Trên
những triền đồi
Một năm đã qua, ngày hè lại đến. Xin mượn diễn đàn Website này để
viết lên đôi lời cám ơn đến các Sư Cô của chùa Làng Mai, khi chúng
tôi từ nơi xa xôi đến Làng, trong buổi chiều mặt trời sắp khuất, gió
chiều bắt đầu thổi, dù ngày hè, và những lời trò chuyện của các cô
đã làm lòng chúng tôi lắng đọng, yên tâm, thâm nhập tình yêu thương
của con người, còn hơn cả một lần ngồi và tụng một thời kinh.
Đọc bài Chùa Làng Chùa Thị ở Việt Nam bỗng dưng tôi có ý định viết
về vài ngôi chùa ở quê nhà và ở ngoại quốc mà tôi có dịp viếng thăm.
Mùa hè năm 2010, vợ chồng tôi và vợ chồng một anh bạn bất thình lình
nảy ý đi nghỉ hè ở vùng Bordeaux. Định đi đến bãi biển miền nam nước
Anh nhưng sợ lạnh, dù là đang mùa hè, vì xem thời tiết thấy nước Anh
đang có mưa và khí hậu xuống thấp. Đi biển mà không tắm biển được
cũng uổng một lần đi. Vì thế chúng tôi quyết định đi vùng miền nam
nước Pháp, mé biển Đại Tây Dương, hy vọng được đắm mình trong sóng
biển Đại Tây Dương thơ mộng, từ lâu đã nghe nhưng chưa bao giờ thấy
tận mặt. Địa Trung Hải chúng tôi đã đi vài lần rồi. Monaco, Nice,
Marseille.... chúng tôi cũng đã có dịp một lần đi qua. Biển Adria
giữa Ý và Croatien cũng đã đến thăm. Thăm bạn ở đó, rồi thăm biển
Adria luôn. Biển Hoà Lan, Đan Mạch thuộc biển Bắc cũng đã nhiều lần
bơi lội trong dòng nước…lạnh, dù trời đang mùa nắng nóng.
Mấy năm trước tôi và gia đình cũng có đến nghỉ hè ở vùng Tây Bắc
nước Pháp, nơi gần con đường hầm chạy dưới biển giữa Pháp và Anh.
Nước biển ở đây không sạch, ít người tắm, dù không khí tốt, gió thật
mát nên cũng đáng để một lần đến đây du lịch. Nơi đây còn đầy những
lô-cốt to lớn của Đức thời Hitler, màu xanh đậm, nằm lù lù dọc ở bãi
biển. Nhìn những lô-cốt, tôi nghĩ đến trận chiến thế giới lần thứ 2,
đầy kinh hoàng, chết chóc, và cuộc đổ bộ ở Normandie của quân đội
đồng minh mà tôi đã thấy được ít nhiều sự kiện lịch sử này qua cuốn
phim Ngày Dài Nhất.
Trở lại vụ đi Bordeaux. Trước khi đi tôi vào Internet lấy nhiều tư
liệu về thành phố, làng mạc, Hotel, Camping của thành phố Bordeaux
và các vùng lân cận, nhất là vùng biển vịnh Arcachon. Tôi còn ra
ADAC xin những bản đồ đường đi bằng đường làng, xa lộ v.v... Và một
điều không thể quên được là mang theo địa chỉ một ngôi chùa ở
Bordeaux và Làng Mai mà một anh bạn đã có dịp về đây nhiều lần đã
cho chúng tôi, có cả số điện thoại.
Sau một đêm vừa ngủ trên xe, vừa ở khách sạn trong thành phố
Bordeaux, sau gần một ngày đi dạo chơi trên bải biển ở Arcachon,
chúng tôi đến Làng Mai khi trời gần chiều. Trời mùa hè, xe chạy trên
những con đường làng ngoằn ngoèo qua những ngôi làng quê hẻo lánh,
qua những triền đồi, cánh rừng, đồng cỏ và những cánh đồng hoa màu
với những màu vàng còn tươi sắc điểm trên mặt cánh đồng. Trên đường
đi lòng chúng tôi thấy vui. Chúng tôi mong mau tới Làng. Không phải
vì mong tìm chỗ ngủ qua đêm mà vì lòng háo hức tìm đến một địa danh
đã lâu rồi được nghe rất nhiều qua sách báo. Theo đường tôi đã để ý
nơi nào có chỗ ăn, nhà hàng, nơi nào có Hotel, Camping, vì cũng có
thễ chúng tôi sẽ trở lại nơi này để ngụ qua đêm, nếu chúng tôi chưa
tìm được Làng mà màn đêm đã xuống, hoặc đến Làng mà Làng đã « cửa
đóng then cài ».
