.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)


bút
việt
hồn
quê

Bài vở cho trang này xin gửi về:
nhà văn PHONG THU
phongthu@mindspring.com

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Nguyễn Thị Thanh Dương Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Võ Thị Trúc Giang | Nguyễn Thế Hà | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Thạch Lang | Đại Lãn Lâm Kim Loan | Vũ Nam | Nguyên Nhung | Chân Y Nghiêm | Pháp Nhật Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Anh Thư | Diệu Trân | Tiểu Tử | Nguyễn Ước Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Hoàng Cầm, nhà thơ vừa ra đi

Một nhà thơ lớn vừa ra đi. Nhà thơ Hoàng Cầm từ trần lúc 9 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội, hưởng thọ 89 tuổi. Ông là tác gỉa của những bài thơ nổi tiếng như “Đêm liên hoan“, “Bên kia sông Đuống”, “Lá diêu bông”, “Qua vườn ổi”, “Cây tam cúc“,…Ông cũng là một cây bút nòng cốt của Nhân Văn Giai Phẩm và đã chịu hơn bốn chục năm đầy đọa trong chế độ toàn trị Cộng sản. Mãi về sau này, ông được trao gải thưởng văn học cao nhất của chế độ cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, mặc dù chế độ ấy đã vùi dập ông đến nỗi có lúc ông muốn tự tử…

Hoàng Cầm là một thi sĩ có nhiều bài thơ mang nhiều giai thoại. Có bài được phổ nhạc và đã thành nổi tiếng từ trong nước ra đến hải ngoại. Riêng với tôi, tôi thích thơ ông vì ông đã mang những hình ảnh ẩn dụ để viết thành thơ trang trải nỗi niềm của mình. Dù ông nói là ông làm thơ để kể chuyện đời mình, nhưng, trong thơ vẫn mang mang tâm sự của nỗi niềm riêng tư của trí thức tiểu tư sản yêu nước muốn cống hiến cho đất nước mà bị chế độ phũ phàng từ chối...

Tôi đã đọc thơ Hoàng Cầm từ lúc còn ở bậc tiểu học. Bài học thuộc lòng trong sách Tân Quốc Văn đã gieo vào tâm trí tôi những hình ảnh vì nước hy sinh trong bài thơ Hận Nam Quan. Hình ảnh cuộc ly biệt của hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi vừa bi thiết vừa hào hùng. Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên vì nước gác tình cha con mà trở về tìm đường khởi nghĩa. Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết bài thơ này khi mới 15 tuổi và theo tôi biết những câu thơ này có ảnh hưởng rất sâu rộng trong lớp tuổi của chúng tôi:

”Con yêu quý ! chớ nuôi lòng mềm yếu

Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam

Con về đi tận trung là tận hiếu

Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang

Nếu trời muốn cho nước ta tiêu diệt

Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh

Không bao giờ ! Không bao giờ con chết

Về ngay đi rồi chí toại công thành

Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm

Thì nghiến răng vung kiếm quét quân thù

Trãi con ơi ! Tương lai đầy ánh sáng

Cha đứng đây trông suốt được nghìn thu...”

Thêm một lý do khá riêng tư mà tôi coi ông một thần tượng thi ca của mình. Năm tôi sinh ra đời Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên Kia sông Đuống“. Mười năm sau, khi “Bài thơ sông Đuống” sắp được ghi vào trong chương trình Văn của các lớp phổ thông ở miền Bắc thì xảy ra vụ “Nhân Văn Giai Phẩm“ và bài thơ bị xóa tên trong chương trình học nhưng không bị quên lãng. Nhưng nó vẫn còn được truyền tụng với những người yêu thơ đánh dấu một thời kỳ thi ca của lòng yêu nước …

Hai chục năm sau, “Bài thơ sông Đuống“ lại được ghi vào chương trình học. Kể ra thì số phận của bài thơ và tác giả của nó cũng khá truân chuyên …Khi chính trị quyết định và chi phối tất cả thì văn chương chỉ là những yếu tố tùy thuộc nhỏ nhoi. Nhà thơ Bùi Tằng Việt đã lấy tên của vị thuốc đắng hoàng cầm làm bút hiệu của mình thì những hoạn nạn của cuộc đấu tố văn học xem ra không tránh khỏi.

