Đám rước
Hiền giả ơi,
dân tộc của người sinh ra
như những kẻ nô lệ, bị bạo quyền xé nát linh hồn.
Nơi nào các đầu lĩnh ấy đi, họ đi,
và tai ương thay cho kẻ chẳng chịu đi như thế!
K. Gibran
I. Lời người dịch:
Năm 1919, Kahlil Gibran làm bằng hữu kinh ngạc khi ông cho ra
mắt cuốn Ðám rước (The Procession). Ðây là một thi phẩm đuợc
ông viết bằng tiếng A rập và giấu rất kỹ. Khi in thành sách, nó
tuyệt đẹp với loại giấy đặc biệt, kèm theo nhiều bức tranh do tự tay
Gibran vẽ, với lối đóng sách trang trọng và tác giả chịu mọi phí tổn
ấn loát. Tất cả cho thấy mức độ quan tâm, sự đánh giá và lòng chăm
sóc trìu mến của Gibran dành cho Ðám rước, tác phẩm được xem
là tiền thân của tuyệt tác Ngôn sứ (The Prophet) bằng tiếng
Anh, xuất bản bốn năm sau đó.
Ðộng cơ của Gibran khi viết Ðám rước có lẽ là để khám
phá nền tảng những nỗ lực không ngừng của mình trong quá trình phân
tích xã hội loài người cùng pháp luật, phép tắc và phong tục của nó,
v.v. Về mặt xã hội, Gibran nhận thức lối sống giả dối tổng quát đã
khiến cho con người rời xa chân lý, làm hãnh tiến một số người đồng
thời sỉ nhục rất nhiều người khác. Ông cảnh cáo rằng không một ai có
thể trải nghiệm sự toàn mãn của cuộc sống và vui hưởng sự hào phóng
của thiên nhiên trong khi đồng loại của y đang đi theo lòng tham
nhằm sở đắc cứu cánh trần tục.
Minh họa cho lời giảng ấy, Gibran đưa ra hai nhân vật mang
tính ẩn dụ. Nassib ‘Arida, thi sĩ thiên tài của A rập, trong Lời
giới thiệu đã giải thích khung cảnh và diễn tiến của cuộc đàm
đạo song phương ấy:
“Một lão trượng hiền giả thông thái chuyện nhân gian và
chin muồi kinh nghiệm trần thế, rời thành thị đi lang thang trong
cánh đồng. Mỏi chân, ông ngồi xuống nghỉ, cạnh bìa rừng. Bỗng xuất
hiện một thanh niên khỏa thân, da sạm nắng, tay cầm cây sáo, hồn
nhiên buông thả thân mình xuống bên cạnh hiền giả. Cả hai bắt đầu
cuộc đàm đạo mà không cần giữ khuôn phép khách sáo.”
Lão trượng hiền giả bình phẩm rằng chốn thành thị của xã hội
loài người là nơi chỉ tạo ra cái ác và khốn khổ, trong khi Thanh
niên quả quyết rằng chỉ có cách duy nhất là đi theo cuộc sống gần
gũi Thiên nhiên, tâm hồn ta mới có thể tìm thấy khoái lạc cùng sự
toại nguyện đích thực, và làm chan chứa mọi buồng tim bằng niềm hân
hoan mộc mạc trong trạng thái sung mãn nhất được Thượng đế ban cho
loài người.
Qua cuộc đàm đạo ấy giữa Hiền giả lão trượng và Thanh niên,
bộc lộ những tiếp cận của Gibran vào sự sống, cái chết và tôn giáo.
Không đề nghị mọi người rời thành thị lên sống chốn non cao, ông nỗ
lực tạo sự chú tâm vào những công thức giản dị để mỗi người có được
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông thúc giục người đời tự tháo gỡ gông
xiềng của xã hội đang khua lách cách, để bản thân mỗi người có được,
tới một mức độ lớn lao nhất có thể, sự tự do của thiên nhiên và tĩnh
lặng của cuộc sống thôn dã. Cánh đồng Gibran mô tả, tượng trưng cho
cuộc sống phong phú và khang kiện, tràn đầy trong tâm hồn của kẻ
sống gần gũi với đất.
