Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) |
Sau khi Nguyễn Khắc Viện đi thăm Cuba về, Fidel Castro đến nói
với Ðại sứ quán ta tại Cuba rằng : Ðời tôi bị thiệt thòi là
không được gặp chủ tịch Hồ Chí Minh khi ngài còn sống, nhưng để
bù lại, tôi được gặp ba người làm cho tôi rất vui lòng: một là
đại tướng Võ Nguyên Giáp, hai là ông Nguyễn Khắc Viện, ba là lão
anh hùng Núp.
Tiến sỹ sử học Pháp Charles Fourniau gọi Nguyễn Khắc Viện là “
Bậc thầy về những vấn đề Việt Nam”.
Hai nhà văn Mỹ David Marr và Jayne Werner khi đề tựa cuốn “
Tradition and Revolution in Vietnam ” đã viết: Nguyễn Khắc Viện
là người duy nhất có tư cách nói về Việt Nam với công chúng
Phương Tây.
Cho đến bây giờ người ta vẫn không biết dùng tước danh nào đối
với bác sỹ Nguyễn Khắc Viện là thoả đáng nhất.
Vì
ông viết nhiều về lịch sử Việt Nam bằng tiếng Pháp và dịch
Truyện Kiều sang tiếng Pháp với cả tâm hồn rất thi sỹ nên Viện
Hàn lâm Khoa học Pháp gọi ông là nhà thơ, nhà sử học.
Vì
ông có nhiều bài viết giầu chất suy nghĩ đăng trên các báo
trong, ngoài nước nên nhiều người gọi ông là nhà báo.
Vì
ông đã sáng lập và lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Trẻ em nên một
số cơ quan y tế, giáo dục gọi ông là nhà tâm lý học.
Một số trí thức trong và ngoài nước hiểu thấu đời ông gọi ông là
một sỹ phu hiện đại.
Học giả Ðào Duy Anh gọi Nguyễn Khắc Viện là học giả.
Nhà báo Trường Giang gọi ông là nhà văn hoá.
Giáo sư Vũ Ngọc Khánh thấy ở Nguyễn Khắc Viện: “ Một nhà nho
trong một người cộng sản, một trí thức cao cấp trong một cán bộ
bình thường, một nhà nghiên cứu trong một ký giả ”
Năm 1993, trong lễ mừng thọ ông 80, một người bạn tâm đắc đã
tặng đôi câu đối :
“ Trí ngoại hạng. Dũng siêu cường. Chí khí như Anh, Trời một
góc.
Gần thấy vui. Xa tìm đến. Tinh thần thế ấy, Người muôn năm .”
Một thầy đồ già tặng bức trướng đỏ thêu mấy chữ Hán: “ Học nhi
bất quyến, hối nhi bất quyện ”.
Thật vậy, chính cái đức “ Học không biết chán, dạy người không
mỏi ” cùng với cái tư chất “ Chí khí trời một góc ” đã tạo nên
một Nguyễn Khắc Viện như tấm gương sáng để đời.
Một nghị lực phi thường
Nguyễn Khắc Viện sinh ngày 5 tháng 2 năm 1913 tại làng Gôi Vỵ,
xã Sơn Hoà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông học trung học ở
Collège Vinh rồi chuyển vào Quốc học Huế học để thi lấy bằng
Thành chung vào năm 1931. Sau khi đỗ xuất sắc ba bằng tú tài ở
Trường Bưởi ( 1934 ) và học hết năm thứ hai ở trường đại học Y
Hà Nội ( 1937 ), ông du học tại Pháp và đã giành thêm hai bằng :
bác sỹ nhi khoa và bác sỹ về các bệnh nhiệt đới vào năm 1941.
Trong thời gian học nội trú rồi làm việc tại Bệnh viện Trẻ em
Trousseau ở Paris, do ít người, nhiều việc, ban ngày làm việc
liên tục lại cứ hai đêm phải trực một ca nên một buổi sáng tháng
1 năm 1942, ngủ dậy, ông khạc ra máu. Thời bấy giờ lao bị xem là
một trong tứ chứng nan y. Tuy nhiên, mặc dầu chưa có thuốc đặc
trị nhưng nhờ được nghỉ ngơi tại viện điều dưỡng ở thành phố
Grenoble suốt hơn một năm trời, nhờ luyện tập dưỡng sinh kiên
trì trên cơ sở vốn có thể trạng tốt, đầu năm 1943 sức khoẻ của
ông tạm thời ổn định. Ra viện, ông lao vào công tác Việt kiều
trong hoàn cảnh vật chất thiếu thốn nên cuối năm 1943, bệnh lại
tái phát nặng hơn trước. Lần này, cả một thuỳ bên phổi phải bị
xơ hoá, đờm khạc ra đầy vi khuẩn BK. Vì vẫn chưa có thuốc đặc
trị, thầy thuốc đề ra biện pháp là phải giữ tư thế gần như bất
động và cấm khẩu. Suốt một năm trời nằm im trong phòng một mình
và hầu như không nói một câu nào với bất cứ ai, bệnh có thuyên
giảm. Sau khi sức khỏe tương đối được hồi phục, bệnh viện lại
yêu cầu phải phẫu thuật mà trước hết là cắt sườn. Lần thứ nhất
cắt 2 sương suờn với điều kiện chỉ được dùng thuốc tê chứ không
được gây mê. Kéo cắt sườn giống chiếc kéo cắt sắt được chọc
xuyên vào xương giữa cột sống. Cắt xong khâu lại, chờ một thời
gian sau lại mổ ra để cắt tiếp 2 cáí nữa. Riêng việc cắt 6 sương
sườn đã phải mổ tất cả 3 lần, ròng rã trong một năm.
Năm 1946, ông được chuyển sang làm việc tại một viện điều dường
ở thành phố Lourdre, vùng Pyrénées. Ðược gần một năm, sức khỏe
có đỡ hơn nhưng vẫn khạc ra đờm có BK. Lại phải phẫu thuật. Lần
này ông bị khoét một lỗ lớn sau lưng, Hàng ngày bác sỹ nhét đầy
gạc vào trong phổi để hút hết đờm và các phần phổi đã hư nát ra
ngoài. Chỗ phổi nào thấy bắt đầu có sẹo thì dùng nitrat bạc để
đốt cháy. Qua 4 năm trời liên tục như vậy những miếng phổi hư
nát bị tống hết ra ngoài. Ðầu năm 1957 ông lại phải lên bàn mổ
để vá vết thương lưng, cắt 2 cơ lớn sau lưng, ép nó vào cái lỗ,
bịt lại, khâu da. It lâu sau, phần màng phổi bên phải, ở chỗ cơ
hoành bị tê liệt, phát mủ và tuôn sang bên trái làm cho phổi
trái bị nặng hơn. Phần màng phổi bị xử lý trong giải phẫu nhiều
lần đã dày lên rất nhiều, thuốc không vào được nên lại phải giải
phẫu.
Sau tất cả 7 lần mổ, toàn bộ lá phổi phải và một nửa lá phổi
trái bị cắt bỏ hoàn toàn khỏi cơ thể ông. Ông phải chủ động vận
dụng phần cơ hoành là chính, kết hợp với phần cơ bụng để nâng
cao hiệu suất thở, cung cấp nhiều oxy cho cơ thể để sức khoẻ
phục hồi nhanh.
Ðối với Nguyễn Khắc Viện, để duy trì cuộc sống, vần đề quan
trọng nhất là câu chuyện dưỡng sinh.
Luyện tập dưỡng sinh đã có từ xa xưa ở Trung Quốc và Ấn Ðộ. Tuy
nhiên, đọc lại những sách xưa và nay về khí công, yoga ta cảm
thấy rất nhiêu khê, phức tạp, lẫn lộn giữa chuyện đời với chuyện
thần bí rất khó hiểu. Nguyễn Khắc Viện đã tham khảo tất cả và
trình bầy rõ thêm về các vấn đề như: có đi được vào khoa học cơ
bản hay không ? Nguyên lý nằm ở đâu ? Giữa 2 cách : tập luyện
thể dục thể thao như Châu Âu và cách tập cổ truyền Ấ Ðông khác
nhau thế nào ? Cách nào để giữ gìn sức khoẻ, để giải quyết bệnh
tật ? Ông đã đúc kết thành bài vè cho dễ phổ biến :
Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Mặt Phật ung dung
Tập trung theo giõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Êm chậm. sâu, đều
Ðứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được
Tổ
chức Y tế Thế giới định nghĩa : “ Sức khoẻ là một tình trạng
thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không
phải chỉ là một tình trạng không có bệnh tật hay tàng tật ”,
Nguyễn Khắc Viện định nghĩa : “ Có sức khoẻ tốt là cơ thể con
người có thể tự điều chỉnh để thích ứng, thích nghi với những
đòi hỏi của cuộc sống, của môi trường ”.
Hồi mới từ Pháp về nước nhận công tác, Cục Bảo vệ Sức khoẻ xếp
ông vào loại mất sức lao động 100%, không được làm việc. Vậy mà
sau đó 30 năm, cho đến tuổi 80, ông chỉ phải vào viện một lần.