Cuộc đời Hoàng Cầm hình như có rất nhiều dấu ấn từ nơi chôn nhau cắt rốn. Quê của ông là đất Bắc Ninh, quê hương của quan họ…

Có một dòng sông, nhờ một bài thơ mà trở thành một biểu tượng của quê hương, mà mỗi khi nghe nhắc đến lại nao nao trong dạ. Sông Đuống của Hoàng Cầm, của một thời kháng chiến. Cũng là sông Đuống có làng Thanh Am tên tục là làng Đuống nghèo nàn ven bờ, quê nội của tôi. …

Mỗi lần đọc bài thơ trên, tôi lại nghĩ về quê hương tôi lúc tôi rời bỏ khi vừa ở tuổi vừa biết cắp sách đến trường. Quê nội tôi là một làng nhỏ ven bờ sông Đuống và những hình ảnh của nó chỉ là những ký ức lãng đãng trong tiềm thức. Tôi thường hay nghe cha mẹ tôi nhắc đến ngôi nhà thờ có bậc thềm cao đầy những hoành phi câu đối của một thời hưng vượng. Những cây nhãn, cây bưởi mà tuổi tác cũng ngang với những đứa trẻ trong họ, bây giờ đã sống tán lạc ra mấy phương trời. Những vuông sân gạch mênh mông, thuở nào bước chân trẻ thơ lẫm chẫm. Rặng tường hoa dọc theo bờ ao, những mảnh sứ cẩn lóng lánh mầu nắng. Bờ ao với cây khế mọc là đà mặt nước, với những bè rau muống, rau rút xanh tươi, là ao cá đầy cá mỗi khi tát ao vào dịp tết. Hai cổng gạch và cánh cửa sắt như tượng trưng cho oai phong của dòng tộc, bây giờ có còn hiện hữu…

Không biết tôi có nói nhiều đến quá lời không khi diễn tả tâm tình của mình. Nhưng quả thực, tôi rất xúc động…

Bài thơ ấy có những ngôn ngữ thế nào mà gây cho tôi xúc cảm đến như vậy.? Có những câu mênh mang đánh thức nỗi niềm hoài nhớ quê hương, nơi chốn chỉ có trong trí nhớ:

 Em ơi, buồn mà chi

 Anh đưa em về sông Đuống

 Ngày xưa cát trắng phẳng lì

 Sông Đuống trôi đi

 Một dòng lấp lánh

 Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

 Xanh xanh bãi mía bờ lau

 Ngô khoai biêng biếc

 Đứng bên sông sao nhớ tiếc

 Sao xót xa như rụng bàn tay.

 …... Bao giờ về bên kia sông Đuống

 Anh lại tìm Em

 Em mặc yếm thắm

 Em thắt lụa hồng

 Em đi trẩy hội non sông

 Cười mê ánh sáng... muôn lòng xuân xanh.”

Ai mà không xao xuyến, nhất là những người sinh trưởng vùng Kinh Bắc. Nói sao cho đủ tâm tình ấy nên nói hoài chưa đủ.

Tôi muốn nói thêm một chút về tâm tư của tôi, một người đi xa quê hương từ nhỏ nhưng vẫn yêu mến và trân trong nó dù bây giờ, quê tôi đã thay đổi nhiều…Hoàng Cầm viết bài thơ vào đúng năm tôi sinh ra đời khi khói lửa chiến tranh, khi gia đình tôi phải chạy loạn, mẹ tôi bồng tôi trên tay và anh tôi ngồi ở một đầu quang gánh mang theo gia tài hòm xiểng của gia đình. Tới bây giơ đã hơn nửa thế kỷ, biết bao nhiêu là biến động diễn ra trên quê hương đất nước tôi. Và ngôi làng nhỏ, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi chắc cũng phải chịu nhiều tang thương biến đổi. Dòng sông thuở nào bây giờ có còn bãi mía bờ lau, hay tất cả đã bồi lở theo từng năm tháng. Những con cháu trong dòng họ tôi, bây giờ trôi nổi sống ở những lục địa khác nhau, không biết có còn giây phút nào, ngóng về quê cũ để bồi hồi sống lại những mảnh đời đã trôi vụt qua nhanh vào quá vãng. Theo truyền tụng thì tên làng Thanh Am là chữ do cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt ra và mang danh tự ấy mãi đến tận sau này. Ở cánh đồng làng có cây đa cổ thụ thật lớn mà người làng cho rằng là của cụ tổ trồng ra và chính là hình ảnh rõ nhất của làng mỗi khi trở về. Làng ít ruộng đất, và ít ai theo nghề buôn bán nên dân tình cũng không giàu có so với những làng như làng Phù Lưu, cũng ở vùng Kinh Bắc, quê ngoại của tôi…