Tiếng A rập là một ngôn ngữ mạnh mẽ, phong phú từ vựng gồm các
từ ngữ hàm súc và mang nhiều sắc thái tinh tế. Với cung giọng thanh
nhã, ấm áp và đầy màu sắc, thi ca trữ tình của A rập được viết theo
các giai điệu uyển chuyển. Khi đọc lên, âm thanh của nó làm người
nghe xúc động ngẩn ngơ, trào nước mắt hay ngất ngây xuất thần, từ
chiếc đầu rồi toàn thân đong đưa theo nhịp điệu của lời kể, như kẻ
đánh đàn không thể ngồi yên lúc tay gảy nhịp theo đàn.
Tuy thế, Ðám rước khi được dịch sang tiếng Anh, và rồi
sang tiếng Việt, không tránh khỏi một số bất cập vì đặc điểm của mỗi
ngôn ngữ, nhất là tính cách bóng bảy của tiếng A rập. Vì khúc kết bi
quan của Gibran nên có thể chọn nhan đề Ðám rước (The
Procession) hoặc Ðám ma (The Cortège) cho thi phẩm này. Thế
nhưng hai dịch giả của hai văn bản mà chúng tôi hiện có là Anthony
Rizeallah Ferris và George Kheirallah đều lấy nhan đề Ðám rước.
Và bản tiếng Việt này được thực hiện trên một tổng hợp của hai bản
dịch ấy, nhưng thay vì viết theo văn vần của nguyên tác A rập như G.
Kheirallah, chúng tôi thể theo lối thơ câu dài ngắn khác nhau của
bản tiếng Anh của A.R. Ferris, để thuận tiện cho những khai triển
hoặc quãng diễn hầu có thể chuyên chở tối đa tư tưởng của Gibran.
Tuy bản thân Kahlil Gibran là bậc thầy trong việc sử dụng bút
sắt và bút lông, nhưng ông cảm thấy hai trung gian ấy không thỏa
đáng cho những chiêm nghiệm của mình trong Ðám rước. Có lẽ vì
thế, cuối mỗi đoạn, ông lại tìm cách diễn tả bằng một điệp khúc, như
một trung gian khác, phi chiều kích và vượt thời gian. Ðó là tiếng
than của cây sáo, hoặc cái là cốt tủy tinh thần.
Khi đọc tiểu sử của Kahlil Gibran, ta thấy lòng hoài nhớ quê
nhà Wadi-Quashida cùng niềm khao khát được an nghỉ tại Mar-Shida,
nổi bật trên bối cảnh triết lý của đứa con thiên nhiên đang nổi
loạn, như một đoạn trong bản dịch Ðám rước của G. Kheirallah:
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Hãy quên mọi phương
thuốc và tật bệnh
Loài người như những
câu thơ được viết
Trên bề mặt con suối
nhỏ và thiện hảo ở đó.
Người hãy cầu nguyện
và kể cho tôi nghe
Khi bon chen qua đám
đông cuộc đời
Giữa những ồn ào cãi
cọ và phản đối
và xung đột bất tận
Như chuột chũi đang
đào ngạch trong bóng tối
Và như đang nắm bắt
tơ nhện
Luôn luôn bị ngăn
trở trong hoài bảo
Cho tới khi kết hiệp sống
động với cái chết?
Và một Gibran nhân tính, chán chường và tan nát, nhuốm mùi từ
bỏ, như báo trước chung cuộc của ông:
Liệu trong tay tôi có những ngày lên dây đàn
Mà chỉ ở trong rừng
chúng mới thật căng
Nhưng hoàn cảnh dồn
ép chúng ta
Trên con đường nhỏ
hẹp, chặt đẽo bởi thành thị
Vì Ðịnh mệnh có
những lối đi không thể biến cải
Khi sự yếu đuối làm
hao mòn ý chí
Chúng ta bênh vực
mình bằng lời bào chữa cho bản ngã
Và tiếp tục giết chết Ðịnh mệnh của mình.
II. Toàn văn Ðám rước
Thế giới ảo giác
Lão trượng hiền giả:
Thế giới này chỉ là nhà máy ép rượu vang,
chủ nhân và chủ tiệc là Người cha Thời gian,
chỉ biết làm vui lòng kẻ miệt mài
trong các giấc mộng chỏi nhau,
như bài thơ không liền vận.
