Đây là
sơ lược về tiểu sử của cụ Thiều Chửu, tác giả sách Hán Việt
Tự Điển (kết hợp từ tài liệu của hai học giả Trần Việt Quang
và Nguyễn Hải Trần và những lời kể lại của các vị học trò còn
sống của cụ, trong đó có sư bà Đàm Ảnh, chùa Phụng Thánh Hà
Nội).
Cư Sĩ
Thiều Chửu tên là Nguyễn Hữu Kha sinh
năm Nhâm Dần (1902) tại làng Trung Tự – phường Đông Tác – Kim
Liên – Hà Nội. Cư Sĩ xuất thân từ nhà nghèo phải lao động vất vả
từ nhỏ, nhờ bà nội là một người mộ đạo Phật và biết chữ Hán dạy
dỗ, được bác ruột hiếm con kèm cặp, lại vốn sáng dạ và rất chăm
học nên ông đã sớm có căn bản Hán văn. Với quyết tâm vừa làm vừa
học, dần dần ông đã có một số kiến thức văn hóa lớn và hiểu ngày
càng sâu về Tam học và thông thạo tiếng Anh, Pháp và Nhật.
Năm 18 tuổi (1920), ông đi tham thiền vấn đạo một số
danh Tăng các nơi và từ đó ngày càng đi sâu hẳn về đạo Phật. Năm
26 tuổi ông bắt đầu dịch kinh Phật và năm 1932 – 1933 đã ấn hành
bản dịch “Khóa Hư Lục” của Trần Thái Tông, thể hiện tinh
thần sâu sắc trong nghiên cứu và hoằng dương Phật Pháp.
Năm 1934,
Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành
lập, ông ra giúp Hội Quản lý trực tiếp báo Đuốc Tuệ,
ông là “một cây bút vững chãi và sâu sắc” của báo này. Trong
giai đoạn này ông đã dịch nhiều kinh sách và viết nhiều bài
nghiên cứu khảo luận về Phật học.
Năm 1936, ông đề nghị Hội xây dựng chùa Quán Sứ
đã đổ nát. Hội tin tưởng giao cho ông trông coi việc thi
công. Mặc dù bận nhiều việc, ông vẫn hoan hỷ nhận nhiệm vụ nặng
nề đó và sau hơn ba năm, ngôi chùa nguy nga đã được xây dựng
xong, nay là trụ sở của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam.
Cũng năm 1936, ông cùng cụ Hoàng thị Uyển thành lập Hội Tế Sinh với Ban Trị sự gồm nhiều trí thức hăng
hái mà ông làm Tổng thư ký. Do hoạt động có kết quả, uy tín của
Hội ngày càng lớn. Đáng kể là Ban Trị sự đã lặn lội suốt 3 tháng
để cứu tế cho đồng bào hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang bị lũ lụt do
vỡ đê năm 1937. Và trước nạn đói khủng khiếp năm 1945,
Hội đã cứu đói cho rất nhiều đồng bào.
Năm 1938, ông cùng các ông Nguyễn văn Tố, Phan Thanh
… thành lập Hội truyền bá quốc ngữ và bản thân ông tích
cực mở nhiều lớp dạy chữ cho đồng bào.
Năm 1941, Hội Phật giáo Bắc Kỳ ủy quyền cho ông lập trường Phổ Quang để giáo dục Tăng Ni ở cạnh chùa
Tế Độ thuộc quận Thanh Xuân - Hà Nội (ngày nay chùa đã bị phá
do chiến tranh). Ông vừa dạy chữ Hán, vừa giảng kinh Phật, vừa
chủ trì các khóa lễ. Nhiều người học trường Phổ Quang đã trở
thành những vị chân tu có uy tín, tiêu biểu là Hòa thượng Thích
Tâm Tịch đương kim Pháp chủ Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, Ni sư
Thích Đàm Ảnh trụ trì chùa Phụng Thánh – Hà Nội …
Ông cũng mở một số trường vừa học vừa làm giúp cho các thanh
thiếu niên nghèo có thể theo học.
Để thực hiện có kết quả một khối lượng lớn công việc
như thế, ông đã sắp xếp thời gian hàng ngày rất chặt chẽ và kiên
quyết tuân thủ, ban đêm thức khuya đọc sách và dịch kinh. Bất cứ
việc gì cần làm để chấn hưng Phật giáo và thực thi tư tưởng cứu
nhân độ thế của đức Phật, nhất là việc nâng cao dân trí, ông
cũng đều luôn luôn sẵn sàng làm. Còn bản thân ông thì sống
giản dị, cụ suốt đời nằm ngoài hiên, dịch sách ở gốc cây, có thể
nói là kham khổ, quần áo mặc như một nông dân, ngày chỉ ăn một
bữa đúng ngọ và ăn trường chay, ngủ trên một tấm ván đặt trên
nền, không vợ con, bản tính khiêm nhường, ông không hề nói gì về
các việc mình đã làm, không nhận bất cứ một cương vị nào có dính
tới danh lợi.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng
12/1946, ông cùng một số Tăng Ni đưa các trẻ em mồ côi của Hội
Tế sinh đi theo kháng chiến. Qua biết bao gian nan, có lúc cả
đoàn 40 người chỉ có 4 bơ gạo nấu với vài rổ khoai lang ông vẫn
kiên trì theo kháng chiến. Cuối cùng đoàn đến ngụ cư và lĩnh
canh tại đất ấp Đồng Tâm, xã Đồng Ao, huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên để sinh sống. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn
kiên trì mở lớp Phật học để giảng dạy cho Tăng ni, đồng thời tổ
chức các lớp bình dân học vụ góp phần xóa nạn mù chữ cho nhiều
người dân địa phương. Với đạo hạnh chuẩn mực của mình, ông
đã cảm hóa được mọi người, vượt qua khó khăn thử thách, duy trì
được cuộc sống tập thể có nề nếp kỷ luật, nội bộ đoàn kết, luôn
học tập và đẩy mạnh tăng gia sản xuất để tự nuôi sống tập thể.