Riêng tôi, có lẽ, nhờ những câu thơ trong tâm não, để một thời sống lại. Đọc thơ Hoàng Cầm, thấy dậy lên một niềm tự hào âm thầm. Quê cha đất tổ tôi, những địa danh được nhắc đến trong văn học có phải là chút hãnh diện của người bị lưu lạc tha hương từ lúc còn trẻ dại.

Hoàng Cầm rất yêu Kinh Bắc. Những cơn gió, những vạt nắng, những cơn mưa. Trong thơ ông, những điều ấy không đơn thuần là một sự kiện, một vật thể mà cón biểu hiện cho tâm tình của người trong tâm trạng bồi hồi khi nghĩ đến quê hương. Mưa không chỉ là mưa mà còn là những hình người lãng đãng của một thời tưởng vọng. Mưa Thuận Thành:

“Nhớ mưa Thuận Thành

long lanh mưa ướt

...sợi mưa chưa đậu

vai trần Ỷ Lan

mưa còn khép nép

nhẹ rung tơ đàn

... chiều khô lá ngải

mưa gái thương chồng

ướt đầm nắng quái

sang đò con sông

…mưa ngồi cổng vắng

mưa nằm lẳng lặng

tình xưa mưa thưa

nhớ ai mưa lùa...”

Nhưng, đời sống của thi sĩ Hoàng Cầm thì buồn lắm và đầy bất hạnh. Tham gia kháng chiến sau 1945, góp nhiều công sức nên khi trở về Hà Nội được tin cậy và giữ chức vụ Trưởng Đoàn Văn Công của Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân. Thế mà vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị cách tuột chức tước, tù tội, nghèo đói cho đến tận cuối đời.

Hoàng Cầm bị kiểm thảo, bị làm nhục, bị o ép theo dõi, có lúc ông tưởng rằng không thể nào chịu đựng những bất hạnh quá mức như thế. Trong một bức thư gửi cho con gái là Kiều Loan con người vợ trước đang sinh sống ở San José “… Đến khi chị Yến của con chết thì người bố hoàn toàn sụp đổ, hàng tháng sau vẫn chỉ là cái xác vật vờ, lờ lững mà thôi…” Bị tù giam vì chuyển bản thảo tập thơ “Kinh Bắc“ cho Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng mang ra ngoại quốc in, rồi bị tịch thu sách vở bản thảo, rồi hai người thân nhất là vợ và con gái từ trần trong thời gian ngắn, rồi khi được thả thì bị công an làm nhục, mang hình ảnh tên tuổi bêu riếu ngoài phường phố. Tất cả những biến động ấy đã biến ông thành một người phẫn chí, lẩm cẩm. Mấy chục năm trong thời Cộng Sản, thân phận của một thi sĩ thật đoạn trường.

Đến nỗi nhà thơ Phùng Quán khi đến thăm đã viết bài thơ trên giấy xi-măng bằng than củi để an ủi người bạn mà cũng là người anh đáng thương :

 “Tôi tin núi tàn !

 Tôi tin sông lấp !

 Nhưng tôi không thể nào tin:

 Một nhà thơ như anh lại ngã lòng suy sụp

Tôi tin, nhà thơ anh đã viết

Cách đây ba mươi năm

Những vần thơ lẫm liệt !

Tiểu đội anh, những ai còn và ai mất?

