Vườn hoa Mai
Xuân Thưởng- những bông hoa bị giày xéo
Bất cứ ai
là người Hà Nội, nghe nhắc đến vườn hoa Mai Xuân Thưởng cũng phải
rùng mình ngao ngán, bởi nơi đây chứa chất bao cảnh ngộ đau buồn
của 64 tỉnh thành cả nước dồn về. Những anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo
trong tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan và
Ngô Tất Tố thời Phong kiến tham tàn thối nát, sao lại ùa trở về
thiên đường xã hội chủ nghĩa do đảng tài tình lãnh đạo, và còn khổ
sở gấp trăm ngàn lần thời xa xưa? Bài viết này chỉ xin đề cập tới
vài mẩu đời phụ nữ được chính thể cộng sản "chăm sóc, ươm trồng"
trong vườn hoa của tổ quốc (chính xác hơn là địa ngục xã hội chủ
nghĩa) mà bản thân tác giả trực tiếp trò chuyện, gặp gỡ, ghi
nhận...
Người đầu
tiên tôi gặp là chị Vũ Thị Tuyết, sinh 1976, thôn Chi Thuỷ, xã Chi
Thuỷ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, từng là một cô học sinh ngây
thơ xinh đẹp trong trắng chưa từng. Trong tất cả các giấy xác nhận
của trường tiểu học, trung học, từ giáo viên chủ nhiệm cũng như bí
thư đoàn trường, bí thư đoàn xã, đều công nhận điều này.
Năm 1997-
Tuyết tròn 21 tuổi - lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời người con
gái, tuổi mà các nhà tâm lý học vẫn gọi bằng một danh từ mỹ miều
là: Mùa xuân của cuộc đời - mọi thứ từ tâm sinh lý, vốn sống, cơ
thể đều bừng nở dưới ánh mặt trời như đoá hoa mùa xuân tươi thắm,
khi ấy Tuyết trở thành vợ của tên Vũ Văn Bình (thôn Cổ Chế, xã
Phúc Tiến, huyện Phú Xuyên). Cả hai ra uỷ ban nhân dân xã lấy giấy
chứng nhận kết hôn vào ngày 16-10-1997 rồi tổ chức đám cưới. Một
đám cưới giữa mùa đông se lạnh, tuy không phải to nhất nhì huyện
nhưng cũng đông đủ sự góp mặt của quan viên hai họ, bà con làng
xóm và bạn bè hai bên với số lượng lên tới vài trăm mâm, ăn rả
rích ba ngày trời không hết. Nào ai ngờ khởi đầu của một niềm vui
lớn cũng là bắt đầu của một nỗi bất hạnh lớn không thể ngờ tới
trong cuộc đời Tuyết.
Ngay sau
khi sinh con trai đầu lòng (Cháu Vũ văn Pháp sinh ngày 20-10-1998)
Tuyết đã phát hiện ra mình lấy phải một người chồng vô cùng thô
lỗ, vũ phu, lại có tính trộm cắp vặt để thoả mãn những thói xấu
riêng của bản thân. Ba năm chung sống, dù Tuyết luôn thể hiện mình
là người con dâu hiền thảo, nền nếp trong nhà, song vẫn luôn bị mẹ
chồng cạnh khoé, bản thân tên Bình cũng vào hùa với mẹ đẻ để hằn
gắt xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm của cô. Chỉ vì hạnh phúc được
làm mẹ, với thói quen của người phụ nữ á Đông, nên Tuyết đã cố
quên đi tất cả để yên bề gia thất. Không ngờ sự chịu đựng, nín
nhịn của cô đã nuôi dưỡng thói tham lam độc ác trong con người
Bình, để cho thói gia trưởng, bạo hành lấn lướt.
Ngày
20-6-2001, Tuyết bị mất một đôi vòng tàu, suy đi ngẫm lại trong
nhà chỉ có hai vợ chồng là người biết rõ nguồn gốc xuất xứ và chỗ
cất giấu nên Tuyết từ tốn hỏi chồng:
- Em
không thấy đôi vòng tàu mẹ cho làm của hồi môn đâu anh ạ, anh có
lấy của em không?