Cho đến khi biết mình sắp phải ra đi, ông chủ động viết sẵn lời
thỉnh cầu : “ Tôi đã già, lại bị thiếu thở trầm trọng từ hơn
40 năm nay, sắp tới, giả thử có tai biến gì hoặc mắc thêm các
chứng bệnh khác thì xin các cơ sở y tế đừng khám nghiệm, đừng
phẫu thuật, truyền máu hoặc bơm oxy gì thêm, Xin để tôi ra đi
nhẹ nhàng, đỡ khổ cho vợ con, bạn bè và cả bản thân tôi. Tôi xin
chịu trách nhiệm hoàn toàn về tôi ”
Tuy là một người có thể xem là tàn phế nhưng hồi ở viện Saint
Hillaire du Touvet, trong điều kiện vừa làm việc, vừa chữa bệnh,
Nguyễn Khắc Viện vẫn miệt mài đọc và học. Nhờ có thư viện lớn
tại đây với nhiều sách của các ngành khoa học, đặc biệt là y học
và triết học, ông không những nghiền ngẫm được nhiều sách triết
học của Trung Quốc, Ấn Ðộ, Phật giáo, Nho giáo … mà còn học chữ
Hán với một giáo sư Trung Quốc cùng nằm viện.
Nói là học với giáo sư Trung Quốc nhưng thật ra ông tự học theo
cái “ nghiệp ” khổ học của thầy đồ Nghệ. Gần nửa thế kỷ sau
người ta còn tìm được một chồng vở học chữ Hán của Nguyễn Khắc
Viện. Ðấy là loại vở đóng sẵn như sách in, 120 tờ giấy kẻ carô,
bìa dày, gáy bọc vải. Vở chia 2 nửa, viết từ hai phía vào. Một
nửa ghi học Bạch thoại ( tức tiếng Trung Quốc hiện đại ). Lật
nửa bên kia là phần ghi học chữ Hán.
Ông đã chép bằng chữ Hán toàn bộ cuốn Chinh phụ ngâm của Ðặng
Trần Côn, toàn bộ tập Thiên tự văn là sách vừa dạy kiến thức,
vừa dạy từ bằng văn vần để dễ thuộc, toàn bộ Sở từ, Hạc lấu và
tiền hậu Xích bích cùng rất nhiều thơ của các nhà thơ Ðường,
Tống tiêu biểu. Phần trích kiến thức từ Tứ thư, Ngũ kinh lại
càng phong phú. Từ Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Ðại học đến
Kinh thi, Kinh thư, Lễ ký, Nhạc ký, Nam Hoa kinh. Kể cả Hán thư,
Chiến Quốc sách, Sử ký, Thanh nang thư …
Suốt những năm làm giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn và tổng biên
tập hai tờ báo, phòng làm việc của ông vẫn chỉ là cái gác xép
nhỏ gần cầu thang tầng ba. Trang thiết bị trong phòng chỉ có một
chiếc tủ thường kê làm tường ngăn, một chiếc máy chữ cũ kỹ trên
một chiếc bàn cũ kỹ. Ghế ngồi là một thanh ván kê ngang, Quạt
máy không. Âm chén không. Ông nổi tiếng “ siêu nhân ” với huyền
thoại: “Tức không cáu, nóng không quat, ngứa không gãi ”?, ( Có
người còn “ sáng tác ” thêm: bẩn không tắm )
Thấm đượm hồn quê
Chuẩn bị lên đường sang Pháp, Nguyễn Khắc Viện được cụ thân sinh
tiễn chân đến tận Sài Gòn và mua cho một vé hạng ba trên một
chuyến tầu thuỷ. Lên tầu, ông đổi sang vé hạng tư để vừa dôi ra
ít tiền, vừa được tha hồ ngắm trăng sao, trời biển cùng các hành
khách hạng nghèo và một số lính Pháp hồi hương. Sang đến Pháp,
với số tiền dôi ra, Nguyễn Khắc Viện mua được một chiếc xe đạp
để ông từng có dip ngao du hầu khắp nước này trong các kỳ nghỉ
hè.
Hồi đỗ được 3 bằng tú tài, cụ thân sinh đã căn dặn : “ Học gì
thì học, nhưng tránh học làm quan như thầy ”, nay, trên bến Nhà
Rồng cụ lại đưa cho con một lá thư và yêu cầu ra ngoài biển hẵng
mở ra đọc. Ðại ý cụ viết : Sang bên Pháp, việc học hành thầy
không phải dặn, thầy tin con thành công. Thầy chỉ dặn một điều
là nhất thiết đừng lấy vợ đầm.
Thân sinh Nguyễn Khắc Viện tên là Nguyễn Khắc Niêm, sinh năm
1889. Từ nhỏ Nguyễn Khắc Niệm đã tỏ ra thông minh tuấn tú hơn
người. Năm 18 tuổi cụ đã đỗ Hoàng Giáp và được xem là một thần
đồng hoá thân. Dân làng thời bấy có người có con cái hay đau yếu
đã đem bán khoán cho cụ như bán cho thần linh. Có người xin một
mảnh vải cắt ra từ quần áo của cụ về làm bùa cho con cái đeo để
trừ tà.
Cụ
đã được bổ nhiệm nhiều chức vụ như : Ðốc học Nghệ An, Tư nghiệp
Quốc Tử Giám, hai lần giữ chức tham tri, hai lần giữ chức Phủ
Doãn …nhưng cụ vốn không tha thiết với quan trường. Năm 1941,
khi được bổ nhiệm Quyền Tổng đốc Thanh Hoá, nghe người đến chúc
mừng, cụ bảo : “ Mừng gì đâu !
On peut mettre
n’importe qui pour faire n’ importe quoi! ( Người ta có thể đặt
bất cứ ai ở bất cứ chỗ nào để làm bất cứ gì ! ).
Theo lời kể của
một số bà con ở xã Sơn Hoà, trong một cuộc gặp gỡ với các tiến
sỹ tân khoa, khi vua Thành Thái đề nghị mỗi vị hãy góp kế sách
để phục hưng quốc gia, cụ Nguyễn Khắc Niệm đã dâng “Tứ tôn châm
” :
Tôn tộc đại quy
Tôn lộc đại nguy
Tôn tài đại thịnh
Tôn nịnh đại suy
Nghĩa là :
Tôn trọng nòi
giống, ăt đại hoà hợp
Tôn trọng bổng lộc, ắt đại nguy nan
Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh
Tôn trọng siểm nịnh, ắt đại suy vong
Trong bài thơ “
Thăm động Từ Thức ”, cụ viết :
Tiếu ngã đương đồ quý khứ vãn
Tương phùng động khẩu tịch vô ngôn
Giáo sư Vũ Ngọc
Khánh dịch là :
Ta chưa về cũng đáng cười
Gặp nhau cửa động khôn lời nói năng
Quả nhiên, cụ
đã xin về hưu sớm, lúc tuổi thực mới chỉ 53.
Cách mạng Tháng
Tám thành công, cụ lại hăng hái đứng ra nhận bất cứ việc gì được
giao phó : Ủy viên Hội đồng Nhân dân xã, Ủy viên Hội đồng nhân
dân tỉnh, Ủy viên Ban Chấp hành Liên Việt Liên khu IV. ..
Tiếc rằng khi
cải cách ruộng đất cụ vẫn bị đầy ải khổ nhục nên đã mất sớm.
Ðược giáo dưỡng
trong một gia đình Nho học, gia giáo tại một vùng quê êm đềm,
thơ mộng bên con sông Ngàn Phố thường vọng vang những câu hò :
Ðôi ta cùng
nợ nước non
Chàng đà trả sạch, thiếp còn long đong
Bao giờ sông lặng nước trong
Bõ người chèo chống đêm đông nhọc nhằn
tâm hồn Nguyễn Khắc Viện vốn thấm đẫm tình quê.
Ông tâm niệm : “ Học Racine, Hugo chỉ chú ý đến tác phẩm và
lời văn. Nhưng khi học về Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Ngô Thì Nhậm, Phan Ðình
Phùng, Phan Bội Châu … chủ yếu là nhớ đến những con người, những
thân phận người, con người mà xưa gọi là nho sỹ ”,( 1 ) “
Ðọc sách vở của họ, thấy vẫn thiếu một cái gì, họ vẫn đứng ngoài
mà nhìn vào, hiểu được học thuyết triết lý mà không nắm, không
thấm được đạo lý. Họ thiếu cả một chiều dày truyền thống ” (
1 )
Học trò trường Bưởi hồi nào còn nhớ một học trò xứ Nghệ gầy
guộc, đầu húi kiểu ca-rê, trong khi bạn bè nếu không để tóc kiểu
“ nhà triết học ” ( tóc dài chải lật ra sau để trưng cái trán
cao cho có vẻ thông thái ) thì cũng để tóc dài, rẽ ngôi. Ở Pháp
lâu năm nhưng ông vẫn không để phôi phai đi cái chất thổ ngơi
Việt Nam, vẫn giữ cái giọng Nghệ với ít nhiều phai bạc như một
thứ “ hương âm vô cải ”. Một Việt kiều ở Pháp sau này gặp lại
ông đã mô tả ông : “ Người cao và gầy, da thịt trông giống như
những bức tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương ”. Cái chất “ cá gỗ
” của ông cho đến sau này nhiều khi vẫn được biểu hiện như một
khía cạnh đạo đức. Nhà báo Lê Phú Khải kể: “ Một lần bác xuống
nhà tôi chơi ở Mỹ Tho. Vợ tôi làm cơm đãi khách. Mâm cơm chỉ có
một đĩa thịt bò xào, một đĩa rau muống xào và một tô nước rau
muống luộc vắt chanh với mấy quả cà ! Ðó là một mâm cơm đãi
khách không dễ gì có được trong thời bao cấp với một phóng viên
nghèo như tôi. Nhưng than ôi ! khi tôi gắp miếng thịt bò đưa vô
miệng nhai thì … dai như chão rách. Nuốt vô thì tội mà nhả ra
thì bất tiện. Tôi liếc mắt nhìn, thấy vợ tôi rất lúng túng. Bỗng
bác Viện nói : Dai thế này thì để đĩa thịt bò này lại, chỉ ăn
rau muống xào thôi, chiều nay băm thịt bò thật nhỏ rồi đúc trứng
mà làm bữa chiều ”.