Không ai còn ai mất

Chỉ chết cả mà thôi !

Người sau kẻ trước lao vào giặc,

Giữ vững ngàn thu một giống nòi

Thế gian có một ngàn con sông

Và một ngàn nhà thơ lớn

Nhưng chỉ có một dòng

May được thơ xưng tụng

Nhờ đó mà vang vọng

Nhờ thơ mà vinh danh

Đó là con sông Đuống

Con sông của quê anh

Mà anh xót xa như bàn tay anh ngón rụng

Tôi có một niềm tin

Chắc như đanh đóng cột

Ngày mai anh nhắm mắt.

Đi sau linh cữu anh,

Ngoài bạn hữu gia đình,

Khóc bên bồi bên lở,

Sóng cuộn bờ nức nở,

Ngàn đời chịu tang anh

Tôi tin núi tàn !

Tôi tin sông lấp !

Nhưng tôi không thể nào tin

Một nhà thơ như anh

Lại ngã lòng suy xụp.”

Nhà thơ Phùng Qúan đã nhắc lại những câu thơ vô cùng cảm khái và hùng tráng của bài thơ Đêm Liên Hoan.

“Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng

ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực

vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn

trong tiểu đội anh

những ai còn ai mất?

Không ai còn ai mất

Ai cũng chết mà thôi

Người sau kẻ trước lao vào giặc

giữ vững nghìn thu một giống nòi.

Dù ta thịt nát xương phơi

Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam”

Hùng tráng là thế, hy sinh là thế nhưng không phải những người lính không biết buồn, không biết bâng khuâng tâm sự khi đến cuối năm. Tâm Sự Đêm Giao Thừa là tâm sự chung của những chàng trai trẻ đi kháng chiến diệt thù vì yêu nước. Trong cái khung cảnh một mình đứng gác của anh Vệ Quốc Quân:

“đêm nay hết một năm

phải gác tới giao thừa

quê hương chừng rét lắm

lất phất mấy hàng mưa...”

Tâm sự của anh lính này cũng là tâm sự của Hoàng Cầm. Ông cũng có người vợ sống thiếu thốn lần hồi cho qua ngày với một quán hàng trong phiên chợ xép nào đó. Quán vắng khách, người vợ này thiếu ăn nên không đủ sữa cho con bú “vợ thì nước mắt nhiều hơn sữa / ngực đói con nhay đến rã rời...” Đêm giao thừa, người lính muốn có một món quà gửi về cho vợ nhưng nghèo lắm nên chỉ có ý nguyện lập chiến công làm món quà quý giá cho gia đình. Anh tưởng tượng ra cảnh vợ mình mặc dù thiếu ăn không đủ sữa cho con bú nhưng nghe tin chồng lập chiến công vui mừng quá nên máu chảy mạnh trong huyết quản sữa căng lên đầu vú và con thơ đã được no lòng. Và anh dường như nghe tiếng ru của người vợ hiền dỗ giấc con thơ đang ngủ

“Cha con ăn tết lập công

cho sữa mẹ chảy một dòng thiên thu

cha đem cái chết quân thù

làm nên sức sống bây giờ của con

Thơ lý tưởng quá! Thơ yêu nước tưởng vòi vọi không thể nào có đỉnh cao hơn. Thế mà, thi sĩ lại bị chế độ hành hạ, trù úm đến mức phải phẫn trí tuyệt vọng.

Làm thân phận nghệ sĩ trong chế độ đỏ thật là tôi nghiệp! Một bài thơ mà nhiều người cho là có ẩn ý, ý tại ngôn ngoại như bài Lá Diêu Bông.