Người đời say sưa ăn nhậu
và như bầy chiến mã chạy đua theo dục vọng rồ dại.
Tuy một số người thường kêu gào khi cầu nguyện,
nhưng những kẻ khác thì điên cuồng sở đắc.
Cũng có vài người thưởng thức cuộc sống,
không bị ưu phiền vì các tặng phẩm của đời,
không để dòng đời chảy lệch vào ly rượu
trong đó trôi nổi bồng bềnh óc tưởng tượng.
Thế thì ta nên tìm cho mình một linh hồn tiết độ
giữa tình trạng chè chén truy hoan
và hãy hỏi mình làm sao tìm thấy mặt trăng
trong vòm trời mây sủng nước mưa.
Thanh niên:
Trong cánh đồng chẳng có hoang mang
do ảo giác hay rượu đem tới.
Mây sủng nước mưa cung cấp vốn liếng
và thuốc tiên thượng hạng
cho những dòng suối nhỏ.
Người đời ngày càng nghiện ngập nó
như được nuôi bằng sữa mẹ
và khi đặt xuống nghỉ an cũng là lúc thôi bú.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Vì bài ca là bóng mát dịu êm
Những tiếng than của cây sáo ở lại
Khi mọi ảo ảnh nhạt nhòa tan biến.
Thân phận con người
Lão trượng hiền giả:
Quả thật, việc thiện do con người làm
nhưng khi con người ra đi,
cái ác không tàn theo y.
Chúng ta như bánh xe đang quay,
bị kiểm soát bởi bàn tay thời gian,
nơi chúng ta nương náu.
Ðừng nói, “Người này nổi tiếng, uyên bác,
hoặc tôn sư tri thức do thiên thần gởi tới,”
vì nơi thành thị,
người xuất sắc nhất là kẻ thuộc về bầy đàn,
được dẫn đường bởi kẻ chăn bầy lớn giọng.
Người không theo mệnh lệnh
sẽ sớm đứng trước kẻ giết mình.
Thanh niên:
Trong cánh đồng xinh đẹp,
không có kẻ chăn bầy,
không có cừu đề làm trầy da,
không có tim để làm rướm máu.
Mùa đông ra đi mang theo y trang,
và mùa xuân ắt đến
nhưng chỉ theo mệnh lệnh cao cả của Thượng
đế.
Hiền giả ơi,
dân tộc của người sinh ra
như những kẻ nô lệ, bị bạo quyền xé nát linh
hồn.
Nơi nào các đầu lĩnh ấy đi, họ đi,
và tai ương thay cho kẻ chẳng chịu đi như
thế!
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Bài ca của cây sáo tuyệt trần hơn
Toàn bộ vinh quang của vua chúa mọi thời đại.
Cuộc đời và khổ não
Lão trượng hiền giả:
Sống giữa đám đông chỉ như ngủ một giấc dài
ngần ngật thuốc ngủ, trộn lẫn những giấc mộng
điên rồ và những bóng ma sợ hãi.
Khổ não vây kín bí mật của tâm hồn,
và niềm vui chỉ tìm thấy nơi khổ não,
còn hạnh phúc được dùng để che đậy
bí nhiệm sâu xa của cuộc đời.
Nếu tôi buông bỏ khổ não để có sự tĩnh lặng
của cánh đồng, số phận tôi sẽ chỉ là trống
rỗng.
Thanh niên:
Niềm vui của người này là nỗi khổ của người kia.
Trong cánh đồng xinh đẹp
không có khổ não hay buồn thảm
do những hành động khinh miệt gây ra.
Ngọn gió tinh nghịch mang niềm vui tới
cho các tâm hồn buồn thảm.
Hiền giả ơi,
khổ não của tâm hồn người chỉ là cơn mộng tưởng
qua nhanh như con nước chảy siết.
Trong cánh đồng, khổ não của người sẽ biến mất
như lá mùa thu trôi lẹ làng trên mặt suối.
Tâm hồn người sẽ tĩnh lặng như mặt hồ
dưới ánh sáng cao cả của Thượng đế.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Chỉ giai điệu của trời mới còn mãi mãi
Mọi sự thế gian là những phù vân.