Giữa Paris tráng lệ, ông vẫn viễt những câu thơ man mác tình quê
:
Ðêm khuya nghe giọng ai hò
Nhớ sông Ngàn Phố, nhớ đò chợ phiên
Mối tình nồng nàn ấy còn trẻ trung sâu lắng mãi đến khi ông đã
ngoại tám mươi :
Nước Ngàn Phố khi trong khi đục
Xóm làng quê soi bóng dọc đôi bờ
Ðẹp chi cho lắm sông ơi !
Ðể lòng ta cả một đời thương nhớ
Ðẹp chi cho lắm các o ơi
Ðể lòng ta, ngày lại ngày sóng sánh đầy vơi
Ông da diết với quê hương, tha thiết với tuổi trẻ của mình và
của dân tộc.
Hồi học tiểu học, Nguyễn Khắc Viện rất mê đá cầu. Ông đá rất
tài, bằng mu bàn chân, bằng gan bàn chân, bằng gót chân, bằng
đầu gối … Hàng năm bẩy phút không để quả cầu rơi xuống đất. Sau
ngày ông mất, một môn sinh còn hồi tưởng lại : “ Nói đến đá cầu,
cho đến nay, tôi chưa phải đứng vào hàng các cao thủ nhưng cũng
đã là hạng không phải tầm thường trong giới “ cầu lâm ” là nhờ
một phần nắm được những nguyên tắc chung do bác Viện “ chỉ điểm
” về sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ và hơi thở, bắt được đúng
cái nhịp bên trong và bên ngoài của nó làm giảm bớt mệt mỏi và
bớt chảy mồ hôi, đồng thời luyện được tính bền bỉ, nhanh nhạy,
phản xạ kịp thời và một tinh thần tỉnh táo trước mọi biến cố.
Bác đá rất tài, đá đông đỡ tây, đá nam đón bắc, quả cầu cứ vun
vút xoay quanh mình, rất nhịp nhàng, chính xác và đẹp mắt. Xem
bác đá cầu cứ như một diễn viên xiếc tung hứng bằng chân trên
sân khấu. Ðiểm đặc biệt ở bác là phong cách đá rất ung dung,
bình tĩnh, đá nhẹ mà cầu lên cao, nhanh mà không vội, di chuyển
chứ không với, lúc di chuyển, chân bác lướt trên mặt đất như
thuật “ khinh không ” trong các truyện võ hiệp ”.
Một lần ông xuống Hải Phòng, bí thư thành uỷ Ðoàn Duy Thành khoe
với ông về một bãi đá bóng mới được chỉnh trang. Ông nói : “ Bãi
đá bóng của anh mất bao nhiêu triệu thì ngày chủ nhật cũng chỉ
có 22 người chơi, còn mấy chục vạn trẻ em thành phố, anh có chỗ
nào chơi không ? ”. Rồi ông hiến kế: “ Cha ông ta có cái chơi là
đá cầu rất đơn giản. Thứ nhất là nó rẻ tiền, một quả cầu giá chỉ
bằng hai quả chuối thôi, đứa bé nào cũng mua được. Cái rẻ tiền
thứ hai là bất kỳ chỗ nào, một vỉa hè nho nhỏ, một sân be bé,
sân trường, sân chùa … cũng có thể chơi được ”. Ông giảng giải
rằng : “ Ðá cầu vừa có tính đại chúng, rẻ tiền, vừa vận động đôi
chân rất là phức tạp, chạy nhảy lên xuống, quay trái quay phải
rất toàn diện. Ðến mức, ngày xưa quân đội đời nhà Lý, nhà Trần
lấy đá cầu làm môn bắt buộc cho binh lính, tướng tá. Ba môn:
cưỡi ngựa, đấu kiếm và đá cầu là ba môn rất coi trọng rèn luyện
đôi chân, tức là cước pháp ”.
Vào khoảng 1960-65, ông tung ra một bài báo nêu vấn đề tổ chức
lại môn đá cầu, nhưng mãi đến sau 1970 ông mới có điều kiện lo
việc tổ chức thực hiện. Ông không những phải lo nghiên cứu quả
cầu sao cho rẻ và được chuẩn hoá mà còn lo tổ chức tiếp thị. Ông
đem cầu đi bán dạo và bán ngay cả ở nhà. Có lần ông đang ngủ
trưa nghe trẻ con réo: “ Ông ơi, bán cho cháu quả cầu ”. “ Ôi,
đang ngủ trưa, hai giờ trở lại ”. “ Ông ơi! ông bán cho cháu đi,
cháu ở xa lắm, không đợi được ”. Thế là ông phải vùng dậy chiều
“ thượng đế ”. Cho nên gặp ông ngoài đường, trẻ con bảo nhau : “
Ðấy, ông già đá cầu đấy ”. Không chỉ trẻ em mà có cả ông già
cũng viết thư cho ông : “ Từ ngày bác sỹ phổ biến phong trào đá
cầu, tôi sung sướng nhất trên đời này. Trước đây, tôi hay chơi
cái này, nhưng it ai để ý. Nhưng tôi xin lỗi, tôi mới tập đọc
tập viết, tôi viết thư này phải thức đến 3 giờ sáng. Khi nào ông
về Hậu Giang, ông cứ hỏi ông Sáu bán bánh tráng từ mấy chục năm
rồi, ở thi trấn này, ai cũng biết.. .Cứ đến tôi mà chơi, chơi
bao nhiêu ngày cũng được, tôi cũng nuôi được ”.
Một chuyên gia thể thao Liên Xô sang Việt Nam nhận thấy môn đá
cầu có khả năng rèn luyện thể lực tốt và nhận xét môn này có
những cú đá không có trong môn bóng tròn; ông xin một quả cầu
cùng thể thức thi đấu mang về nước nghiên cứu phổ biến. Sau ngày
đất nước thống nhất được vài năm , thủ tướng nước cộng hoà Gabon
thuộc Châu Phi sang dự hội nghị ACCT ở Việt Nam đến làm việc rồi
tình cờ được xem đội đá cầu của nhà xuất bản Ngoại văn chơi. Thủ
tướng ngắm cái sân chơi, gang tay đo chiếc lưới, vuốt vuốt quả
cầu và nói : “ Thật là tuyệt vời, một môn thể thao của các nước
nghèo ”.
Từ
Hội khoẻ Phù Ðổng lần thứ 3, môn đá cầu được đưa vào chương
trình thi đấu chính thức, được Tổng cục Thể dục Thể thao xét
phong đẳng cấp vận động viên.
Ðội tuyển đá cầu Việt Nam đã đi thi đấu quốc tế và giành thứ
hạng cao.
Một buổi sáng xuân năm 1997, khi ông đã nằm liệt giường, người
chỉ còn da bọc xương, ông goi bà Nguyễn thị Nhất- vợ ông- đến
lấy cho một chiếc hộp sơn mài mầu đen, bên trong đựng 3 quả cầu
và hai tấm huy chương : huy chương Vì Thế hệ trẻ và huy chương
Vì Sự nghiệp Thể dục Thể thao. Ông chọn một quả cầu có đế bằng 4
miếng cao su ghép lại với những tua bằng dây ni-lông xé nhỏ rồi
với sắc mặt rạng rỡ hẳn lên, ông giơ cao nói với đoàn làm phim :
-
Ðây mới là quả cầu mà chúng tôi đã trắc nghiệm nhiều lần. Một
quả cầu chuẩn xác. Một quả cầu …
Ðồ
sộ những công trình
2
giờ 45 phút ngày 10 tháng 5 năm 1997, bác sỹ Nguyễn Khác Viện đã
ra đi. Qua cuộc đời hơn tám thập kỷ của mình, ông đã để lại gần
trăm cuốn sách và hàng trăm bài báo về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Có thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu :
- Bàn về đạo Nho - Xuất bản bằng tiếng Pháp. Bản dịch
tiếng Việt dày 170 trang được ấn hành tại Việt Nam năm 1993
- Việt Nam - Tổ quốc được tìm tháy - Xuất bản bằng tiếng
Pháp dày 300 trang
- Kinh nghiệm Việt
Nam
- Xuất bản bằng tiếng Pháp và tiếng Anh dày 300 trang
- Thông sử Việt
Nam
- Dày 500 trang, xuất bản bằng nhiều thứ tiếng : Anh, Pháp, Nga,
Ðức, Tây Ban Nha.