Nhà thơ Hoàng Cầm thì xác định rằng ông chỉ làm thơ tình và kể lại những chuyện tình của mình. Nhà thơ đã kể rằng trong suốt cuộc đời ông đã có tới 13 nàng thơ bằng xương bằng thịt. Và ông bảo rằng đó là những hồn người đã gợi ra cho ông nhịp điệu, âm thanh, đường nét, sắc màu trong 99 tình khúc của ông. Những nàng thơ là : Chị Vinh (kể từ 1934), chị Nghĩa (1936), Phương Tuyết (1940), chị Bắc (1942), Tuyết Khanh (1946), Minh Xuân (1950), Lê Hoàng Yến (1955), Vương Thanh Yến (1967), Phương Dung (1976), PH.Q. (1990), B.Ng. (1991), H.Ph. (1992), D.D. (1993). Trong đó có chi Vinh ”diêu bông”, chị Nghĩa “tam cúc” đã làm nên thời kỳ thơ Chị Em của Hoàng Cầm. Nhà thơ kể :

”Năm 12 tuổi tôi say mê một người con gái láng giềng hơn tôi những 8 tuổi. Một chiều thứ bảy cậu bé Bùi Tằng Việt thấy một cô gái hàng xóm đang mua một thứ gì đó ở quán của mẹ. Khi cô ấy ngửng đầu lên nhìn ra đường thì cậu bé lên tám choáng người bị ngay tiếng sát ái tình. Người con gái đẹp đến mê hồn. Thế là cậu bé làm một trang thơ lục bát để tặng người trong mộng. ”Em gửi chị Vinh của Em”. Chị Vinh cũng váy lụa Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà, khăn vuông mỏ quạ, đi Hội Chùa Lim chị là bà Chúa Quan Họ, giọng ngọt như mật. Từ đó Chị đi đến đâu là Em theo đến đó. Cho đến một ngày tròn 12 tuổi cậu bé theo chân Chị ra đồng:

“Chị Vinh ơi ! Chị tìm cái gì thế?”

Chị Vinh quay lại giọng bỡn cợt

”Ừ, chị đi tìm cái … lá ấy đấy, đứa nào tìm đượcc cái lá … ấy ta sẽ gọi làm chồng

Câu thơ diêu bông có đoạn:

Hia ngày Em tìm thấy lá

Chị chau mày

Đâu phải lá diêu bông

Mùa đông sau em tìm thấy Lá

Chị lắc đầu

Trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị

Em tìm thấy lá

Chi ncười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn...”

 Và kết cuộc là câu chuyện buồn. Chẳng bao giờ Chị gọi đứa em tình si là Chồng dù đứa em này đã lê chân từ cuối chân trời góc biển để tìm lá diêu bông

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hỡi

Ơi diêu bông...

Thơ kết bằng tiếng kêu tha thiết não nùng. Thơ như một câu thai đố đầy ẩn dụ. Ai là Chị, ai là Em, có phải là Đảng đóng vai người chị mang những điều không thực để lôi cuốn đứa em si tình là những người nghệ sĩ, đi tìm một hư vô không thể nào có trên đời...

Hoàng Cầm làm thơ, với Lá Diêu Bông, rõ ràng là có thâm ý, và nhiều người cũng hiểu cái thâm ý ấy để suy diễn xa hơn là chuyện tình bình thường. Và chính nhờ cái khung trời nhiều mơ mộng ấy mà nhiều bản nhạc đã khởi đi từ thơ Hoàng Cầm đã là đề tài cho các nhạc sĩ như Nguyễn Tiến, Trần Tiến, Phạm Duy… để tạo thành những ca khúc có đời sống rất lâu trong âm nhạc Việt Nam.

Có người nhận xét, thơ của thi sĩ Hoàng Cầm dường như lúc nào cũng có mang mang khuynh hướng muốn kể lể một chất chứa, muốn tâm sự một nỗi niềm. Tôi cũng có một ý nghĩ tương tự như vậy. Có một người đã nói, thơ của ông như một dòng sông bắt nguồn từ những vùng núi non của sự tích rồi lặng lẽ xuôi nguồn nhân sinh ra biển lớn. Thơ của ông có lúc ào ào mãnh liệt như Đêm Liên Hoan, có lúc tràn đầy tình cảm quê hương như Bên Kia Sông Đuống, nhưng cũng có lúc mênh mang nỗi niềm của Lá Diêu Bông hay chất chứa những niềm riêng như vở kịch Kiều Loan, hoặc đầy nét trữ tình như Qua Vườn Oåi hoặc Cây Tam Cúc…

...Xem tiếp phần 2

Nguyễn Mạnh Trinh


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu, Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.