Mưa trên nón thông
Tôi thức giấc vì tiếng
sấm, và rồi dăm tia chớp lóe sáng bên khung cửa sổ.
Đồng hồ chỉ 4 giờ 30
sáng.
Tôi ngồi dậy, nhìn mưa
qua khung cửa kính. Chẳng thấy gì nhiều ngoài mầu xanh thẫm của rừng
thông đang thỏa thuê đùa giỡn cùng mưa. Cả hai, dường như đang vui
vẻ lắm! Mưa tuôn sối sả, thỉnh thoảng gầm gừ, lóe chớp như để rừng
cây ngả nghiêng rượt tìm, tựa trò chơi cút bắt.
“Chờ tôi với!”
Tôi thì thầm như thế, rồi bước xuống giường, pha một bình trà. Cái
ấm điện mà khi nước sôi, cũng reo vui như đun bằng củi lửa. Gói trà
sư huynh cho, tôi có mang theo đây.
- Sư huynh sang quá,
uống trà thượng hảo hạng
- Phật tử cúng dường
chứ huynh mua hồi nào mà sang với hèn!
- Thế à? Vậy thì nói
lại, sư huynh từ bi quá, có trà ngon không để dành uống, mà lại cho
muội.
- Từ bi gì! Tại lúc
này hay khó ngủ, nên ít uống trà.
Huynh đệ thường vui
đùa thế thôi, chứ Phật tử cúng dường món chi, cũng chia sớt cho
nhau.
Nào ngờ, gói trà nhỏ
theo tôi lên núi. Xa chùa, xa thầy, xa huynh đệ. Tôi đi để tìm tôi.
Lá trà bỗng rưng rưng trong ngón tay nhón bốc, bỏ vào bình.
Chờ trà ngấm, tôi rót
một tách, mở cửa phòng, bước ra hiên trước. Hiên này có mái rộng nên
chỉ khi mưa thật lớn, với sự hợp sức của gió, nước mưa mới tạt vào.

Từ hàng hiên này, tôi
có thể nhìn bao quát suốt đồi cỏ xanh dẫn lên chánh điện. Bên trái,
gần là tôn tượng Đức Thích Ca chuyển pháp luân lần đầu, đang giảng
Tứ Điệu Đế cho ngũ huynh đệ Kiều Trần Như, xa hơn chút, là hồ sen
đang đơm nụ, nơi tôn tượng Quán Thế Âm vời vợi giữa đất trời; Bên
phải là tôn tượng Đức Thích Ca đản sanh đang thanh thản bước bảy
bước hoa sen, xa hơn chút là tôn tượng Ngài Di Lạc đang cười đùa với
trẻ con vây quanh. Nơi đây, tôi cũng nhìn thấy gác chuông, nơi mỗi
ngày, hai lần tôi thỉnh đại hồng chung.
Tôi vừa nhấp ngụm trà
đầu ngày là lúc gió tạt qua dùi chuông, gióng lên một tiếng, vang
động núi rừng trong cơn mưa tinh khôi
Lắng lòng nghe!
Lắng lòng nghe!
Tiếng chuông huyền
diệu đưa về nhất tâm (*)
Có lần, tôi xướng kệ,
trước khi thỉnh chuông thì tình cờ một chiếc xe chạy ngang. Rất ít
khi có ai ngang đây, vì dọc theo đồng cỏ, con đường sỏi nhỏ ngoằn
ngoèo dẫn tới bờ sông là gia đình hàng xóm cuối, cũng cách chùa non
hai dặm. Người trên xe bước xuống, đứng yên, ngước lên gác chuông.
Tất nhiên, họ không hiểu được nội dung bài kệ, nhưng điều gì khiến
họ dừng lại và tỏ lòng thành kính thế kia? Còn tôi thì vẫn thong
thả, sau mỗi câu kệ lại thỉnh một hồi chuông. Khi tôi kết thúc:
Thỉnh chuông pháp
thâm diệu
Tạo công đức vô
biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi
miền (*)
thì họ vẫn đứng yên.
Tôi ra khỏi gác chuông, hướng về họ, chắp tay xá. Họ đồng loạt chắp
tay xá lại, rồi mới lên xe, đi tiếp.
Lòng tôi thật ấm áp.
Một điều gì rất gần gũi, thân thương và mầu nhiệm trong tinh thần
Bát Nhã mà tôi và nhóm người địa phương vừa tình cờ cảm nhận được.
Tôi tin tưởng như thế, vì chúng tôi có cần ngôn ngữ gì trao đổi với
nhau đâu! Ngoài hai vợ chồng già người da đỏ là hàng xóm gần nhất
cách chùa hơn nửa dặm thì đây là nhóm dân địa phương đầu tiên tôi
thấy họ và họ thấy tôi, sau một tuần lễ tôi về đây.
Hình như tách trà nóng
đang làm dịu cơn mưa. Ngộ không! Tưởng chỉ mời nhau theo phép lịch
sự, vậy mà mưa cũng nhẹ hạt, xuống uống trà, còn sấm chớp thì đã
biến mất cả rồi!
Tôi cám ơn mưa, trở
vào phòng, chuẩn bị y áo, ôm trong hai tay, với chiếc nón lá rồi
bước ra màn sương, tiến lên chánh điện cho thời công phu.