Rồi
Làng Mai cũng hiện ra trước mặt: Xóm Hạ. Một vùng rộng lớn. Chánh
điện thờ Phật là một căn nhà dài, thấp, nhưng bên trong sáng choang.
Từ ngoài nhìn vào thấy được tượng Phật. Vài căn nhà cách nhau hai ba
mươi mét. Khu vườn để cắm trại ngoài trời, những bãi đậu xe, những
vườn cây, bàu sen…Tất cả đã tạo nên một X
óm Hạ yên tĩnh, hiền hoà trong ánh nắng chiều miền duyên hải Đại Tây
Dương.
Chúng tôi đến Xóm Hạ gặp ngay những nữ tu hiền hoà. Đây là nơi ở của
các nữ tu, một sư cô đã nói như vậy. Đúng là lời nói không mất tiền
mua. Vị nữ tu đã thăm hỏi chúng tôi bằng những lời thật thân tình.
Trong giọng nói, ánh mắt của cô đượm đầy tình bác ái. Sở dĩ như vậy
là vì cô thấy chúng tôi lần đầu tiên đến đây. Đến vì đang đi nghỉ
hè, sẵn dịp ghé cho biết Làng Mai, chớ không phải đến vì có ý định
ghi danh cho một khoá học nào. Cô hỏi chúng tôi định ngủ qua đêm ở
đâu. Chúng tôi cho biết nếu không ngụ được trong chùa chúng tôi sẽ
chạy ngược đường lại ra những Hotel, Camping mà chúng tôi vừa chạy
qua. Cô nói vậy thì tốn tiền lắm, vã lại trời cũng đã chiều rồi. Cô
cho biết khoá tu học vừa chấm dứt, mọi người đã ra về, nhưng có ít
người còn ở lại chơi và nghỉ bên Xóm Thượng, nếu muốn chúng tôi có
thể qua đó để nghỉ đêm, cô sẽ điện thoại báo cho Thầy trụ trì bên
Xóm Thượng. Chúng tôi chạy xe đi đến Xóm Thượng. Đúng như lời sư cô
nói, chúng tôi gặp Thầy trụ trì và Thầy đã tiếp chúng tôi ân cần như
bao thầy trụ trì trong các chùa Phật mà chúng tôi có dịp đến. Cùng
các đạo hữu ở đây chúng tôi đã có một buổi chiều và một đêm an lạc.
Có một đạo hữu khuyên chúng tôi, lần sau nếu có đến Làng nên điện
thoại trước, để tiện cho cả đôi bên. Một lời khuyên tôi nghĩ thật
hữu ích. Ở Âu Châu này, thường cung cách đối xử nhau là phải như
vậy, không phải như ở Việt Nam.
Tuổi trẻ tôi, do hoàn cảnh và nơi sinh ở vùng quê nên có những dịp
gần gũi những ngôi chùa vào những ngày gió bấc, khi cùng với ông già
lên núi chặt những cây mai rừng về chưng tết. Buổi trưa hè dù là
những ngày đông, nắng vẫn vàng rực. Ngôi chùa thấp, nằm im ru giữa
những cây mít già. Dòng suối trong trẻo xa xa đã nghe tiếng nước
chảy. Một vị thầy, một hai chú tiểu. Cảnh thiền môn u mặc. Mọi tranh
chấp đua chen trong đời sống chắc nếu di chuyển đến đây cũng tan
mất. Mọi bực dọc từ trần thế, từ gia đình khi đến đây chắc cũng lắng
dịu lại. Và chúng tôi đến Làng Mai vừa khi gặp một sư cô, qua vài
phút đàm đạo tôi cũng có tâm trạng yên bình như những ngày nhỏ khi
đến chùa.
Thời nhỏ cũng rất nhiều lần thấy chiếc áo màu nâu của các thầy. Khi
các thầy từ trên núi xuống quán ba má tôi mua đường sữa, ba tôi lúc
nào cũng ân cần trò chuyện như trò chuyện với các bậc thầy tổ. Sau
này, đất nước sôi động chiến tranh, nhà tôi dời đi về nơi an ninh,
các thầy về lại thành phố lập chùa, tu hạnh. Có lẽ là nơi ồn ào khó
đem đạo vào tâm, nên một vị thầy đã về lại trong khu vườn nhà tôi để
nhờ ba tôi cất một ngôi chùa thật nhỏ, đủ để một vị thầy ở để tu.
