp lá dừa xéo xéo trước nhà Thành. Ngày nhỏ khi chơi trò
bắt cứu, Thành hay chạy quanh nhà ông bà để đi trốn. Hai ông bà
không có con, ở với nhau mấy chục năm trời. Bà trắng hồng còn ông
thì đen đúa, cả hai đều còn khoẻ mạnh. Ông hút thuốc dấn, răng rụng
gần hết, có hai cái răng cửa lớn màu vàng khói thuốc nhô ra ngoài.
Ông để râu dài, lưa thưa, khi cười Thành thấy nét ông rất nhân hậu.
Nhà bà Ba ngay trước nhà Thành, bà ở với đứa con gái, thím Mười
Quăn, và các cháu, chuyên nấu chè đi bán: Chè đậu xanh, chè bông cỏ
hột lựu. Cứ buổi trưa sau giờ cơm, thím Mười và các cô con gái, mỗi
người với một chiếc nón lá, một gánh chè, túa đi ra các con đường
làng để bán, chỉ còn bà Ba ở nhà lo dọn dẹp. Cô Tám cạnh nhà mé bên
phải, chuyên xẻ cá phơi khô và làm kẹo dừa, người làng hay kêu là cô
tám Kẹo.
Nhà thím Bảy (cứ kêu vậy chớ không có bà con) phía trước, xéo
nghiêng nhà Thành, có con đi biển kiếm cá, có con vào đồng làm ruộng
kiếm lúa. Chú Bảy chết lúc Thành khoảng mười tuổi. Chú bị ho lao,
mấy năm mới mất. Những ngày chú mang bịnh ho lao, thời tiết buổi
sáng mùa đông ở làng hơi lạnh. Chú ra khỏi nhà hơi sớm, lấy rơm nhúm
lửa đốt lên, một mình ngồi sưởi, cạnh mấy con bò. Thành và vài thằng
bạn, vừa thức dậy, hể cứ thấy chú Bảy đốt rơm là đến gần, ngồi chồm
hỗm, hai bàn tay úp lại kẹp giữa hai đầu gối chân, vừa ngồi hơ cho
ấm vừa phụ chú lấy rơm bỏ vô lửa. Lửa cháy bằng rơm đỏ rực, nhưng
cũng đầy khói. Buổi sáng yên gió, khói bay theo một đường thẳng lên
cao. Mặt chú trắng bệt. Thân thể ốm nhom. Thỉnh thoảng chú khạt một
cục đàm xanh rì ra trên trên đất. Biết chú bịnh ho lao nhưng không
ai sợ để tránh xa, vì thấy chú cứ ở trong nhà với vợ con, chớ có đi
ở riêng ở nhà thương đâu. Những ngày chú còn mạnh, cuối tuần, sáng
sớm Thành hay nhảy lên xe bò với các con của chú để vô ruộng. Vô đến
ruộng vườn chú, tụi Thành và mấy đứa con trai của chú mặc sức mà
chơi những trò chơi đồng quê, đến trưa chú kêu cho ăn cơm. Dưới các
ao, lúc này ốc ruộng nằm đầy nhưng không ai bắt ăn, cua đồng cũng
không thiếu gì trong các đám ruộng. Nếu bắt ăn tụi Thành thường bắt
cá lóc cá rô, để nướng với rơm. Còn chơi, trên cây đầy những con bọ
rày, cứ bắt cột dây rồi cho bay vòng vòng dưới những cành cây. Tình
cảm với chú đã có từ trước, nên hôm chú mất Thành cũng rất buồn. Dì
Bảy ở vậy nuôi con từ đó đến nay.
Bác sáu Hợi, cạnh bên trái nhà Thành có chiếc xe đò chạy chở khách
từ làng lên quận và ngược lại. Bác già rồi, xe để cho con trai chạy.