- Ước mơ, kỷ niệm, bình luận - Tiếng Pháp, dày 300 trang
- Kể chuyện đất nước
- dày 200
- Lòng con trẻ ( dành cho những người làm cha, làm mẹ )
- Từ điển chuyên ngành, Từ điển Tâm lý học
……
Ngoài ra, ông còn cùng học giả Hữu Ngọc tuyển chọn tuyển tập “
Một nghìn năm văn học Việt Nam ” gồm 4 tập, tổng cộng non 3.000
trang, trong đó riêng phần giới thiệu văn học sử của ông đã ngót
200 trang. Tuyển tập này được một số nhà văn, nhà thơ nước ngoài
dịch ra tiếng Pháp.
Vốn là một dịch giả có uy tín, ông được giao việc dịch Truyện
Kiều ra tiếng Pháp. Bản dịch này được tái bản tới lần thứ năm.
Ông viết cuốn “ Bàn về Ðạo Nho ” là để thảo luận với nhà văn lớn
của Pháp Albert Camus khi ông này đưa ra nhận xét rằng hoà bình
thế giới có thể bảo vệ, nếu những người có thiện chí ở các nước
thành lập được một thứ hội đoàn quốc tế theo kiểu các sỹ phu nho
học và dựa trên cơ sở thuyết của Khổng Tử.
Theo Nguyễn Khắc Viện : “ Nho giáo còn hơn là một thứ học
thuyết ghi chép trong sách của thánh hiền, đó là một di sản của
lịch sử, một di sản cơ bản để tiếp thu, để chống lại, để vượt
qua trong quá trình chuyển biến lịch sử mà đất nước đang phải
trải qua trong thời đại hiện nay ”. Ông thấy được cái chông
chênh, ngập ngừng giữa hai mệnh đề trong triết lý Nho học : “ giữa
lý, tức nguyên lý của sự vật và khí tức thực chất của sự vật.
Những kẻ đề cao lý, thì chủ trương quyền của vua theo mệnh trời;
còn những kẻ đề cao khí thì nghiêng về phía nhân dân ”. Ông
vạch ra một trong những yếu kém nhất của Nho giáo : “ Trên
phương diện chính trị, Nho giáo chủ yếu là báo thủ. Nó bỏ qua
vấn đề luật pháp và thiết chế, từ chối mọi sự cải cách. Ðạo lý
về chính trị chủ yếu là bảo thủ, hướng tư tưởng vào việc tu thân
nhằm mục đích cải thiện xã hội mà không muốn đặt vấn đề thiết
chế, là đặc trưng của những kẻ sợ những biến động xã hội ”.
Ông phê phán : “ Trên thực tế, Nho giáo còn hơn cả sự bảo
thủ, nó quay hoàn toàn về quá khứ. Bảo vệ lễ nghi của các triều
đại xưa là mối quan tâm lớn của Khổng Tử. Trong chữ lễ, vương
triều Trung Hoa cũng như Việt Nam đã tìm thấy biện pháp tốt nhất
để duy trì sự ổn định của ngai vàng ”. Ông liên hệ và tìm ra
các lỗ hổng cuả Ðạo Nho và của Chủ nghĩa Mác : “ Ðạo là con
đường. Nhân văn là tìm hiểu con người về cả ba mặt sinh hoc-xã
hội-tâm lý để cố gắng luyện mình theo 3 hướng dưỡng sinh ( thầy
Khổng bỏ qua mặt này ), xử thế, tu thân ( Mác xem nhẹ mặt này )”.
( 1)
Bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của ông được độc giả và giới
nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá là hay nhất trong tất cả
7 bản dịch Kiều ra tiếng Pháp từ xưa tới nay. Không chỉ bởi đã
lột tả được thần thái của nguyên bản mà còn vì bản dịch của ông
rất giàu chất thơ.
Ngay trong khổ thơ đầu : “ Trải qua một cuộc bể dâu ”.
Nhiều các giả
trước, ví dụ như Xuân Việt và Xuân Phúc thì dịch đúng từng chữ:
“ À travers tant de bouleversements - mer devenues champs du
murier ”. Câu thơ dịch của Nguyễn Khắc Viện đầy hình tượng và âm
thanh : “ L’ océan gronde là òu verdoyaient les muriers ?
( Ðại dương gầm lên nơi xưa kia ngàn dâu xanh tốt ).
Những câu như :
Au rythme
des sons, la lampe semblait briller ou s’obscurcir
Plongeant l.homme qui écoutait dans une mélancolique revêrie
Có thể xem là
còn sinh động hơn các câu :
Ngọn đèn khi tỏ, khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Ngày 18 tháng 6
năm 1997, trong lễ tưởng niệm Nguyễn Khắc Viện tại Paris, tiến
sỹ sử học Charles Fourniau phát biểu : “ Nguyễn Khắc Viện, một
học giả Việt Nam cũng là văn sỹ Pháp, và là một nhà văn chính
hiệu. Một phần tác phẩm của ông được trực tiếp viết bằng tiếng
Pháp, với một ngôn ngữ truyền thống trong sáng, chính xác của
các tác giả thế kỷ 18. Ðồng thời, Nguyễn Khắc Viện cũng là một
dịch giả phi thường. Chính ông đã cho phép ta tiếp cận với không
chỉ câu chuyện, mà cả với nét kiều diễm và cảm xúc của Kim Vân
Kiều. Thêm vào đó, nhờ sự chỉ đạo của ông mà các nét phong phú
của nền văn minh Việt Nam được mở ra cho chúng ta qua “ Tuyển
tập văn học Việt Nam ” được Nhà xuất bản Ngoại văn, do ông làm
giám đốc, ấn hành ”.
Nhà xã hội học
Hoa Kỳ Frank Schurmann đã tuyển dịch những bài viết xuất săc của
ông ra tiếng Anh trong một tuyển tập nhan đề : “ Tradition and
Revolution ” ( Truyền thống và cách mạng ) với lời đề tựa : “
Ðọc nguyễn Khắc Viện là nhìn thấy, cảm thấy, là hiểu cái logic,
quyết tâm không nguôi và chủ nghĩa nhân đạo bình dị của Việt Nam
cách mạng ”.
Không chỉ là
dịch giả, là nhà nghiên cứu …, Nguyễn Khắc Viện còn là một nhà
báo thực thụ. Khi được giao nhiệm vụ tổng biên tập, ông đã đề
nghị đổi tên tờ Le Vietnam en marche thành tờ Le Courrier du
Vietnam đồng thời phát triển thêm một tạp chí có tầm khái quát
hơn : Etudes Vietnamiennes. Etudes Vietnamiennes, thời Nguyễn
Khắc Viện phụ trách được các giới ngoại giao của ta ở nước ngoài
đánh giá là ấn phẩm giới thiệu Việt Nam tốt nhất và được độc giả
nước ngoài liệt vào loại sách tham khảo giá trị. Một độc giả
Nhật Bản đánh giá là tạp chí đã “ trình bầy một cách tuyệt vời
nền văn minh cổ và những thành tựu mới của Việt Nam ”, một trí
thức Pháp đánh giá Etudes Vietnamiennes là một trong những tạp
chí rất có chất lượng trong thế giới thứ ba.
Bốn ngày trước
khi nhắm mắt, khi sức đã kiệt, nhà báo Nguyễn Khắc Viện vẫn ráng
viết thêm bài báo cuối cùng “ Câu chuyện đóng đinh vào cột ” để
gửi cho báo Sức khoẻ và Ðời sống.
Có thể ít người
biết rằng Nguyễn Khắc Viện còn là nhà văn viết cho thiếu nhi.
Trong “ Tủ sách Vàng ” của Nhà xuất bản Kim Ðồng năm 1997 có tập
truyện mỏng của Nguyễn Khắc Viện mang tên “ Trâu đánh Cọp ” gồm
4 truyện kể giản dị mà giầu ý nghĩa giáo dục; gắn với truyền
thống lịch sử mà rất đậm ý vị thời đại; gắn thường thức khoa học
với văn chương mà không khô gượng. Ðó là các truyện : Quyết
chiến giữa muỗi và người, Trời Phật xử kiện, Chiếc gương soi
lòng.
Với tấm lòng
yêu trẻ thiết tha, ông đã cống hiến phần lớn khoản tiền thưởng
400 000 francs ( khoảng gần một tỷ đồng Việt Nam ) trong giải
thưởng Grand pris de la Francophonie của Viện Hàn Lâm Pháp tặng
ông ( Ðây là giải thưởng lớn mà Nguyễn Khắc Viện là người thứ 7
trên thế giới được nhận ) cho quỹ của Trung tâm Nghiên cứu Tâm
lý Trẻ em N-T.