Về tri thức và của cải
Lão trượng hiền giả:
Vài kẻ bằng lòng với cuộc đời, sống bất cần.
Dòng sông của cánh đồng
chỉ là cái vận chuyển sự trống rỗng;
dòng sông đời người
chảy lệch vào chiếc ly tri thức,
đưa cho kẻ mê mải uống sự dư dật của cuộc đời
và không để ý tới những cảnh giác của nó.
Y hân hoan khi trong ly có hạnh phúc,
y cằn nhằn khi cầu nguyện với Thượng đế
và y xin có của cải mình không xứng hưởng.
Và khi đạt được sự giàu có xiềng xích đó,
những giấc mơ sợ hãi biến y thành tên nô lệ
vĩnh viễn.
Thế giới này chỉ là tiệm rượu,
chủ nhân là Thời gian,
người nghiện rượu đòi hỏi nhiều
nhưng được đưa cho ít.
Thanh niên:
Trong cánh đồng xinh đẹp không có rượu
vì cơn say tuyệt trần của linh hồn là phần
thưởng
cho những ai tìm kiếm nó trên lồng ngực
của mẹ Thiên nhiên.
Ðám mây che mờ mặt trăng kia sẽ tan ngay
vì nhiệt tình của ta khi cần ngắm ánh trăng.
Người thành thị lạm dụng rượu Thời gian
vì họ tưởng nó như một đền thờ.
Họ uống thoải mái,
uống vô tư
và họ chạy trốn
chạy gấp tới tuổi già
với khổ não không ý thức
nhưng rất sâu xa.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Bài ca của Thượng đế luôn luôn ở lại
Và mọi sự khác sẽ phải mất đi.
Về Tôn giáo
Lão trượng hiền giả:
Ðối với con người, tôn giáo giống như cánh
đồng,
được gieo trồng với hi vọng
được canh tác bởi lòng ngoan đạo,
hoặc bị chăm sóc bởi trí óc mông muội sợ lửa
hỏa ngục,
hoặc bị cày cấy bởi
những kẻ mạnh nhờ của cải bạc vàng trống
rỗng,
những kẻ xem tôn giáo như một loại đổi chác
để được đáp đền lợi nhuận.
Trái tim họ đã chết tuy đang đập,
và sản phẩm thu hoạch của họ
chỉ toàn cỏ dại mọc hoang trong thung lũng.
Thanh niên:
Trong cánh đồng xinh đẹp
không có tôn giáo và lòng ngoan đạo,
không có dị giáo, không có màu sắc, không có
tín điều.
Vì khi chim họa mi hót,
tất cả đều đẹp đẽ, hân hoan và tôn giáo.
Và tinh thần nguôi ngoai
và đền đáp là an tĩnh.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Lời cầu nguyện là âm nhạc của tôi.
Tình yêu là dây đàn của tôi
Tiếng than của cây sáo chắc chắn sẽ nói lên
Cơn khốn khổ của người thành thị bị vây khốn.
Về công lý
Lão trượng hiền giả:
Có cái gì trong công lý và phép tắc trần gian
làm chúng ta cười và khóc?
Xà lim chật hẹp cùng án tử hình đang đợi
người tội phạm cô thế và nghèo;
còn vinh quang đang đợi người giàu
che giấu tội ác của họ
đằng sau vàng bạc và vinh quang thừa kế.
Thanh niên:
Trong cánh đồng của mẹ Thiên nhiên
tất cả đều là công lý.
Thiên nhiên chẳng lơ là hay thiên vị ai.
Cỏ cây mọc theo cách chẳng giống nhau
nhưng tất cả đều đong đưa theo gió nhẹ.
Trong cánh đồng, công lý như tuyết
phủ lấp tất cả.
Và khi mặt trời xuất hiện, tất cả đều lộ diện
trong sức mạnh, sắc đẹp và hương thơm riêng
rẽ
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Vì bài ca của Thượng đế là tất cả
Chân lý của cây sáo luôn luôn ở lại
Tội ác và loài người tất phải qua đi.
Về ý chí
Lão trượng hiền giả:
Người thành thị mắc lưới các bạo chúa,
những kẻ càng về già càng nổi cơn điên ác
liệt.