(từ Hà Nội tế độ về Bình Lục (Nam Hà) có 27 em
(mỗi nơi năm ngày đến nửa tháng), rồi lại đến Yên Phong gần Phủ
Lỗ, các em nam ở Cao Phong với sư Tăng, các em nữ ở với sư ni ở
Hưng Phong – ở đây khâu nón và xin đất làm ruộng để ăn, tiếp tục
lên đến Phúc Yên chỉ còn 19 người (vì khổ quá họ bỏ hết), các sư
còn 20 vị, ở đây cụ vẫn tổ chức lớp học, sau đó chạy lên Bắc
Giang (không ai cho ở) phải vào rừng lấy cây dựng cột dựng lán
để ở, lấy nứa làm giường chiếu, đong thóc xay nhờ bán lấy cái
cám ăn. Vẫn khâu nón nhưng không bao giờ bỏ học. Sau đó đi qua
Tam Đảo xuống Khúc Chìu – Lý Nhân – Thái Nguyên (thuộc huyện
Đồng Hỷ) cũng phá đồi làm nhà, khâu nón bán (6 tháng ăn sắn
không có một hột gạo ra bới đống rác lấy lá bí vàng ..
làm thức ăn.
Mỗi nơi cụ đến đều thành lập lớp dạy học và thành lập Phật giáo
cứu quốc.
(Đoạn này do sư bà Đàm Ảnh kể).
Trong nhiều việc lớn kể trên, có một sự nghiệp đáng quý là việc
hoằng dương Phật Pháp bằng các ấn phẩm, phần việc có thể lưu giữ
được lâu dài. Trong sự nghiệp này, trước hết phải nói đến việc
ông vừa viết bài vừa làm các công việc chung của tòa soạn báo
Đuốc Tuệ, tờ báo đã góp phần làm sáng tỏ giáo lý đạo Phật, cổ
súy phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc nước ta trong
nhiều năm.
Các trước tác và bản dịch kinh Phật của ông đã góp
phần làm giàu thêm cho thư tịch nước nhà, cho đến nay nhiều sách
của ông vẫn được các Tăng ni dùng để học tập. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, thì ngoài loại sách phổ thông để nâng cao dân trí,
như Cách trí phổ thông, Lịch sử phổ thông … ông đã dịch nhiều
kinh Phật (19 kinh) nằm trong kinh căn bản như: kinh A Di
Đà, Thủy Sám, Địa Tạng, Tứ Thập Nhị Chương, Kim Cương Bát Nhã,
Viên Giác, Pháp Hoa, Khóa Hư Lục, Khóa Tụng hàng ngày ….
Các bản dịch của Thiều Chửu thường kèm theo lời
giảng của các Thiền sư nổi tiếng hoặc kèm theo lời chú giải và
bàn góp của ông đã giúp rất nhiều cho những người học Phật.
Ngoài ra ông còn viết và dịch một số sách như Sự tích Phật Tổ
diễn Ca, Con Đường Học Phật ở Thế Kỷ 20, chú giải Quan Âm Thị
Kính truyện, Vì sao tôi tin Phật (dịch), Phật học cương
yếu (dịch), Tây Du Ký (dịch)….
Một thành tựu lớn của ông là biên soạn bộ Hán
Việt Tự Điển, đã được nhiều người học Hán Văn và nghiên cứu
Phật học hoan nghênh, cho đến nay đã tái bản nhiều lần.
Năm 1954, cụ bị đem ra đấu tố và lên án là bóc
lột các em và các sư (!),
sự thật cái tội duy nhất của cụ là trung thành với lý
tưởng của đạo Từ Bi. Đêm 15/6 âm lịch (1954), Cụ xuống thác
Huống (chùa Huống), sau đó tự tử ở sông Huống, thây trôi về ấp
Đồng Châu. Lúc cụ chết không có ai biết ở đâu để cầu lễ hay chôn
cất, chỉ có vài em học sinh, nên chôn cụ không có quan tài (bó
chiếu). Sau đó có vài người ra minh oan cho cụ. Bây giờ
mộ cụ ở Thanh Tước – Sư bà Phụng Thánh cùng các cháu (của cụ
Thiều Chửu) đứng ra xây mộ và thờ ở chùa Phụng Thánh.
Cụ mất đi với 52 tuổi đời và hơn 30 năm phục vụ Phật sự. Cuộc
đời của Cư Sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha là cuộc đời của một bồ
tát không tên, đã im lặng đã phát huy cao độ lý tưởng hoằng pháp
lợi sinh, toàn tâm toàn ý hiến trọn cuộc đời mình cho Phật sự và
nhân dân trong tinh thần hoàn toàn vô tướng. Cụ có công lớn
trong việc chấn hưng Phật giáo mà tôn chỉ và giáo lý đã thành
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ nhiều thế kỷ nay
Nhất Hạnh.
------------------------
(bài
viết năm 2004 nhân ngày giỗ 50 năm của cụ để nhớ sự ra đi im
lặng của một người đã quyết định tìm cách chia sẻ sự oan ức của
toàn dân trong thời đó, bằng cách ấy). |