Vượt lên trên
những trở ngại ban đầu để khai sinh cho được Trung tâm N-T cũng
đòi hỏi một nghị lực phi thường. Vào năm chủ trương thành lập
Trung tâm N-T, nhà nước chưa hề cho phép tổ chức cơ quan nghiên
cứu khoa học kiểu dân lập. Chật vật lắm mới xin được quyết định
cho thành lập của Uỷ ban Khoa hoc Kỹ thuật Nhà nước thì hoàn
cảnh ban đầu là 3 không : Không trụ sở, không có biên chế cán
bộ, không có kinh phí Nhà nước. Nhờ sự giúp đỡ của anh em Việt
kiều và đặc biệt là khoản trợ giúp 300.000 francs của một phái
đoàn Pháp trung tâm mới thuê được một căn phòng ở 46 Trần Hưng
Ðạo và cấp kinh phí cho một số triển khai ban đầu. Vậy mà, chỉ
nửa năm sau ngày ra đời, N-T đã ra được hai cuốn sách về tâm lý:
Một quyển về phát triển tâm lý trẻ con từ 0-3 tuổi, một quyển về
phát triển tâm lý trong năm đầu, từ 1 -12 tháng.
Trước ngày mất
ba năm, ở tuổi 80 đầy tật bệnh, trong tình trạng sức khoẻ đã suy
giảm rõ rệt, ông vẫn tập trung chỉ đạo việc tổng kết đề tài “
Bước đầu nhận dạng phân loại các rối nhiễu tâm lý thường gặp ở
trẻ em Việt Nam hiện nay ”. Ðề tài được tiến hành trong suốt hai
năm 1994- 1996 không kể giai đoạn chuẩn bị, biên soạn thuật ngữ,
đưa 10 phòng khám tâm lý y học vào hoạt động, xây dựng hồ sơ và
Việt hoá các test tâm lý … Ðây là một công trình khoa học lâm
sàng đầu tiên, nhằm đặt nền tàng cho chuyên ngành tâm bệnh lý
trẻ em về các mặt phương pháp luận, xây dựng thuật ngữ và xếp
loại lâm sàng, trên cơ sở nắm bắt thực tiễn con người và xã hội
Việt Nam. Với sự cộng tác nhiệt tình của nhiều nhà trí thức
trong các ngành y tế, giáo dục, khoa học xã hội , Trung tâm N-T.
đã đặt những viên gạch đầu tiên cho nền móng xây dựng ngành khoa
học tâm lý, tâm bệnh lý và tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam.
Thiết tha với
sự nghiệp giải phóng dân tộc
Năm 1941, sau
khi bảo vệ thành công luận án bác sỹ y khoa, Nguyễn Khắc Viện
chuẩn bị về nước thì đúng vào dịp quân Ðồng Minh chặn đường
biển, không có tầu thuỷ về Việt Nam. Ông bị mắc kẹt và đành ở
lại Pháp tiếp tục làm việc tại bệnh viện Trousseau. Trong kháng
chiến chống Ðức, đảng Cộng sản Pháp là những người cầm đầu. Sau
khi Liên Xô đánh thắng Ðức, uy tín của Liên Xô và của đảng Cộng
sản Pháp lên cao. Không chỉ công nhân mà nhiều trí thức lớn như
Pierre Curie ( giải thưởng Nobel về Vật lý ), danh hoạ Picasso,
nhà thơ lớn Aragon cũng tham gia đảng Cộng sản. Năm 1949, Nguyễn
Khắc Viện cũng xin gia nhập và được kết nạp vào đảng Cộng sản
Pháp . Ông sinh hoạt ở chi bộ khu phố Ile verte. Chi bộ này có 5
người : ông, 1 kế toán viên, một bà nghỉ hưu và 2 công nhân ở xí
nghiệp. Chi bộ chia nhau đi bán báo, rải truyền đơn ? Ðêm đêm
còn bí mật đi kẻ khẩu hiệu ở các nơi công cộng : ? Phải ngừng
chiến tranh ở Việt Nam ?.
Một hôm có vị
nghị sỹ, chủ tịch Uy ban về Ðông Dương của quốc hội Pháp đến nói
chuyện tại bệnh viện tuyên truyền rằng Bảo Ðại là đại diện cho
dân tộc Việt Nam . Hồ Chí Minh chỉ là một nhóm phiến loạn.
Vị nghị sỹ Pháp
vừa diễn thuyết xong, Nguyễn Khắc Viện liền xin đăng đàn. Ông
nói rất hùng hồn trong hơn 15 phút. Bẵng những thực tế đã nắm
được qua nhiều nguồn thông tin, dẫn chứng cả báo cáo mật của
tướng Revers ( tướng chỉ huy quân sự ở Ðông dương ) mà anh em
Việt kiều thu được qua các nguồn rò rỉ, ông đã chứng minh rằng
90% nhân dân Việt Nam đều đi theo chính phủ Hồ Chí Minh.
Mấy hôm sau,
một người thuộc phái phát xít cực đoan viết kiến nghị lên ban
giám đốc bệnh viện : Nguyễn Khắc Viện là phần tử chống chính phủ
Pháp. Ta không thể chăm sóc nuôi dưỡng anh ta như nuôi ong tay
áo, cần đuổi anh ta đi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều không
đồng tình với ý kiến của kẻ phát xít cực đoan kia. Họ lập luận :
“ Ông Viện làm bác sỹ ở bệnh viện Paris vào đây điều trị là từ
phần phúc lợi của người lao động, không thể nào vì ý kiến chính
trị mà tước bỏ quyền lợi đó được ”.
Ngay từ đầu năm
1943 sức khoẻ chỉ mới tạm thời ổn định ông đã lao vào hoạt động
bí mật chống thực dân Pháp trong các trại tập trung công binh và
chiến binh Việt Nam bi bắt đi làm bia đỡ đạn cho Pháp. Ông dạy
học, giác ngộ chính trị cho anh em, đẩy mạnh phong trào đòi
chính phủ Pháp chấm. dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Hoạt động của
tổ chức Việt kiều sôi nổi và hữu hiệu đến mức một người cũng ở
xứ thuộc đia Pháp khác đã so sánh : “ Ơ Grenoble cộng đồng Việt
Nam chỉ có 30 người, thế mà làm được bao nhiêu việc : mít tinh,
văn nghệ, viết báo, được nhân dân Pháp ủng hộ và yêu mến, trong
lúc đó hàng ngàn người chúng ta cũng kháng chiến chống thực dân
nhưng làm được gì, chỉ biết có dao găm ! ”
Ðể hạn chế tác
dụng của phong trào Việt kiều ngày càng lớn mạnh, chính phủ Pháp
ra tay đàn áp. Cuối năm 1952, giữa lúc cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Việt Nam chuyển mạnh sang tổng phản công, nhằm
ngăn cản tổ chức Việt kiều liên hệ với đảng Cộng sản và các tổ
chức tiến bộ Pháp để vận động ủng hộ kháng chiến và chính phủ Hồ
Chí Minh, họ càng truy lùng ráo riết. Năm giờ sáng một sớm tháng
12 năm 1952, họ ập vào bắt 12 người. Sau khi hỏi cung, họ trục
xuất ông Phạm Huy Thông ra khỏi Pháp, đưa về giam ở Sài Gòn cho
đến khi ký kết Hiệp định Genève mới thả. Nguyễn Khắc Viện trốn
thoát về ở trong nhà một bà công nhân làm bảo vệ ở một trường
tiểu học ngoại ô Paris. Cảnh sát đến tra hỏi : “ Tại sao bà dám
chứa chấp một anh Việt Minh chống chính phủ Pháp ? ”. Bà trả
lời: “Ðấy là quyền của tôi. Nếu tôi chứa chấp một thằng ăn trộm
ăn cướp thì tôi phạm tội, còn mời một người ở nhà tôi, ý kiến
chính trị của người ấy như thế nào, chuyện này không có tội gì
cả ”.
Sau khi ông
Phạm Huy Thông bị trục xuất, ông Trần Thanh Xuân cũng bị cảnh
sát vây hãm chặt vì đã từng liên hệ với chính phủ và đảng Cộng
sản Pháp nên trong nước đành gọi về. Nguyễn Khắc Viện phải đứng
ra phụ trách anh em để cùng nhau khôi phục lại tổ chức hoạt động
Việt kiều trong hoàn cảnh bí mật.
Sau Hiệp định
Geneve tháng 7 năm 1954, sự truy nã của chính phủ Pháp giảm bớt.
Tuy nhiên, lệnh trục xuất đối với Nguyễn Khắc Viện vẫn duy trì
cho nên ông vẫn là người sống bất hợp pháp và nguy cơ bị cảnh
sát bắt là thường trực.
Mãi đến năm
1956, nhà cầm quyền Pháp mới cho tổ chức Việt kiều ra hoạt động
công khai, đồng thời Nguyễn Khắc Viện cũng được cấp giấy phép cư
trú.