Bác bị mỏi gối, dân tài xế mà, nên bác cũng hay kể những chuyện tình
lăng nhăng hồi còn làm tài xế chạy xe, cho vài người đang ngồi trong
quán nghe. Khi đến quán ba Thành uống nước giải khát, uống cà phê,
bác hay gát luôn hai chân lên bàn. Bàn chân cạnh ly cà phê, bác
giành luôn một bàn. Lâu dần cũng quen nên ít ai nói gì. Không bao
giờ Thành nghe ba Thành phàn nàn về việc này. Với người làng thì
không nói làm gì, ngay cả chiều chiều, khi có các anh chị đào kép
cải lương vào quán ba uống nước, ở một bàn khác bác Sáu vẫn để chân
trên bàn. Hồi đó, đào kép về làng Thành hát, thường họ cũng nể dân
làng lắm, vì biết dân làng đúng là dân mê cải lương, và cũng là nơi
đã sản sinh ra được Thanh Sang, đang hát trên những đại ban ở Sài
Gòn như Dạ Lý Hương, với vai Kiêm Sư Mao Tạ Tốn, Thanh Sang nhận
được cả Huy Chương Vàng.
Chị Hai của Thành kể, hồi nhỏ Thanh Sang lớn hơn chị vài tuổi, nghỉ
học sớm, cùng đi kéo lưới dùn và chia cá với chị mỗi ngày. Lưới dùn
ở quê Thành là tấm lưới rất lớn. Xuồng chạy bỏ ngoài xa, chỉ đem hai
đầu vô bờ, cách khoảng 50 đến 100 mét. Mỗi đầu chắc cũng có khoảng
15 đến 17 trai gái trẻ và người lớn cùng kéo tấm lưới khổng lồ này
vào bờ. Hồi đó cá gần bờ nhiều, người sắm lưới dùn có ăn, sau này cá
ít, lưới dùn đã bị dẹp hết. Nhà Thanh Sang ở cạnh rạp hát, Thanh
Sang có giọng ca hay, lại đẹp trai nên sau đó đã đi theo đoàn hát
khi có một người nào trong đoàn cải lương rủ rê. Được tổ cải lương
đải Thanh Sang lên như diều gặp gió. Mỗi lần đoàn hát có Thanh Sang
về hát, bà con đi coi chật rạp, bầu gánh rất vui. Một lần đoàn Song
Kiều có Thanh Sang làm kép chánh về, Thành được cùng ông bà già coi
Thanh Sang hát trong dịp này. Lúc này Thanh Sang đã có vợ, cô cũng
là đào chánh trong đoàn hát, rất đẹp. Nghe kể nghệ sĩ Thanh Sang rất
bình dân, sau giờ hát, thường ra thăm các bạn cùng thời đi biển hồi
nhỏ và nhậu cũng không thua gì các bạn dân biển.
Quán chị Hai của Thành bây giờ bán chủ yếu là cà phê, nước chanh,
nước ngọt Xá xị, Limonat và bánh kẹo, như bánh tiêu, bánh hạnh nhơn,
kẹo mè thửng…Còn ăn chính hình như chỉ có hai món là trứng gà ốp-la
ăn với bánh mì và mì gói trụng nước sôi. Nhưng hai món ăn thường là
bán cho lính. Những anh lính Địa Phương Quân, sau một đêm nằm kích
giặc, sáng ra, trước khi di chuyển nơi khác hoặc về đồn hay tạt qua
quán chị Hai uống ly cà phê, ăn một tô mì hay dĩa hột gà ốp-la với
bánh mì. Các anh lính ít khi trả tiền mặt, chỉ ký sổ, tới đầu tháng
lãnh lương thường các anh tự đến trả, nhưng có những trường hợp chị
Hai phải đi đòi. Người thiếu cứ thiếu, người bán cứ bán và cứ trả cứ
đòi mỗi đầu tháng. Cho đến ngày 30 tháng 4 nghe chị Hai nói nhiều
người lính còn thiếu nợ chị, nhưng tan hàng hết rồi giờ biết các chú
lính ở đâu mà đòi.