Hang sư tử có mùi dù nó ở hay không,
chồn cáo cũng chẳng dám tới gần.
Dù bay vút trời cao, chim sáo vẫn loài nhút
nhát;
đại bàng ngay cả khi chết vẫn giống kiêu
hãnh.
Sức mạnh tinh thần tự nó là quyền năng lớn
lao nhất,
và phải nghiền nát kịp thời những gì chống
lại nó.
Ðừng kết án, hãy thương xót người không có
đức tin
cùng sự yếu đuối, mông muội và hư vô của họ.
Thanh niên:
Cánh đồng không thấy người yếu đuối
cũng không thấy kẻ mạnh,
đối với Thiên nhiên,
tất cả là một và tất cả đều mạnh.
Khi sư tử hống, cánh đồng không nói,
“Nó là dã thú ghê gớm... chúng ta hãy bỏ chạy!”
Chiếc bóng con người đi qua rất nhanh
trong cuộc viếng thăm ngắn ngủi và khổ não
thế gian này.
Và sẽ an nghỉ trong khung trời bao la của ý nghĩ,
nơi là cánh đồng của trời.
Và như lá mùa thu rơi vào lòng đất,
tất cả sẽ phải xuất hiện lần nữa
trong thời xuân xanh vĩ đại
của tuổi trẻ đầy màu sắc.
Trong cuộc sống khang kiện,
lá cây ấy lớn lên nhanh
sau khi những đối tượng vật chất của con người
tan biến thành hơi và rơi vào quên lãng.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Cây sáo tuyệt trần sẽ được yêu mến dài lâu
Nhờ sức mạnh của linh hồn do bài ca mang tới
Còn con người và lòng tham đều sớm bị diệt vong.
Về luật lệ phép tắc
Lão trượng hiền giả:
Con người tự làm mình yếu đuối
vì nó tái chế luật lệ của Thượng đế
thành một thứ giam nhốt sự sống.
Con người tự xiềng xích nó bằng những gông cùm
thô lậu của phép tắc xã hội mà nó mong muốn.
Và con người nhất quyết không chịu thấy ra
thảm kịch lớn lao do nó tự đặt lên mình
và các con các cháu của nó.
Con người không thể thoát ra nhà tù bất hòa
do nó dựng lên trên thế giới này
Và khốn khổ là phần số tự nguyện của nó.
Thanh niên:
Ðối với Thiên nhiên,
tất cả đều đang sống và đang tự do.
Vinh quang trần thế của con người
chỉ là giấc mộng hư không, biến mất
theo bọt nước trong lòng suối nhiều đá.
Khi cây hạnh nhân rải nụ hoa lên các cây nhỏ
đang mọc bên dưới, nó không nói,
“Ta giàu có biết mấy! Các ngươi nghèo nàn
biết mấy!”
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Giai điệu của Thượng đế không bao giờ tắt lịm
Còn mọi sự trần gian chỉ là phù phiếm.
Về sự tử tế
Lão trượng hiền giả:
Sự tử tế của người đời chỉ là cái vỏ trống
rỗng,
không chứa đựng châu ngọc hoặc hạt trai quí
báu.
Con người sống bằng hai trái tim;
trái này đằm thắm thẳm sâu,
và trái kia bằng thép.
Và tử thế thường chỉ là chiếc khiên,
còn quảng đại cũng thường là thanh gươm.
Thanh niên:
Cánh đồng chỉ có một trái tim vĩ đại.
Cây liễu sống cạnh cây sồi,
nó không sợ hãi kích thước của cây sồi.
Y phục của chim công trông rất lộng lẫy
nhưng nó chẳng biết thân mình đẹp hay xấu.
Hãy đưa tôi cây sáo và
người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm
nhạc rung lên
Vì âm nhạc là giai điệu
dịu dàng
Mạnh hơn kẻ mạnh lẫn người
yếu.
Về khôn ngoan giả
Lão trượng hiền giả:
Người thành thị giả vờ khôn ngoan
và am hiểu sâu rộng
nhưng tưởng tượng ấy hoàn toàn không đúng
vì họ chỉ là chuyên gia bắt chước.