Đất nước thăng trầm trong chiến tranh, chúng tôi lớn lên, phải ra đi
lính, đi làm, ba má tôi mất, thầy già yếu không còn được ai chăm
sóc, thầy đã phải về ở bên các đồng đạo trong những ngôi chùa đông
người trên thành phố. Ngôi chùa nhỏ cạnh nhà tôi cứ để không, chị
tôi ra vào đốt nhang. Sau ngày chinh chiến tàn, tôi trở về căn nhà
cũ, vẫn thấy ngôi chùa cạnh nhà còn nằm đó. Thời gian có làm hao mòn
mái tôn của chùa, vách ván có cũ ra vì qua những ngày mưa ngày nắng,
nhưng ngôi chùa vẫn còn có thể là nơi cư ngụ tu tập cho một người
tu. Nhưng bây giờ trong chùa đã trống trơn! Không ai tu. Y như cuộc
chiến tàn những người lính trở về với đôi bàn tay trắng, không mang
thương tích đã là may.
Những buổi trưa hè sau khi ăn cơm, tôi hay mang một ghế dài vào chùa
để ngủ. Trong ngôi chùa nhỏ yên tỉnh, tôi ngủ được những giấc ngủ
ngày thật bình yên, dù bên ngoài cuộc sống đang xáo trộn vì những
vấn đề kinh tế, đổi tiền và cái đói trong thời đất nước vừa chấm dứt
chiến tranh.
Đó là những ngôi chùa làng trên quê hương. Bây giờ xin viết đến vài
ngôi chùa ở ngoại quốc mà người viết có dịp ít nhiều gần gũi. Còn
những chùa đã có duyên viếng thăm thì rất là nhiều, không thể nào
viết ra hết được.
xxx
Tu viện Viên Đức. Khi nghe đến tên Tu viện trên nước Đức này tôi như
nghe đến những điều gì thiêng liêng, thoát trần, mà nơi đó chỉ có
các Cha, các thầy dòng, đêm ngày miệt mài với thánh lễ, dâng mình
trước Thiên Chúa và học đạo. Đó là ở Âu Châu. Còn ở Á Châu. Những tu
viện lớn ở Ấn Độ, hay ở Lhasa, thủ đô Tây Tạng, đã gắn liền với máu
và nước mắt kể từ năm 1950 đến nay, khi hồng quân Trung Cộng xâm
lăng xứ sở này.
Nhưng không. Tu viện Viên Đức là một tu viện của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, nằm tọa lạc trên một vùng bình nguyên
hiền hòa của miền nam nước Đức, không xa nó lắm là biên giới Thụy Sĩ
và Áo, xa hơn chút nữa là dãy Alpen, nổi tiếng với mây mù và tuyết
trắng cả năm trên những đỉnh núi cao. Nhìn từ trên phi cơ xuống khi
qua rặng Alpen như ngồi trên vùng bồng lai tiên cảnh. Đó là cách ví
của một vị thầy, khi thầy có dịp ngồi phi cơ ngang qua đây. Cách
khoảng 20 cây số là hồ Boden See, rộng lớn, chứa nước của dòng sông
Rhein, xuất thân từ trên núi cao trong dãy Alpen, len lõi qua các
vùng nước Áo, Thụy Sĩ , Đức, Pháp, Hoà Lan rồi cuối cùng ra ở biển ở
địa phận xứ hoa quả, đê điều, tôm cá… Vùng đất một thời gian dài đã
làm vui lòng người Việt tị nạn mỗi khi hè về.
Tu viện Viên Đức trước đây là một nơi dùng để triển lãm nông nghiệp,
nằm cạnh một nông trại rộng lớn. Tiếng ọt ẹt, khua chiêng của bò sữa
vẫn còn, chỉ thiếu tiếng ếch nhái, ễnh ương, nếu không cũng không
khác cảnh đồng quê VN mấy. Nơi này trong thời gian tới có thể là nơi
tổ chức những ngày tu học, những trại cho Gia Đình Phật Tử có thể
chứa đến bảy tám trăm người.
Vùng này hơn 25 năm về trước tôi có đến đây trong những ngày hè, để
đá banh, sinh hoạt với những tổ chức hội đoàn. Nơi đây có những bãi
cỏ rộng. Nơi đây có thể trầm mình trong hồ Boden See trong những
buổi trưa hè. Nước sạch và trong không thua gì như ở biển, cũng đông
người không thua gì những vùng biển du lịch ở Ý. Nên khi trở lại
đây, để tham dự Lễ An Vị Phật trong ngày tu viện tổ chức, tôi như
người xa trở lại quê nhà sau một khoảng thời gian đi xa. Vẫn những
đồi cỏ, vẫn những những căn nhà mái đỏ trên triền đồi, vẫn những con
bò sữa đứng ăn rải rác trên cánh đồng. Vùng đất bao la này, không
những rất thích hợp với chùa chiền, tu viện, mà còn rất thích hợp
với những nhà dưỡng lão, cho khách du lịch, để có những ngày xóa bớt
những phiền muộn, những ưu tư của trần gian.