Mưa vẫn còn lất phất
và gió sớm khá lạnh. Chậm bước trên con đường sỏi, ngước nhìn trời
đất bao la, rừng thông im vắng, tôi cảm nhận thân phận mình nhỏ bé
biết bao. Bỗng dưng, chiếc nón lá như khép lại, vừa khít đầu, và
chiếc nón đang che mưa gió cho tôi là chiếc nón thông. Vâng, đúng
thế. Thay vì lên chánh điện bằng cửa chính, qua con đường lát sỏi,
thì tôi đã rẽ lên đồi thông lúc nào không hay! Chánh điện có thể vào
bằng ba cửa, nhưng mưa gió thế này, vào bằng cửa chính mới đỡ ướt
át. Vậy mà, tôi đang đi trên thảm cỏ ướt, dưới những tàng cây thông,
cành và lá đan nhau như chiếc nón vĩ đại rộng vành che mưa cho tôi.
Tôi cứ thong thả như đi dưới nắng ấm, hạnh phúc bội phần như chính
mưa cũng đang ôm ấp tôi.
Hạnh phúc sẽ đến
khi tự ngã ra đi.
Những lời được nghe
dạy, loáng thoáng đâu đó chợt về. Đi dưới mưa, cùng đất trời và
thiên nhiên hòa nhập thế này, tôi mới mơ hồ hiểu phần nào, vì đâu có
đôi lúc mình đã từng khi thì tự ty, lúc lại ngã mạn! Bởi những lúc
đó lòng mình hạn hẹp, chỉ thấy cái ta, dẫu có biết “núi cao còn
núi cao hơn” vẫn chỉ là biết để mà biết. Phố thị luôn chen chúc
nên lòng người dễ hơn thua, và còn hơn thua thì còn cả tự ti lẫn ngã
mạn!
Xin cám ơn những duyên
khởi đã kết đủ, để tôi quyết định về đây. Nơi này, mây lúc nào cũng
mênh mông vô tận, gió lúc nào cũng thênh thang, đồi thông lúc nào
cũng bát ngát hương rừng cỏ nội, chim chóc lúc nào cũng ríu rít ca
ngâm …. Tất cả đất trời ấy, thiên nhiên ấy đã ôm ấp và giúp “cái ta”
nhỏ xíu, nhận rõ hơn về lẽ vô thường.
Buổi chiều, trên bước
thiền hành ra tận ven sông, khi khổng khi không tôi bỗng nhớ tới một
chi tiết trong cuốn Nẻo Về Của Ý của thầy Nhất Hạnh, viết từ thập
niên 60. Cuốn sách đó tôi đã từng đọc say mê nhưng lâu rồi, chưa xem
lại. Chi tiết chợt hiện về là tên một địa danh: Bedford!
Đó chính là địa danh
có ngôi chùa hiu quạnh tọa lạc giữa rừng thông mà tôi đang trú ngụ.
Trong Nẻo Về Của Ý, có dăm đoạn Thầy kể, đã từng dừng chân ở Bedford
trong một thời khóa cắm trại với nhiều trẻ nhỏ. “Để trốn nắng
thành phố, tôi đã về đây, sống với thiên nhiên, với rừng xanh, hồ
biếc và trẻ thơ” (**) Rừng Bedford luôn khiến thầy nhớ về Phương
Bối, một địa danh gần Đà Lạt mà thuở xưa Thầy đã cùng bao thân hữu
bỏ tâm huyết để tạo dựng thành.
Khi trại hè kết thúc,
Thầy đã viết như vầy: “Bedford
đã rét rồi. Bọn trẻ con đã về hết. Rừng Bedfrod trở nên im lặng
thêm. Tôi đã để nhiều thì giờ nghĩ đến Phương Bối. Và càng nghĩ tới
Phương Bối tôi lại thấy tâm hồn tôi êm dịu hơn lên, giầu có hơn lên.
Tôi tin giờ này ở khắp nơi, những con chim của Phương Bối đều đang
nghĩ về Phương Bối. Rừng Bedford đã cho tôi sống những giờ thanh
tịnh. Mai mốt về đô thị, có lẽ trên hình bóng Phương Bối, tôi cũng
sẽ thấp thoáng hình bóng của Bedford …” (**)
Cái chi tiết bất chợt
nhớ lại này, khiến bước thiền hành bớt cô đơn. Tôi từng đọc nhiều
sách Thầy viết, nhưng sao bỗng dưng lại nhớ cái chi tiết đúng lúc,
đúng cảnh này? Thầy ơi, chắc không phải tình cờ đâu. Có phải từ
phương xa, Thầy vừa cảm nhận được ngã rẽ của đứa con, đang một mình
đi tìm điều muốn tìm? Thầy ơi, có phải Thầy đã xót thương con mà
nhắc con rằng, con không một mình. Bước chân Thầy từng in dấu nơi
đây, hãy lắng tâm chánh niệm, con sẽ thấy bước chân con đang bên dấu
chân Thầy…
Thế nhân ơi! Ai có thể
cảm thông được sự mầu nhiệm này!
Làm sao tôi có thể
ngăn được dòng lệ hạnh phúc!
Hơn bao giờ hết, tôi
biết mình không cô đơn, dù thực tế chỉ có tôi cùng rừng núi bạt
ngàn.
Giữa không gian
Bedford mà tôi đang có Xóm Mới, Xóm Thượng, Xóm Hạ. Tôi còn có cả
Thị Ngạn Am, thành phố Biển Dài, sông Hồng quê nội, núi Ba Vì xanh
thẫm đồi Tây … Ôi, những địa danh đã nuôi dưỡng tôi, đã an ủi khi
tôi khóc, đã che chở khi tôi lâm nguy, đã nâng đỡ khi tôi vấp ngã.
Nghĩa tình vời vợi
biển rộng sông dài mà chỉ khi chúng ta mở con - mắt - tuệ, nhìn thấu
tận cùng mới thấy tình thương kia vô điều kiện!
Huệ Trân
Thiên Di Am, chùa
Chánh Pháp
Bedford, Kentucky
(*) Kệ thỉnh chuông
Làng Mai
(**) Nẻo Về Của Ý
Bài trước:
|