Nhờ thế, họ có đủ kiêu hãnh để tính toán
lỗ lời trong các cuộc đổi chác.
Kẻ khờ khạo tưởng tượng nó là vua
và không sức mạnh nào có khả năng biến đổi
các ý nghĩ vĩ đại và các giấc mơ của nó.
Kẻ điên rồ kiêu hãnh tưởng lầm
chiếc gương nó soi là bầu trời
và cái bóng của nó là mặt trăng chiếu sáng
lập loè trên các tầng trời.
Thanh niên:
Trong cánh đồng,
không có khôn ngoan và tuấn tú,
vì thiên nhiên không cần sự đẹp đẽ
cũng chẳng cần sự ngọt ngào.
Dòng nước đang chảy là rượu tiên ngọt ngào.
Khi dâng tràn và đứng yên,
nước chỉ phản chiếu sự thật của cái bên cạnh
nó
và cái tôi của nó.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Tiếng than của cây sáo thiêng liêng hơn
Chiếc ly vàng đựng đầy rượu vang đỏ.
Về tình yêu I
Lão trượng hiền giả:
Loại tình yêu vì nó chúng ta phấn đấu và
chết,
giống như cây không sinh quả.
Chỉ có tình yêu lành mạnh,
giống với khổ não lớn lao của linh hồn,
mới làm sinh động và nâng tâm hồn lên cõi am
hiểu.
Khi tình yêu bị lạm dụng,
nó cung cấp dưỡng chất nuôi sự khốn khổ,
nó là điềm báo sự nguy hiểm
và là đám mây đen của sự độc ác.
Nếu loài người sắp dẫn đưa cuộc diễu hành xe
ngựa của tình yêu
vào chiếc giường làm bằng động cơ vô đạo,
lúc ấy tình yêu sẽ không chịu cư ngụ ở đó.
Tình yêu là con chim xinh đẹp,
cầu cho được bắt nhưng không chịu bị thương.
Thanh niên:
Cánh đồng không chống việc sở đắc tình yêu,
vì tình yêu và cái đẹp cư ngụ mãi mãi,
trong an bình và hào phóng của cánh đồng.
Lúc mới tìm thấy, tình yêu là nhức nhối
trong thịt trong xương,
và chỉ khi nào tuổi trẻ vượt qua cơn đau ấy,
nó mới mang lại sự am hiểu phong phú
và đầy khổ não.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Vì khúc ca là cánh tay của tình yêu
Từ bên trên giáng lâm trong cái đẹp.
Về tình yêu II
Lão trượng hiền giả:
Người trẻ tuổi, kẻ được tình yêu cao cả viếng
thăm,
qua chân lý của ánh sáng bởi trời,
và kẻ nào bảo vệ tình yêu ấy quyết liệt
như người đang đói khát,
kẻ đó là đứa con đích thực của Thượng đế.
Tuy người đời nói,
“Y là đứa mất trí!
Y không lợi lộc gì từ tình yêu,
kẻ y yêu đẹp đẽ gì đâu
và cơn đau phiền muộn ích gì cho y!”
Ðáng thương cho những người ngu dốt đó!
Tinh thần của họ đã chết trước khi
họ được sinh ra trên giường hộ sản!
Thanh niên:
Trong cánh đồng không cư trú lính canh
hay kẻ trách móc nào
và Thiên nhiên không giữ lại bí mật nào.
Linh dương vui nhảy tung tăng khi chiều hôm,
và đại bàng không chíp mỏ cười cũng chẳng cau mày,
thế nhưng trong cánh đồng,
tất cả đều được nghe, được biết và được thấy.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Vì âm nhạc là niềm vui cao cả nhất của tâm hồn
Là nỗi hân hoan từ trời, là chiếc hôn từ Thượng đế.
Về tình yêu III
Lão trượng hiền giả:
Chúng ta đã quên sự vĩ đại của kẻ xâm lăng
nhưng nhớ mãi cơn thịnh nộ và điên khùng của
hắn.
Từ trái tim của Alexander,
lòng thèm khát càng lúc càng mạnh;
qua linh hồn của Kais,
sự ngu dốt bị đánh bại.
Chiến thắng của Alexander chỉ là thất bại.