Tổ chức Việt
kiều ra công khai lấy tên là “ Hội Liên hiệp Việt kiều vì hoà
bình, nhắm xây dựng tình hữu nghị Pháp - Việt ” ( Union des
Vietnamiens pour la paix au Vietnam et pour l’Amitié
Franco-Vietnamienne ). Trụ sở đóng tại số 4 Git de Coeur xóm La
tinh, nơi có nhiều công nhân Việt kiều ở. Phòng trên là văn
phòng của Hội, phòng dưới có thể họp được 50-60 người, đồng thời
là căng tin. Một mặt để anh em đến đây vừa ăn uống, vừa trao
đổi. Mặt khác bán cho khách ngoài, lấy tiền đóng quỹ hội. Ông
được bầu là Tổng thư ký Hội.
Phương thức
hoạt động của Hội ngày càng đa dạng, quy mô ngày càng lớn, đặc
biệt là hai dịp biểu dương lực lượng hàng năm : ngày hội báo
Nhân Đạo ( L’Humanité ) vào đầu tháng 9, trùng với Ngày Quốc
khánh của ta, và Tết Nguyên đán. Ngày hội của báo Nhân Ðạo tổ
chức tại công viên Vincennes, ngay sát cửa ô thủ đô Paris có khi
thu hút đến một triệu người. Các bạn Pháp dành cho Việt kiều một
khu rộng để triển lãm, cờ đỏ sao vàng kéo lên bay phần phật giữa
thủ đô nước Pháp. Hàng vạn người đi qua, ký tên vào kiến nghị
đòi chính phủ Pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Mỗi lần như
vậy, cửa hàng ăn Việt Nam bán ra hàng chục nghìn chiếc chả dò và
hàng ngàn bát phở
Năm 1962, do sự
điều đình giữa chính quyền Ngô Ðình Diệm với nhà chức trách
Pháp, chính phủ Pháp lại ký lệnh trục xuất Nguyễn Khắc Viện. Ông
nán lại một thời gian để làm báo cáo công tác và giúp đỡ đoàn
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông Mai Văn Bộ làm đại
diện tại Paris. Ngày 27 tháng 4 năm 1963, ông được Ðảng và Nhà
nước ta đưa về nước qua đường Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc.
Buổi ông rời Pháp lên đường, kiều bào và các bạn Pháp kéo đến
tiễn chân, đông như một cuộc biểu tình.
Về nước, ông
được Ðảng và Nhà nước giao nhiệm vụ làm Ủy viên Ban Ðối ngoại,
trực tiếp phụ trách công tác tuyên truyền quốc tế. Ngoài nhiệm
vụ tổng biên tập báo Le Courrier du Vietnam và tạp chí Etudes
Vietnamiennes ông còn phải đảm trách chức giám đốc Nhà xuất bản
Ngoại văn. Hàng trăm bài báo và đầu sách ông viết bằng tiếng
Pháp gửi các báo nước ngoài hoặc cho 3 cơ quan trên đã có một
tác dụng lớn lao, giúp cho bạn đọc Pháp và những nước nói tiếng
Pháp hiểu rõ và thêm yêu mến đất nước Việt Nam, con người Việt
Nam, cảm thông chia sẻ với cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
của nhân dân Việt Nam.
Giáo sư Hoàng
Như Mai nhận xét là : “ Văn phong của anh Viện - khi viết Pháp
văn - giản dị, trong sáng, khúc chiết. Tôi nghĩ rằng anh Viện
viết thứ văn Jules Michelet, Ernest Renan, một thứ văn thuần
Pháp ”.
Tiên phong
trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hoá đất nước-
Năm 1963, khi
mới về nước, Nguyễn Khắc Viện đã tuyên bố một câu mà sau đó được
giới trí thức ở Hà Nội lưu truyền : “ Nếu mở mắt ra, nước Việt
Nam biến thành nước Pháp thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản, còn
như phải đi 200 năm đầy máu và nước mắt để Việt Nam trở thành
nước Pháp thì tôi theo Liên Xô ”.
Khi Liên Xô sụp
đổ, nhà báo Lê Phú Khải thẳng thắn thân tình hỏi ông : “ Khi
xưa, mới về nước, bác đã nói một câu nổi tiếng về Liên Xô, nay
Liên Xô đã tan rã rồi …giờ “ cụ ” nghĩ sao đây ? ”. Vẫn điềm
đạm, chân tình, Nguyễn Khắc Viện trả lời : “ Giờ thì tôi đi theo
kinh tế thị trường văn minh chứ không phải tư bản hoang dã …”.
Cái thứ xã hội
chủ nghĩa mà Nguyễn Khắc Viện cũng như nhân dân ta đã ngây thơ
kỳ vọng tới, đã đau đớn xả thân một cách lầm lạc vì nó, đã không
hề có trong thực tế ở Liên Xô, ở Trung Quốc … Về sống cùng quê
hương xứ sở, Nguyễn Khắc Viện mới bàng hoàng nhận ra : “ Chủ
nghĩa xã hội ngây thơ mang tính hoàn toàn Nhà nước thúc ép tất
cả mọi người vào một cái khung áp đặt từ trên xuống, tạo ra một
bộ máy quan liêu và hào lý nặng nề, tiêu diệt óc sáng kiến của
nhân dân ” ( 2 ). Từ cái đường lối xã hội chủ nghĩa quái đản
ấy đã buộc phải thực thi những chủ trương, biện pháp sai lầm đến
mức như là phản động. Nguyễn Khắc Viện phát biểu : “ … sau
này theo dõi thực tế và nghĩ lại, tôi mới thấy hợp tác hoá thực
chất là tập thể hoá, tước đoạt quyền làm chủ của người nông dân
trên mảnh đất của họ. Quyền sử dụng ruộng đất ở nông thôn, trồng
gì, giá cả ra sao, chi phí thế nào … do bí thư, chủ tịch, chủ
nhiệm hợp tác xã quy định, dân không có quyền gì nữa. Bộ máy dần
dần thoái hoá, tiêu xài phung phí, lạm dụng quỹ chung của hợp
tác xã, nông dân làm ra, cuối cùng tính công điểm chẳng còn bao
nhiêu. Người nông dân không hào hứng nữa, đánh kẻng rồi mới đi
làm, không còn cảnh ra đồng sớm như trước nữa. Cuộc sống nhiều
khi dựa trên thu nhập từ kinh tế gia đình, trên đất 5% là chủ
yếu, mặc dù nuôi được một con lợn, muốn bán cho ai, bán lúc nào,
giá cả ra sao, cũng không có quyền quyết định ” ( 3 ).
Ơ miền Bắc, hợp
tác xã có điều kiện thuận lợi hơn nên lúc đầu cũng có một số tác
dụng, nhưng càng về sau càng bộc lộ những bất cập, kìm hãm sản
xuất ghê gớm. Thế mà sau khi giải phóng Miền Nam, Ðảng vẫn chủ
trương hợp tác hoá nông nghiệp ồ ạt, đặt chỉ tiêu một cách ngông
cuồng : Năm 1980 phải hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn
Miền Nam !
Ði theo đường
lối tiến lên chủ nghia xã hội bằng những chủ trương, biện pháp
hết sức sai lầm. Ðảng đã nghèo khổ hoá nhân dân và đẩy đất nước
đến bờ vực thẳm. Tuy nhiên, khi chợt bừng tỉnh, Ðảng lại đi từ
sai lầm tả khuynh đến sai lầm hữu khuynh khi giương cao khẩu
hiệu “ Ðảng viên cũng phải biết làm giầu ”. Thực tế ấy làm
Nguyễn Khắc Viện trăn trở : “ Cách mạng Pháp nêu khẩu hiệu “
Tự do-Bình đẳng-Bác ái ”. Trên cái nền “ Tự do-Bình đẳng-Bác
ái”ấy mà nước Pháp trở thành giầu có. Nếu chỉ nêu khẩu hiệu làm
giầu mà bất chấp mọi thứ thì sẽ dẫn đến chụp giựt, sa đoạ, lừa
đảo, phá hoại cả môi trường nhân văn và môi trường sinh thái ” (
4 ).
Trong cơn khát
làm giầu như thế, hàng loạt cán bộ, đảng viên đua nhau móc
ngoặc, tiếp tay cho con buôn, lạm dụng công quỹ, lợi dụng đất
đai, tài sản, phương tiện của nhà nước để vơ vét vào túi tham vô
đáy của mình. Ông viết bài “ Chống tiêu cực ” vạch rõ : “ Tình
trạng cán bộ tham ô, ức hiếp nhân dân, không chỉ là trái đạo
đức, mà còn là vấn đề chính trị ”
Khi tình hinh
xã hội đã trở nên rất nghiêm trọng, ông viết “ Thất trảm sớ ”
gửi Quốc hội. Nội dung tóm tắt như sau :
1 - Ðường lối
đề ra tiến lên sản xuất lớn XHCN, nhưng phải điều chỉnh lại để
sản xuất nhỏ cũng có vị trí nhất định.
2 - Phải mở
rộng quan hệ quốc tế rộng rãi, trước hết là với các nước anh em
đã có quan hệ lâu năm. Việc làm ăn với Liên Xô nên đàng hoàng,
thân tình, cởi mở hơn, không để cho tinh thần chống chủ nghĩa
xét lại khống chế một cách nặng nề.
3 - Ơ các cấp
có 2 bộ máy mà bộ máy Ðảng đứng trên bộ máy Nhà nước thì bộ máy
Nhà nước không thể có hiệu lực, không thể nào phát triển kinh
tế, văn hoá được.