Chuyện
chỉ đơn giản có thế mà đang nằm bên cạnh, tên Bình bật dạy, đấm,
đá té tát vào mặt vào người Tuyết, vừa đánh vừa nghiến răng trèo
trẹo:
- Á à,
mày dám nghi ngờ ông hả, đồ chó cái...
Khi cô
oằn người chống đỡ, tên Bình còn cầm cả khúc củi nặng, xoay người,
dùng sức ở thế vặn thân, vung mạnh cánh tay, dồn lực vào hai cổ
tay để bổ xuống đầu vợ, ngay lập tức Tuyết ngã vật ra nền nhà, bất
tỉnh.
Trở dạy,
Tuyết thấy đầu đau ê ẩm, song vẫn cố sức chịu đựng để trở lại với
công việc đời thường, cơm nước, giặt giũ, chợ búa hầu hạ chồng con
cùng bà mẹ chồng lắm điều, dù sức khoẻ cứ liên tục giảm sút, đặc
biệt chứng đau đầu xuất hiện mỗi ngày một thường xuyên hơn. Sau
những phút choáng váng là ngất sỉu không biết trời đất là
gì...Nhiều lần liên tục như vậy, Tuyết quyết định vào bệnh viện
huyện khám. Không tin vào kết luận của y bác sĩ tại bệnh viện đầu
tiên" có dấu hiệu của bệnh động kinh do chấn thương sọ não", Tuyết
tìm đến bệnh viện huyện Thường Tín để khám tiếp. Qua tiến hành
chụp cắt lớp, các bác sĩ đã kết luận bệnh của cô "bị động kinh do
chấn thương sọ não" là hoàn toàn chính xác. Bây giờ muốn lành
bệnh, phải ở lại bệnh viện điều trị và bỏ tiền mua thuốc tiêm,
uống hàng ngày.
Vì cả hai
bên gia đình đều nghèo, bản thân Tuyết cũng giấu bệnh của mình
không muốn cho mẹ đẻ và chị ruột biết để không phải lo lắng, nên
Tuyết thường xuyên trong cảnh đói thuốc, đói ăn. Kết quả chưa đầy
3 tháng sau ngày bị chồng đánh (9-2001) trong lúc đang thổi cơm
rán đậu, cơn động kinh kéo đến, Tuyết lảo đảo, choáng váng ngã
chúi đầu xuống đất, bị cả chảo mỡ sôi dội vào mặt, vào người gây
bỏng nặng. Khi đó tên Bình- chồng cô mới chịu đưa vợ vào viện.
Vì không
muốn gánh chịu mọi hậu quả do việc chi phí thuốc men, viện phí
phát sinh, nên chỉ sau một tuần điều trị tại bệnh viện huyện Phú
Xuyên, bà Nguyễn thị Tý, -mẹ chồng Tuyết đã tìm vào và kiên quyết
bắt về, mặc các bác sĩ phản đối, la ó, yêu cầu bà phải chuyển bệnh
nhân lên bệnh viện 103 thị xã Hà Đông thuộc tuyến trên, vì bệnh
viện cấp huyện không thể đảm nhận được. Song vốn tính tham lam,
ích kỷ, cố chấp, bà kiên quyết đưa con dâu về với lý do chữa thuốc
đông y cho rẻ.
Về nhà
một thời gian, sợ phát sinh tốn kém, bà lấy cớ không có tiền mua
thuốc nên bỏ luôn thuốc nam rồi vu cho con dâu ăn cắp 82.000 VND
để đuổi về nhà mẹ đẻ. Vì quá thương con (khi ấy mới 3 tuổi) Tuyết
nấn ná ở lại, và trong thời gian này, liên tục bị bỏ đói, bị xúc
phạm cả thân thể lẫn tinh thần. Các vết bỏng chưa kịp lành, sau
mỗi trận đòn của chồng mỗi ngày lại bị loét sâu thêm. Lần cuối
cùng, cô bị đánh liên tục từ 13 giờ đến 22 giờ đêm, bị băm nát 4
bộ quần áo, bị mẹ chồng và chồng kiên quyết đuổi khỏi nhà giữa đêm
khuya, mặc hàng xóm khuyên can, la lối. Cuối cùng không còn cách
nào khác, cô phải nhận từ tay bà hàng xóm tốt bụng 10.000 đồng để
đi xe ôm, và một chiếc bánh mỳ chống đói sau cả ngày trời ăn no
đòn chồng và những lời chửi bới mắng nhiếc của mẹ chồng mà không
hề được ăn cơm...12 giờ đêm, cô lần được về nhà trong tình trạng
thân tàn, ma dại, chỉ thốt lên được một tiếng: "mẹ ơi, con khổ
qúa" rồi gục ngã ngay trên bậc cửa, mẹ đẻ và chị gái vội vàng túm
luôn người chở xe ôm mang cô đi bệnh viện cứu chữa trong đêm.