Chính sự hành hạ Kais chịu là khải hoàn và
vinh quang.
Tình yêu phải được bộc lộ qua tinh thần
chứ không qua thể xác,
như nho được ép thành rượu
để làm hưng phấn không để làm mê muội.
Thanh niên:
Trong cánh đồng, bay lơ lửng
hồi ức của những người yêu nhau,
còn hành động của bạo quyền chẳng ai thèm để
ý
vì các tội ác ấy được ghi chép trong sách sử
ký.
Ðối với tình yêu, mọi sự hiện hữu
đều là một điện thờ bất diệt.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Hãy quên đi sự bạo tàn của kẻ mạnh
Mọi sự tùy thuộc một mình Thiên nhiên
Hoa huệ được tạo hình như chiếc ly để đựng sương,
không đựng máu hoặc liều thuốc độc tinh khôi.
Về hạnh phúc và khát vọng
Lão trượng hiền giả:
Hạnh phúc trên thế gian mà con người khao
khát
với mọi phí tổn bằng vàng hay thời gian,
chỉ là hình bóng qua rất nhanh.
Khi hình bóng ấy thành hiện thực,
con người sớm chán chê nó.
Dòng sông chảy tựa con tuấn mã đang đua
như gió cuốn trong đồng bằng, biến đất thành
bụi.
Con người ra sức cung cấp cho thể xác
những cái cấm kỵ, nhưng có chúng rồi,
khát vọng sẽ lắng xuống.
Khi thấy có người bỏ qua một bên những cái
cấm kỵ
mang lại cho bản ngã tội ác khôn dò,
hãy nhìn y với con mắt yêu thương vì y
là kẻ bảo tồn Thượng đế trong lòng mình.
Thanh niên:
Trống rỗng và khô cằn hi vọng lẫn sự chăm sóc
là cánh đồng xinh đẹp; nó không để ý tới khát
vọng
và chẳng mảy may thèm muốn
vì Thượng đế Toàn năng cung cấp cho nó tất
cả.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Hát là tình yêu, hy vọng và khát vọng
Tiếng than của cây sáo là ánh sáng và lửa.
Về bất tử
Lão trượng hiền giả:
Cứu cánh của tinh thần trong tâm hồn thì bị
che giấu,
không thể phán xét qua vẻ xuất hiện bên
ngoài.
Người đời thường nói,
“Khi linh hồn đạt tới toàn hảo,
nó được phóng thích khỏi cuộc đời,
vì nếu linh hồn là quả, khi chín sẽ rụng
bởi sức mạnh ngọn gió của Thượng đế.”
Và người đời nói,
“Khi thể xác an nghỉ trong cái chết,
linh hồn rời khỏi nó như chiếc bóng trên mặt
hồ
biến mất khi sức nóng làm khô cạn chiếc
giường của nó.”
Nhưng tinh thần không sinh ra để bị diệt
vong,
nó luôn luôn phát triển mạnh mẽ và thăng hoa.
Ngay cả khi gió bấc thổi đất cát phủ lên đóa
hoa,
gió nồm sẽ tới phục hồi vẻ đẹp của nó,
Thanh niên:
Cánh đồng không phân biệt thể xác với linh hồn.
Biển cả và sương mù, hơi đất và sương mai,
tất cả đều là một, dù mây che hay quang đãng
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Vì bài ca là toàn bộ thể xác và linh hồn
Từ đáy dư dật của cái bát bằng vàng.
Về linh hồn và sung mãn
Lão trượng hiền giả:
Thể xác là cung lòng để linh hồn tĩnh lặng
nghỉ ngơi nơi đó cho tới khi ánh sáng ra đời.
Linh hồn là phôi thai trong thể xác con
người,
và ngày chết là ngày thức giấc
vì nó là kỷ nguyên vĩ đại của lâm bồn
và giờ dư dật của cuộc sáng thế.
Nhưng sự cằn cỗi độc dữ đi kèm với con người,
xâm nhập vào mảnh đất tâm trí sung mãn của
linh hồn.
Biết bao đóa hoa khi chào đời
không sỡ hữu hương thơm!
Biết bao đám mây tụ tập trên bầu trời khô
hạn,
không rơi xuống giọt mưa nào!