Những đạo hữu ở vùng Boden See, những anh chị em ở đây đã bỏ công
sức ra tìm, kết quả tu viện được thành hình. Ai cũng mừng, nhưng tôi
nghĩ có lẽ các anh chị em người Việt tị nạn, các đạo hữu vùng Boden
See là những người mừng nhất. Từ nay họ có nơi để cuối tuần đến sinh
hoạt Phật sự, có nơi để hội họp tu tập Phật pháp, lễ lạc. Vùng này
yên tĩnh, rất thích hợp cho việc tu trì của các sư, thầy. Trong ngày
An Vị Phật, mùa hè, nên phía trước tu viện cánh đồng bắp đang xanh,
đầy trái. Lối mòn với cỏ xanh quanh co, những con bướm vàng uốn lượn
trên những loài hoa dại. Mùa đông chắc nơi đây là cánh đồng tuyết,
và những con đường này sẽ đọng đầy tuyết sương. Quanh đây nếu có một
đàn cò, có vài ao nước, chắc nó đã trở thành tiên cảnh. Tu viện dù
không đứng ngay giữa phố thị, nhưng cũng không nằm ở vị trí cô quạnh
một mình giữa đồng, nên các thầy có thể đi mua sắm những việc cho tu
viện cũng không đến đổi phải vất vả lắm. Phật tử đến đây ngoài xe
hơi có thể dùng xe lửa, rồi xe Bus.
xxx
Niệm Phật Đường (NPĐ) Tam Bảo nơi vùng tôi ở, được hình thành cách
đây cũng đã mười năm. Tôi, với tư cách là một Phật tử, không quá xa,
cũng không quá gần với NPĐ, về nhà ở cũng như về cộng việc phụ giúp
NPĐ, giúp hai sư trụ trì. Tu thì ở đâu cũng vậy, cố gắng vượt lên
trên nỗi buồn của nhân thế, hoặc vào những nơi buồn khổ của con
người để xóa tan, an ủi những khổ đau bất hạnh mà con người nơi đó
đang phải chịu đựng. Nhưng…, khi hai sư ở đây, có những ngày hè, có
những ngày mưa, có những ngày tuyết, không biết hai sư thì sao,
nhưng tôi cảm được sự cô đơn quạnh quẽ của hai vị sự bằng tình cảm
đời thường của mình, một người không biết nhiều trong chốn thiền tự,
không rành nhiều về tình cảm của người đã khoác áo nhà tu. Nên khi
có thì giờ rảnh, trên đường đi mua đồ, đến bạn hữu, tôi hay „tạt“
qua để viếng thăm hai sư. Có ai ở chùa thì tôi đàm đạo, sau khi lễ
Phật. Thiển nghĩ, dù sao trên đường đời mình có thể biết chút ít
nhiều hơn người tu, nhưng về mặt đạo hẳn là mình phải thua xa, cần
phải học hỏi nhiều từ những người đã cởi bỏ đời thường để nhập vào
chốn thiền môn, khi tuổi còn rất nhỏ, nên tôi rất thích đàm đạo với
người tu hành.
Có những ngày thấy nắng hanh, điểm ánh sáng vàng trên những ngọn
cây, tôi đến chùa đề nghị hai sư đi xe với tôi, tôi chở hai vị lên
những triền đồi để hưởng gió, và để nhìn xuống thành phố mình cư
ngụ. Tâm hồn và tầm nhìn mở ra với nhân thế, với cuộc đời, để ngắm
những cánh hoa đồng, màu vàng màu tím, để nhặt vài cánh hoa thổi bay
vào gió trong ánh nắng lung linh. Chiều về, tôi về với bổn phận
người đời, hai vị sư về với kinh kệ, hương hoa trước Phật. Không chỉ
riêng tôi, mà tôi biết có nhiều anh chị, các bác, các cháu thỉnh
thoảng đến rủ sư đi nơi này, chở đi dạo ở những nơi khác. Tất cả đều
muốn ít nhiều những ngày tu tập ở đây, các vị sư cũng có được ít
nhiều niềm an lạc, vui vẻ.