Ngồi tụm năm tụm ba quanh bàn uống cà phê, Thành nghe có anh tâm sự
với chị Hai: “Đầu tháng, trước khi đi ra đảo em cố gắng thanh toán
tiền thiếu với chị. Đổi ra thay thế ở đảo Trường Sa tới ba tháng
lận. Chừng nào trở về còn đóng quân ở đây thì nhờ chị lại”. Chị Hai
hay vã lã để làm vừa lòng khách, nhưng lòng mình lúc nào cũng lo:
“Nếu không có tiền chú cứ đi đi, mai mốt về lại đất liền rồi trả
cũng được. Ở đảo có gì đâu để tiêu xài, sau ba tháng về lại đất liền
các chú dư tiền nhiều lắm, lúc đó trả chị cũng được”. Còn những anh
lính đã đi Trường Sa về kể lại, ở ngoài đảo thiếu vợ, thiếu rau hay
thiếu cái gì chớ trứng chim không thiếu. Chim biển đẻ trứng, lấy ăn
không hết.
Thành với những anh lính Địa Phương Quân này, tình cảm không dồn dập
nhưng cũng không thấy xa cách. Các anh là quân nhân, gió sương chết
chóc đã thử đã qua. Quần áo các anh đồng một màu xanh rừng núi, lỉnh
kỉnh đạn súng đầy người. Các anh có những phút giây vui đó, cười nói
hớn hở đó, nhưng rồi có thể lại buồn ngay vì hay tin người bạn nào
đó vừa chết trong một trận bị phục kích. Các anh tìm làm quen, yêu
các cô gái địa phương vội vàng, vì sợ ngày mai phải đổi đi nơi khác,
hay cũng không còn có dịp nữa nếu đêm nay phải nằm xuống cho quê
hương! Còn Thành là học sinh, quần xanh áo trắng, trên mình với cuốn
tập cây viết và những mối tình học sinh cỏn con, e ấp. Cuộc sống
bình yên ở thành phố. Tự màu áo và sinh hoạt đã có sự cách biệt. Dù
từ nhỏ, sống ở làng, Thành đã trải qua những lần đồn của các anh
lính Địa Phương Quân bị địch tấn công. Tiếng súng đùng đùng. Khi
vang vội chác chúa liên tục, khi lẻ tẻ. Tiếng đại bác được bắn từ
quận, bay ngang nhà dân kêu réo réo, đến rớt ở cuối làng, nổ một
tiếng ầm, thật lớn. Nằm dưới hầm, nhưng khi nghe vẫn giật mình. Hoả
châu soi sáng trên những đồn đang bị đánh suốt đêm. Sáng ra mới
biết, các anh ở đồn xóm dưới đã sống qua một đêm thử lửa với địch.
Có khi trong đêm nghe tiếng súng vọng về từ xa xa, sáng ra mới hay
tin đồn xóm trên lính đã bị giết hết. Thành đến xem thấy bao cát
xanh quanh đồn bị rách tung toé vì đạn, vết máu còn để lại màu trên
cát biển quanh đồn. Tuổi trẻ và chiến tranh cứ thay nhau đi vào cuộc
đời và tiềm thức Thành. Như cuốn phim cứ quay và cứ để vào hộc tủ.
Có dịp sẽ lấy ra xem. Thời nhỏ, Thành cũng đã có lần thấy xác chết
của lính Địa Phương Quân, thấy bao lần xác chết của phe bên kia. Dù
vài lần nhưng cũng đủ hình thành trong đầu Thành những dâu bể, tang
thương của một đất nước trong chiến tranh. Tuổi thơ Thành, màu áo
lính thấy rất thường, còn màu áo Việt Cộng, thì thỉnh thoảng, khi họ
về làng sớm, qua ngang nhà dân vào những buổi chiều còn ánh mặt
trời. Vùng sôi đậu. Khi thấy họ về, mọi nhà đều lo đóng cửa sớm
chuẩn bị xuống hầm, vì sợ hai phe đụng lộn bất thình lình.