Nửa năm
trời nằm viện, chỉ có người chị goá bụa và bà mẹ già nua, khốn khó
ở bên chăm sóc cơm nước, thuốc thang. Cả gia đình chồng từ tên
Bình, bà Tý, đến các em dâu, em rể không một lần lai vãng... Dù
vậy nỗi nhớ thương cu Phát không ngày nào không âm ỉ trong trái
tim Tuyết. Vì vậy, vừa được ra viện, Tuyết trốn mẹ, bỏ qua mọi lời
can ngăn của chị ruột về lại nhà chồng thăm con. Khỏi phải nói đến
nỗi đau đớn khổ sở của cô khi bị bà Tý cấm cửa không cho vào nhà,
nỗi nhức căng lồng ngực, nỗi bồn chồn thẳng thốt đến nổ bùng thể
xác trong những giờ chầu chực, chợ đợi ở ngoài đường, mong nhìn
thấy mặt con. Bao nhiêu người hàng xóm đi qua đều bị cô túm áo,
quỳ xuống dưới chân họ để năn nỉ mọi người nói khó với mẹ chồng và
chồng cho cô vào nhà thăm con, hoặc đưa cháu ra ngoài để gặp mình.
Không ngờ mẹ con tên Bình- những kẻ hành xử khốn nạn nhất trên cõi
đời này, đã xâm phạm thân thể cô một cách dã man, còn tiêu huỷ
luôn cả chút đạo lý làm người, cướp nốt cả ước ao nhỏ bé, chính
đáng của cô, kiên quyết không cho cô gặp mặt con. Đã thế, còn nhồi
nhét vào trí óc ngây thơ non nớt của con cô những lời độc địa: Con
điên đấy, mẹ mìn đấy, con đừng dại đi theo nó là chết đấy, nhớ
chưa v.v và v.v.
Cả tuần
dài chầu chực, chờ đợi không được gặp con, cô vẫn kiên trì nán
đợi, hy vọng tình mẫu tử, sự kiên trì của mình sẽ là chút ánh sáng
chiếu dọi vào lương tâm của hai kẻ độc tài... không ngờ, vừa kịp
nghe những người hàng xóm cám cảnh mình, cảnh đời nói lại những
lời báng bổ xúc phạm của bà nội và bố đẻ về bản thân mình- người
đã mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, dứt ruột đẻ ra đứa cháu đích
tôn nối nghiệp dòng họ Vũ...cô có cảm giác như bị một lưỡi dao xỉa
ngay vào giữa ngực và lăn ra bất tỉnh.
Cả chục
người qua đường xúm vào, người giật tóc, người day trán, người xoa
dầu, giúp cô hồi tỉnh, song trí não vẫn ngẩn ngơ, biếng nhác như
người vừa ở cõi âm hiện về. Một bà đi chợ, nhanh trí lấy chùm chìa
khoá ấn vào tay cô, lắc lắc cho những âm thanh kim loại va đập vào
nhau, tạo thành những tiếng kêu leng keng vui tai, thúc hối, cô
mới hồi tỉnh trở lại và nhớ ra hoàn cảnh thực tại của mình... Ngay
lập tức, cả suối ngôn từ và những hàng nước mắt giàn dụa ào ra từ
cõi lòng sâu thẳm, đau đớn. Nỗi bi đát bất hạnh mà mới 26 tuổi cô
phải gánh chịu, khiến chút cay xót cứ dâng lên tê dại cả hai cánh
mũi của những người chứng kiến. Người vò nát bụi cây ven đường,
nguyền rủa thói đời đê tiện, mà một phụ nữ mảnh mai yếu ớt như cô
đang phải chịu đựng. Người lên án hai kẻ táng tận lương tâm là
chồng và mẹ chồng cô, đã không một chút xót thương sám hối còn vu
vạ cho cô bị điên từ nhỏ, để cố tình rũ cô như rũ một miếng giẻ
lau chân, để kịp thời tung mình vào một mối tình mới, một trò chơi
mới, cũng là một âm mưu mới: cưới lại vợ khác cho con, mặc cô
trong cảnh đau đớn ê chề vì thể xác tàn tạ, cõi lòng tan nát.