Đã mười năm qua, hết xuân đến hè, vòng trái đất vẫn xoay, bốn mùa
vẫn chuyển đổi, nhưng thấy NPĐ vẫn không được có gì thêm hơn những
ngày đầu; những lễ lớn, vẫn không đủ chỗ cho những Phật tử lễ lạy,
nên gần đây ni sư đang cố vận động để tìm một cơ sở lớn, và…cũng còn
đang tìm. Nơi thành phố này cũng không dễ gì tìm một chỗ hãng xưởng
cũ thích hợp cho việc xây sửa lại một ngôi chùa, còn đi xa hơn, ra
ngoài, thì ni sư trụ trì không muốn, vì sư không muốn xa các đạo
hữu, đặc biệt là các bác lớn tuổi nơi đây. Nên việc tìm cứ tìm, và
chờ cứ…chờ!
NPĐ nằm cạnh dòng suối. Mùa hè nước chảy mạnh. Mùa đông yên tỉnh.
Cạnh chùa là đám rừng. Khung cảnh nơi đây khá yên tỉnh, rất thích
hợp cho người tu, nhưng NPĐ nhỏ quá, so với số dân Việt Nam ở tại
thành phố này.
Có những buổi chiều mùa hè, tôi đến chùa bất thình lình trong ngày
cuối tuần, thấy ni sư rời khỏi NPĐ, ra ngồi đọc sách, dưới chân cầu
trong ánh nắng chiều. Có lẽ người đi tu thấy bình thường, nhưng với
tôi, người trần, thấy buồn buồn. Đời sống đang vang động ngoài phố
kìa, chỉ cách một hai cây số, nhưng tôi biết đó không phải là nơi
sinh hoạt cho những vị tu hành. Với tôi thì được, với những người
Việt khác thì được, nhưng không phải với người đi tu. Tu cũng có cái
khó và cái dễ của nó. Các thầy hay nói như thế, lặp lại hoài thành
sáo ngữ, nhưng thật sự là như thế. Trong ý nghĩ của tôi người đi tu
hẳn hơn xa người đời, nên trước mặt người tu, người đời nên cung
kính, lễ phép. Ở đây tôi xin bỏ ra ngoài những người chỉ lợi dụng bộ
áo tu, chớ những người này không phải đi tu, dù ở bất cứ đạo nào.
Viết về Tu viện Viên Đức, tôi lại lan man viết về NPĐ Tam Bảo. Nhưng
đã mười năm qua, dù có những sinh hoạt gần gũi, đã bao đổi thay,
nhưng tôi vẫn chưa viết được cho NPĐ lấy một hàng để gửi báo. Những
ngày đạo hữu Trân còn ở đây, còn đi làm, đã cùng lo lắng với đồng
hương để xây dựng NPĐ, nay đã là người tu đã gần sáu trong nhà chùa,
hằng ngày tụng những thời kinh, ăn chay niệm Phật và thong dong đi
thăm những miền những chùa nổi tiếng về lịch sử Phật giáo như ở Ấn
độ v.v... Còn những đạo hữu khác, không ít thì nhiều, cũng góp công
góp sức cho những ngày đầu, nay cũng vẫn còn có mối ưu tư cho một
ngôi chùa mới nơi đây.
Dù muốn dù không cũng phải công nhận rằng mười năm qua NPĐ cũng là
nơi giúp nhiều cho những bác lớn tuổi, neo đơn, những cháu bé tuổi
còn dại nơi địa phương này. Người lớn tuổi đến NPĐ, điện thoại đến
sư nói chuyện hỏi thăm để hỏi thăm sức khỏe của vị sư và cũng để tìm
sự an lạc cho chính mình. Với những em bé hình ảnh Đức Phật, những
ngày lễ Phật, hình ảnh người tu ít hay nhiều cũng ảnh hưởng đến đời
sống trẻ thơ, một ảnh hưởng tốt về mặt tâm linh, ảnh hưởng trong vô
thức. Bây giờ còn tiềm tàng, ngày sau sẽ phát triễn.
Tu viện Viên Đức đã thành hình, dù gì bà con Phật tử ở vùng ba biên
giới Đức Áo Thụy Sĩ cũng đã có nơi để thỉnh thoảng hội tụ nhân ngày
lễ Phật, Lễ Tết, Vu Lan, ngày rằm .v.v…, vì nơi đây lúc nào cũng có
vị sư trụ trì. Còn NPĐ Tam Bảo, ngày nào còn, quý đồng hương cũng có
thể đến viếng cảnh nơi đây, vì có những thành phố khá lớn nổi tiếng
và đẹp như Stuttgart, Tübingen…, viếng NPĐ, lễ Phật, nghỉ lại qua
đêm, đàm đạo với các vị trụ trì, chắc cũng không khác gì một ngày đi
tu vậy.
Vũ Nam (Germany)
|