Và vì thế, để giữ Trường Sa các người lính Địa Phương Quân thời
trước bảy mươi lăm cứ thay phiên nhau. Ba tháng ở đảo, rồi vào đất
liền, đổi ca. Và chị Hai của Thành trong lòng cứ lo những món tiền
thiếu chưa thanh toán trước khi các anh lính ra đảo. Nói nào ngay
nhờ các anh lính, chị cũng buôn bán được và chuẩn bị được ít vốn
liếng cho gia đình sau cuộc đổi đời bảy mươi lăm.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 75, khi là người lính trở về, Thành đã nhờ
hai chị rất nhiều. Chị Hai lúc nào cũng cho tiền cậu em sài, còn chị
Ba thì lo cơm nước. Thấy em thua thiệt, chị Hai chịu không được nên
cho tiền để em sài và mua mua sắm đồ cần dùng. Còn đường sữa, nhu
yếu phẩm thời Bao Cấp chị Ba lãnh về, đứa em cũng ké được đôi chút.
Ba má đã lớn tuổi, cũng sống nhờ với gia đình hai chị. Chị Hai cứ
tiếp tục may vá, bán quán với má. Chị Ba cứ dạy học, làm vườn thêm
với ba, cuộc sống gia đình cứ thế mà trôi đi trong những ngày khổ
này. Sau đó Thành, qua những ngày đầu vất vả, cũng tìm được việc làm
để tự lo cho mình trong tình trạng đất nước chưa thấy có chút ánh
sáng nào.
Còn một vài cô bạn gái dưới làng của Thành có chồng là lính Địa
Phương Quân, sau ngày tan hàng đã theo về quê chồng. Thành nghĩ,
chắc các cô cũng phải chịu một nắng hai sương bên nhà chồng, vì
chồng là lính. Cũng có vài anh lính ở lại quê vợ, làm biển tạo dựng
gia đình bằng những lần ra khơi đánh cá.
Sau bảy mươi lăm vài năm, ngồi xem truyền hình trắng đen 9 inch
trong nhà chị Hai, thấy Thanh Sang, vai Thi Sách, hát với Thanh Nga
trong vỡ tuồng Tiếng Trống Mê Linh. Giọng Thanh Nga sang sảng khi
nói với những người Tàu đang xâm lăng VN: "Hỡi lũ giặc xâm lăng….”.
Lúc này Thanh Sang đã quá nổi tiếng rồi, trên đoàn Thanh Minh Thanh
Nga, trong những vở tuồng như Bên Cầu Dệt Lụa, vai Trần Minh, vở
Kiều Nguyệt Nga v.v… đã làm khán giả nức lòng khen ngợi. Sau đó
Thanh Nga bị giết ở Sài Gòn sau một đêm hát mà ai cũng biết. Đám
tang Thanh Nga, qua báo, qua truyền hình Thành thấy Thanh Sang đã
khóc.
Ôi, không bao giờ hy vọng làng quê Thành sẽ có một Thanh Sang thứ
hai nữa nếu ngày nào Thanh Sang hiện nay không còn nữa, nhưng Trường
Sa hy vọng mãi mãi là của Việt Nam, sẽ không bị mất và các anh lính,
thời nào cũng vậy, phải thay phiên nhau mà ra bảo vệ vì đó là của
đất nước mình. Ngày trước ra đảo, rảnh rang đi hốt trứng chim mỗi
ngày, bây giờ chắc không còn được như vậy, mà từng giờ từng phút
phải coi chừng tàu lạ, bỗng dưng ở đâu từ xa lù lù kéo đến.
Vũ Nam (Germany)
|