Từ đó,
Tuyết bỏ nhà, bỏ quê đi lang thang ra Hà Đông, Hà Nội, gặp đủ mọi
hạng người trong xã hội, từ người bán bánh mì, hay phu hồ, cửu
vạn, rửa bát, xe ôm... Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương, cuối
cùng nhập vào đoàn người khiếu kiện tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng
và ở lại ôm chân anh Lý Tử Trọng. Thỉnh thoảng bị công an dồn đuổi
lại lặng lẽ bỏ anh mà đi, rồi nghe theo tiếng gọi sâu thẳm từ âm
hồn anh, lại tìm về trú ngụ. Trong hồ sơ khiếu kiện của mình Tuyết
ghi rõ:
+ Bị gia
đình chồng đánh đập ruồng bỏ và vu khống bị bệnh động kinh từ nhỏ
để lấy vợ khác (ngày 19-2-2004) trong khi giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn lần một (ngày 16-10-1997 vẫn còn nguyên gía trị).
+ Cố tình
chia rẽ tình cảm hai mẹ con, bằng cách dạy con gọi mẹ là con điên,
áo ộp, phù thuỷ, mẹ mìn, yêu tinh, quỷ hiện hình v.v.
Ngoài ra
còn bị các chính quyền huyện Phú Xuyên chửi mắng, vu tội "thiếu
văn hoá, thường xuyên đến ăn vạ cán bộ và lãnh đạo huyện". Cụ thể
bị 4 công an đánh đập dã man đến toé máu, ngất lịm, rồi khiêng ra
khỏi cổng trụ sở vứt như vứt một bao cát. Một trong 4 tên có đeo
ảnh và phù hiệu mang tên Nguyễn Đức Cường, đồng thời còn bị 3 cán
bộ quân đội là Lục,Trịnh, Định đánh trọng thương ngay trước cổng
của trại...
- Giấy
chứng nhận bị động kinh của bệnh viện
- Đơn xin
chứng thực về tình trạng sức khỏe của bản thân
- Giấy
xác nhận của giáo viên chủ nhiệm và ban giám hiệu trường tiểu học
Tri Thuỷ
- Giấy
xác nhận của bí thư chi đoàn thôn Tri Thuỷ từ năm 1992-1996 (trước
khi lập gia đình) cùng xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Tri Thuỷ...
mà nội dung của các giấy tờ này là: "Xác nhận chị Vũ thị Tuyết là
học sinh ngoan, khoẻ mạnh, học tập tốt, là đoàn viên, thanh niên
gương mẫu, luôn đi đầu trong mọi hoạt động của chi đoàn thôn cũng
như đoàn trường ...
Ngậm ngùi
cầm hai tấm ảnh của Tuyết trên tay, đọc đi đọc lại những dòng chữ
nắn nót của cô trên hồ sơ khiếu kiện, phải tả lại những việc làm
đồi bại khốn nạn nhất của gia đình chồng, cũng là nỗi đau đớn khôn
nguôi của mình, tôi bần thần xác nhận:
- Cả
chính quyền huyện, tỉnh cùng làm ngơ trước nỗi đau khổ của em, đó
cố tình cấp giấy chứng nhận kết hôn lần hai cho chồng em, lại
không cho em được phép gặp con? Thật không hiểu nổi những con
người mới xã hội chủ nghĩa, tất cả đều mù loà về đạo lý, lương tâm
rồi ư?