4 - Thưởng phạt
phải nghiêm minh
5 - Báo chí chỉ
thông tin một chiều nên không phản ánh được dư luận của nhân
dân. Chế độ kiểm duyệt quá sát sao, không cho đăng ý kiến của
quần chúng nên đã dẫn đến những sai lầm
6 - Ðáng nhẽ
khoa học xã hội phải đi trước một bước nhưng vì phải đợi chủ
trương đường lối để minh hoạ nên chẳng đóng góp được gì xứng
đáng
7 - Ðại hội lần
thứ 2 của Ðảng ( 1951 ) đã xác định đường lối cơ sở Ðảng ta dựa
trên căn bản chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Mao Trạch Ðông. Cần
nghiên cứu lại tác hại của tư tưỏng Mao trạch Ðông để xoá bỏ tàn
tích của nó.
Trong bản kiến
nghị có một câu rất hay khi nói về quyền bình đẳng trước pháp
luật : “ Không làm theo kiểu phong kiến : dân thì chịu hình
pháp, quan thì xử theo lễ ”.
Trong một bài
viết nhan đề : “Then chốt : cải tổ bộ máy ” ông vạch rõ : “
Hai nhược điểm cơ bản ( của bộ máy Ðảng-Nhà nước ) là : - 1 )
Thiếu nhạy bén trước yêu cầu của nhân dân, của tình hình mới của
thời đại ” - 2 ) Cơ cấu tổ chức ngăn cản những tiến bộ của kinh
tế xã hội. Bộ máy Ðảng-Nhà nước thiếu nhạy bén do cách làm ăn
thiếu dân chủ, thiếu khoa học ” ( 4 )
Ông nêu những
nhận xét khái quát : “ … Việt Nam có truyền thống yêu nước,
truyền thống đoàn kết với nhau, tức là có những thể chế bảo đảm
quyền của cộng đồng đứng trước bộ máy nhà nước, bộ máy tôn giáo.
Nhưng khái niệm và thể chế để bảo đảm quyền của con người, quyền
của công dân thì chưa có …dân chủ là một khái niệm mới thì chúng
ta buộc phải nhập từ Phương Tây. Việc gì phải che dấu chuyện này
” ( 3 ). “ Nhân dân ta có nhiều truyền thống tốt đẹp, như
kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, sống có tình có nghiã,
nhưng truyền thống dân chủ thì chưa có. Con chỉ biết phục tùng
cha, dân phục tùng vua quan, cá nhân phục tùng đoàn thể, vợ phục
tùng chồng, trò phục tùng thầy; phục tùng trong hành động, trong
cả suy nghĩ. Bề trên vừa là chỉ huy, vừa là thầy, là thánh, chân
lý phát ra từ cấp trên. Không thể làm khác ý đồ của trên ” (
2 ) . Ông bác bỏ luận điệu xảo trá, hù doạ rằng dân chủ sẽ đưa
đến loạn lạc : “ Ý kiến tôi cũng như nhiều anh em khác mong
mỏi có dân chủ hoá. Ai cũng muốn có ổn định, chứ không phải muốn
cho xáo trộn loạn lạc lên đâu. Nói như vậy chỉ là sự vu khống.
Chính vì muốn tránh bùng nổ, mà tôi muốn nhịp độ dân chủ hoá
phải nhanh hơn, nếu không, bề ngoài cứ tưởng là ổn định, nhưng
tình trạng mất dân chủ gây nên phản ứng như những đợt sóng ngầm,
đến lúc nào đó không tránh khỏi bùng nổ. Kinh nghiệm Liên Xô và
Ðông Âu rất đáng cho ta suy ngẫm ” ( 3 ).
Ông ngán ngẩm,
nhưng lại kỳ vọng : “ Một sự im lặng đáng sợ đang trùm lên cả
xã hội : ít ai động vào đưa ra một sáng kiến, người thì chạy vạy
cho cuộc sống hết hơi, hết ngày, người thì chán nản bi quan,
ngay cả phẫn nộ cũng không còn sức .
Ðất nước ta
hiện nay đang càn những con người chủ động, có óc sáng tạo đẻ
cải tổ mọi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội. Làm sao khuấy lên
được hào hùng, tin tưởng, phẫn nộ
” ( 2 )
Ông hồ hởi mừng
vui đón nhận từng tín hiệu nhỏ làm tiền đề cho cuộc đấu tranh vì
sự nghiệp dân chủ hoá : “ Vụ đổi tiền tháng 9 năm 1985 quả là
một tai hoạ ập đến với nhân dân ta. Nhưng nói như một ngạn ngữ
phương Tây, bao giờ tai hoạ cũng có mặt hay của nó. Lần đầu
tiên, ở nước ta, mọi người đều thấy lãnh đạo tối cao cũng có thể
phạm sai lầm nghiêm trọng. Trước đó một số người đã suy nghĩ như
vậy, nhưng cái mới là nay số đông bắt đầu suy nghĩ như vậy. Và
dĩ nhiên, tiếp theo là từ nay ta không thể khoán trắng cho lãnh
đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi người ” (3 ).
Ông hô hào : “
Ðừng ngồi yên chỉ biết than phiền, kêu ca. Ðừng ngồi mong chờ
ở “ ông ” khác. Trên dưới đều có người tiến bộ, có người bảo
thủ, dưới có quậy, trên mới thay đổi ” ( 2 ). “ Từ bỏ chủ
nghĩa xã hội nhà nước, từ trên áp đặt xuống, ta sẽ xây dựng một
chủ nghĩa xã hội trong đó Ðảng lãnh đạo, lãnh đạo chứ không ôm
lấy mà làm mọi việc. Ðảng với nhân dân cùng suy nghĩ, có trao đi
đỏi lại, chứ không phải Ðảng phán ra, nhân dân cúi đầu vâng theo
”( 2 )
Ông kêu gọi làm
cách mạng : “ Trước kia chúng ta đã dựng nên một cuộc cách
mạng dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng lớn chống đế quốc ngoại
xâm. Chúng ta đã tiến hành mấy cuộc kháng chiến trường kỳ nhiều
mặt, Ðể chống lại tư bản man rợ, không để nó tác oai tác quái,
nay phải dựng nên một mặt trân dân tộc, nhân dân, quốc tế còn
rộng hơn; tiến hành một cuộc kháng chiến mới lâu dài hơn, đa
dạng hơn, mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được môi
trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hoá giầu nghèo, giữ gìn
được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền
phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số. Một cuộc kháng chiến nhiều
mặt với báo chí, tivi, sách vở, phim ảnh. Thành lập đủ các thứ
hội đoàn, đình công, biểu tình … không bỏ sót ngóc ngách nào,
trong nước, ngoài nước, đứng ở bất cứ vị trí nào cũng có thể
tham gia …
…. Chúng
ta sẽ làm cho những tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, tinh
thần quốc tế, tình nghĩa giữa người và người thâm nhập vào đại
chúng. Kỹ thuật hiện đại trao cho chúng ta đầy đủ phương tiện
làm việc này, biến tư bản man rợ thành tư bản văn minh.
Hãy
cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới ”
( 5 ).
Kêu gọi bằng “
hịch ”, lại kêu gọi bằng thơ :
Có những
người đã thức dậy
Lúc gà chưa gáy
Biết bao nhiêu còn ngái ngủ
Gáy lên đi, gà ơi !
Cho đời rộn lên, người người tỉnh thức
……
Cho con người đứng thẳng lên
…..
Không cúi đầu trước quyền lực …
Ông vạch ra một tiến trình :
“
Quá trình dân chủ hoá thể hiện qua mấy khâu :
- Ðầu tiên là nhận thức của số đông là mỗi người có
quyền làm công dân, có quyền suy nghĩ, nói lên ý của mình, không
ai được xâm phạm những quyền cơ bản mà hiến pháp và pháp luật đã
quy định
- Báo chí trở thành công cụ sắc bén của dư luận
- Các cơ quan dân cử như Quốc hội, các đoàn thể làm nhiệm
vụ là thay mặt cho dân, chứ không làm “ cây cảnh ” nữa
- Những cơ quan tư pháp giữ tính độc lập, xử theo pháp
luật, không chấp nhận một sức ép nào do bất kỳ từ đâu ”
( 2 )
Hỏi ông có tin vào hiệu năng đấu tranh của lực lượng dân chủ,
ông trả lời: “ Theo tôi, nếu mọi người tiếp tục đấu tranh thì
có 80% công cuộc đổi mới sẽ thành công, nhưng cũng còn 20% bất
trắc, chủ yếu do sức chống đối của những người được hưởng đặc
quyền đặc lợi mà bộ máy cũ mang lại cho họ” (4 ).