Trước câu
hỏi như xoáy vào lòng người của tôi, cùng bao cặp mắt của những
người dân oan bất hạnh dồn vào, Tuyết rắn rỏi trả lời, chiếc khăn
bịt kín hết cả cằm, mặt, chỉ để lộ một con mắt không bị thương,
giật rung liên hồi theo nhịp thở, lời nói:
- Mẹ con
tên Bình cậy có người nhà làm ở toà án huyện nên cố tình vu khống
em bị bệnh động kinh từ nhỏ, còn cấm vận tình cảm hai mẹ con em
nữa, nhưng dù thế nào em cũng phải đưa toàn bộ vụ việc này ra ánh
sáng, yêu cầu toà án nhân dân huyện, tỉnh có thái độ xử phạt
nghiêm khắc với tên Bình vì tất cả các trọng tội đã gây ra cho em,
trong đó có tội chà đạp lên nhân phẩm làm người của phụ nữ. Sau đó
bắt gia đình chồng phải bồi hoàn mọi thiệt hại về tình trạng sức
khỏe cũng như tinh thần của em hiện tại
- Thế còn
cháu Phát, em định thế nào?
Nhắc đến
con, gương mặt dị hình, dị dạng của Tuyết căng lên và ngày càng
trở nên méo mó, cặp mắt ướt lúc nhìn thẳng vào mặt người đối diện,
lúc ngây đờ bất động trên khuôn mặt bất thành nhân dạng:
- Không,
nhất định em phải đòi bằng được quyền lợi của mình là được qua lại
thăm con hàng tháng. Dù thế nào nó vẫn là đứa do em dứt ruột đẻ
ra. Nếu không vì đã chót sinh ra nó trên đời, không vì mẹ già qúa
khổ, chị gái qúa lo lắng xót thương cho mình, em đã đâm đầu vào ô
tô chết ngay trước cửa nhà thằng chồng bội bạc rồi... chỉ vì nghĩ
đến con mà em quyết định phải sống...
Tôi hiểu,
dù trong cảnh thân tàn ma dại, chín phần quỷ một phần người, dù bị
hoàn cảnh sống xô đuổi ruồng bỏ đến mức, cơm không đủ ăn, áo không
đủ mặc, phải làm đủ mọi việc từ ăn xin, lượm rác, hầu hạ vệ sinh
cho những người già cả gần đất, xa trờì để tồn tại, trong Tuyết
vẫn khắc khoải một niềm tin đau đáu về đứa con mình. Cháu Vũ Văn
Phát, sinh ngày 20.10.1998. Tuy bị gia đình chồng đầu độc, chia rẽ
tình cảm mẹ con, nhưng rồi trong cảnh "dì ghẻ con chồng", nghe
những lời hàng xóm nói lại về mẹ đẻ - một người phụ nữ vốn trẻ
trung, xinh đẹp như hạt gạo, cô Tấm làng quê... thì nhất định,
tình mẫu tử sẽ trỗi dạy, cháu sẽ tìm về bà ngoại, bên mẹ và bác
ruột, để bù đắp san sẻ cho ba người phụ nữ bất hạnh nhất trần đời
này. Người vì chồng chết phải thắt lưng buộc bụng, ở vậy nuôi hai
con gái trưởng thành. Người buộc phải bỏ chồng, cắp con về nhà mẹ
đẻ vì chồng cờ bạc, nghiện hút mắc căn bệnh thế kỷ, còn mẹ bị bà
nội và bố đẻ chửi bới đánh đập đến trọng thương, ra đi, không một
đồng xu dính túi...
Nắng tắt
dần trên những lối đi, một ngày như mọi ngày tại vườn hoa đau
thương định mệnh. Trần mây bị đẩy gần sát xuống mặt đất, ngay trên
đầu anh Lý Tử Trọng khiến không gian càng thêm nức nở, ai oán. Tôi
dắt xe ra về, lòng nặng trĩu những nỗi buồn khó tả, chiếc xe ì ra
không chịu nổ, trong khi tiếng giục giã của mọi người cứ réo rắt
bên tai:
- Kìa
chị, đi ngay đi không mụ Thọ báo cho con Minh béo, và thằng ánh
công an Hà Nội bây giờ... Chúng nó hết giờ làm việc rồi, nhưng chỉ
cần nghe tên chị là mật báo cho nhau, rải quân, bắt liền... Nào,
để chúng tôi mỗi người một tay, đẩy xe giúp chị...
|