Vô
cùng tiếc và thương một chí khí ngoan cường
Nguyễn Khắc Viện không chỉ mạnh dạn phê phán và đóng góp nhiều ý
kiến mới lạ so với chủ trương đường lối của Ðảng nên nghe rất “
nghịch nhĩ ” mà còn thẳng thắn, chân tình góp ý với nhiều quan
chức cao cấp trong Ðảng. Nghe tin Ðảng định cơ cấu nhà thơ Tố
Hữu làm thủ tướng chính phủ, ông gặp trưởng Ban Tổ chức Trung
ương Ðảng Nguyễn Ðức Tâm bầy tỏ ý kiến phản đối. Trước Ðại hội
VI ông đã từng viết một lá thư gửi ông Tố Hữu, đại ý như sau :
Trước kia, tôi rất mến phục tài thơ của anh, tôi thích thú một
số bài thơ của anh và đã dịch những bài đó ra tiếng Pháp đưa ra
quốc tế. Nhưng anh làm lãnh đạo chính trị, đặc biệt về văn hoá
văn nghệ, rồi làm phó thủ tướng, làm kinh tế như thế này, không
ai đồng tình, nhiều người oán trách, anh nên biết rõ. Dịp này
anh nên tự nguyện rút lui, đừng ứng cử vào Trung ương nữa, trở
lại làm nhà thơ, chắc anh sẽ lại được lòng kính mến tài làm thơ
của anh.
Ông hoạ thơ Tố Hữu :
Năm mươi năm ấy vẫn còn thơ
Từ bấy đua chen mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa hết dại
Con tằm rút ruột chẳng còn tơ
Thuyền con quá tải không qua sóng
Mộng lớn tài hèn chớ ước mơ
Với giá, lương, tiền dân khốn đốn
Trăm năm bia miệng, hỡi nhà thơ!
(
Bài thơ của Tố Hữu đăng trên báo Văn nghệ, lúc ấy được rất nhiều
người hoạ, trong đó có bài:
Trên năm mươi tuổi Ðảng và thơ
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa cạn ý
Con tằm rút ruột vẫn còn tơ
Thuyền con vượt sóng không nghiêng ngả
Nghiệp lớn muôn đường lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Ðảng và thơ )
Thế rồi … ! Không biết vì sao và từ đâu, những tai ương bắt đầu
bổ xuống đời ông.
Báo Nhân Dân và hầu hết các báo cấm chỉ không đăng bài ký tên
Nguyễn Khắc Viện nữa. Chẳng những thế, sau khi đài BBC phát thư
kiến nghị của ông gửi Ðại hội VII thì trong nước dấy lên một
chiến dịch rầm rộ công kích, lên án ông. Khởi đầu là báo Nhân
Dân tung ra một loạt bài, không nêu rõ tên Nguyễn Khắc Viện
nhưng trích một vài đoạn trong bức thư rồi quy chụp rằng người
viết những dòng như thế là có ý đồ thâm hiểm, mượn cớ dân chủ tự
do để chống cách mạng, chống Ðảng. Tháng 5 năm 1991, báo công an
Thành phố Hồ Chí Minh loan báo trong màng lưới tay sai cho gián
điệp, có một tên gián điệp ở Pháp về. Cùng luận điệu đó, có bài
ghi rõ tên đầy đủ, có bài ghi tắt N.K.V. Cán bộ tuyên huấn của
Ðảng đi nói chuỵện khắp nơi rằng trong nước có một nhóm chống
Ðảng, chống cách mạng mà Nguyễn Khắc Viện là một phần tử. Nhân
ngày Quốc tế Thiếu nhi 1 tháng 6 năm 1991, câu lạc bộ Liên hiệp
các Hội Khoa học Kỹ thuật tổ chức buổi nói chuyện về tâm lý trẻ
con. Khi săn biết diễn giả là Nguyễn Khắc Viện, lệnh trên truyền
xuống phải huỷ bỏ buổi nói chuyện này. Cuối năm đó, khai mạc
Phòng khám Tâm lý Trẻ em tại bệnh viện Ðống Ða. Ðây là Phòng
Khám Tâm lý trẻ em đầu tiên ở nước ta. Vô tuyến truyền hình đến
quay phim . Nguyễn Khắc Viện là người sáng lập tổ chức, chủ trì
buổi lễ và đọc diễn văn giới thiệu ý nghĩa, mục đích việc thành
lập cơ sở này. Nhưng, khi phát hình buỗi lễ lên sóng, người ta
cắt đi tất cả những đoạn có hình ảnh Nguyễn Khắc Viện.
Rồi Quận uỷ Hoàn Kiếm lôi Nguyễn Khắc Viện ra đấu tổ, bắt dứng
lên kiểm điểm. Ông từ tốn nhưng kiên nghị nói : Nếu Quận uỷ muốn
sinh hoạt chi bộ trao đổi quan điểm và thảo luận về những điều
đúng, sai thì tôi làm, còn kiểm điểm thì không, vì tôi không có
lỗi gì.
Cứ
thế, ngày mỗi ngày càng nồng nực trong xã hội những dư luận xấu.
Nguyễn Khắc Viện bị bôi bẩn, bị thoá mạ, bị săn đuổi, bị hăm doạ
một cách rất tàn khốc, rất dểu cáng.
(
Về điểm này thì tôi thấu hiểu rất rõ bởi chính tôi cũng từng bị
dày xéo kinh khủng như thế. Cái công sức họ đầu tư cho công việc
này thật lớn, thật thành thục. Vừa tinh vi, vừa trắng trợn; tàn
ác và đểu cáng đến nỗi những ai không đủ bản lĩnh và thần kinh
không vững thì nếu không tự sát cũng phải phát điên ! ).
Bà
Nguyễn thị Nhất kể rằng : một hôm có người đến thăm, hỏi ông
Viện đi đâu. Quen nói giọng Sài Gòn, bà trả lời : Nhà tôi chạy
đâu rồi ấy. Thế là người đó hớt hải loan tin và dư luận đồn ầm
lên rằng Nguyễn Khắc Viện đã trốn ra nước ngoài. ( Tiếng chạy
với người Sài Gòn chỉ là “ đi đâu đó thôi ”, nhưng người khách
Miền Bắc kia lại hiểu là bỏ trốn )
Ông Hoàng Nguyên kể rằng một hôm vào khoảng cuối năm 1981, ông
đang ngồi làm việc tại toà soạn báo Le Courrier du Việt Nam thì
nhà điện ảnh nổi tiếng, lão thành P.V.K. hớt hải chạy vào hỏi :
“ Thế nào, anh Viện bị bắt rồi à ? ”, trong khi ông Viện vẫn
đang ngồi làm việc ở tầng trên.
Cảm thương và kính phục, nhiều người đã tặng thơ ông. Bà Phương
Thảo- em gái ông- viết những dòng bi tráng ca :
Ðứng giữa hai làn đạn
Vẫn mực thước, khoan dung
Với tấm lòng thanh thản
Với sỹ khí hào hùng
Ông Ðặng Minh Phương tặng đôi câu đối :
Kiến thức bách khoa phong phú, từng trải Ðông Tây, tác phẩm uyên
thâm đồ sộ, ở Pháp quốc kiên trì tranh đấu, tấm lòng với nước
tận trung, vòng danh lợi coi khinh, lương tâm toả sáng
Tài năng đa dạng hiếm hoi, tinh thông kim cổ, tư duy sắc sảo
tuyệt vời, về Việt Nam bền bỉ dựng xây, ngòi bút vì dân cương
trực, thói quan liêu căm ghét, nhân cách ngát hương
Một đêm tháng 4 năm 1988, được Nguyễn Khắc Viện đến thăm và ngủ
lại nhà mình, nằm thao thức trong đêm Mỹ Tho, nhà báo Lê Phú
Khải đã viết bài thơ :
Ðãi ông một bữa cơm nghèo
Trải giường ông nghỉ, lòng nhiều xót thương
Lưng già ít thịt nhiều xương
Sáu, năm vết mổ sẹo còn đầy vai
Con đường dân chủ công khai
Ông như lão tướng một đời xông pha
Bọn quan liêu-lũ gian tà
Kính ông ngoài mặt, bỉ dè sau lưng
Núi sông được mấy anh hùng
Thế gian được mấy cõi lòng trinh trung ?!
Khi biết ông chắc chắn sắp chết, Nguyễn Khoa Ðiềm vội vàng đến
gắn tấm huân chương Ðộc lập Hạng Nhất lên bộ ngực ông đã dính
đét xuống giường.
Người ta thấy mai mỉa với không ít tấm huân chương Hồ Chí Minh,
huân chương Sao vàng. Người ta càng thấy tủi buồn về tấm huân
chương Ðộc lập Hạng Nhất trên ngực Nguyễn Khắc Viện.
Dẫu sao, chỉ một cái tên Nguyễn Khắc Viện không thôi đã là một
tước danh đầy vinh quang
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 - Khu tập thể Ðịa Vật lý Máy bay
Trung Văn - Từ Liêm - Hà Nội
Điện thoại : 5 534370
--------------------
Ghi chú
:
(
1 ) Bàn về đạo Nho
( 2 ) Ðổi mới - Nhà xuất bản Thanh niên - 1988
( 3 ) Uóc mơ và hoài niệm - Nhà xuất bản Dà Nẵng ( Phần không
được in )
( 4 ) Nguyễn Khắc Viện, tác phẩm -Tập 2- Nhà xuất bản Lao động
( 5 ) Bài “ Bước vào cuộc kháng chiến mới “ ( tháng 6 năm 1993 ) |