Thanh niên:
Trong cánh đồng phì nhiêu không có linh hồn
cằn cỗi
và kẻ xâm lăng không thể xâm nhập
cuộc an tĩnh của chúng ta.
Hạt mầm tới ngày chín chứa trong lòng nó
bí mật của cây dừa từ lúc lúc bắt đầu
toàn bộ cuộc sáng thế.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Vì âm nhạc là trái tim lớn lên với tình yêu
Và giống như dòng suối, nó tuôn trào
Về cái chết
Lão trượng hiền giả:
Cái chết là một kết thúc
đối với đứa con của thế gian
nhưng là một bắt đầu đối với linh hồn,
một khải hoàn của sự sống.
Kẻ nào bằng con mắt bên trong
ôm ấp tình yêu chân lý,
sẽ luôn luôn trong trạng thái ngất ngây,
như suối nước đang róc rách chảy.
Còn kẻ nào ngủ suốt ngày ánh sáng,
sẽ phải tàn lụi trong bóng tối bất tận
được nó thương yêu.
Kẻ nào bám víu quả đất
và khi thức giấc, vuốt ve âu yếm Thiên nhiên,
sẽ gần gũi Thượng đế;
lúc đó, đứa con này của Thượng đế
sẽ băng qua thung lũng của sự chết
như băng qua lòng suối hẹp.
Thanh niên:
Trong cánh đồng tốt lành không có sự chết,
cũng không có huyệt mộ để chôn cất
cũng không có lời nguyện để cầu kinh.
Khi tháng Sáu ra đi, lòng hân hoan tiếp tục sống
vì cái chết chỉ lấy đi cái chạm tới sự toàn thiện
chứ không phải cái nhận biết sự toàn thiện.
Kẻ chỉ sống một mùa xuân hay hơn nữa,
sẽ sở hữu cuộc sống tinh thần
của kẻ đã sống hai chục mùa xuân.
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Qua linh hồn tôi hãy để âm nhạc rung lên
Mang lại hòa bình, xoá bỏ xung đột.
Tóm kết
của Lão trượng hiền giả
Cánh đồng rất nhiều
nhưng ít người ở đó.
Con người là tinh thần của đấng tạo hóa trên
trái đất,
và toàn bộ cánh đồng được làm ra cho con
người,
nhưng con người,
bằng những chọn lựa của nó,
đã lánh xa Tình yêu và Cái đẹp cận kề của
Thượng đế,
vốn là cánh đồng xinh đẹp.
Tóm kết
của Thanh niên
Hãy đưa tôi cây sáo và người hãy hát
Hãy quên những điều chúng ta vừa nói về tất cả.
Lời nói là bụi làm lốm đốm thinh không
Và tự nó thất lạc trong bầu trời mênh mông.
Hiền giả ơi,
cái người đã và đang làm có tốt không?
Tại sao người không chấp nhận cánh đồng
làm nơi cư trú tuyệt vời?
Tại sao người không buông bỏ dinh thự thành
thị huyên náo,
để leo lên gò đống,
đi theo con suối,
thở hương thơm
và say sưa trò chuyện với mặt trời?
Tại sao người không uống rượu ban mai
từ chiếc ly minh triết vĩ đại của nó,
và thăm dò những chùm nho thanh tao
đang ở trên cành
như những chiếc đèn treo bằng vàng?
Tại sao người không lấy
bầu trời vô tận kia làm mền,
các đoá hoa kia làm giường,
để từ đó nhìn đất của Thượng đế?
Tại sao người không từ bỏ tương lai
và quên lãng quá khứ?
Có phải người không khát khao sống
như người sinh ra để sống?
Người hãy xua đuổi sự khốn khổ,
người hãy bỏ lại mọi sự vật chất,
vì xã hội chẳng qua chỉ là rộn ràng,
phiền muộn và tranh chấp.
Nó chỉ là lưới nhện, là đường hầm
của loài chuột chũi.
Thiên nhiên sẽ nghênh đón người
như người của nó,
và tất cả những gì thiện chí hiện hữu
là để cho người.
Ðứa con của cánh đồng
là đứa con của Thượng đế.
Ðầu hàng
của Lão trượng hiền giả
Cư ngụ trong cánh đồng là
niềm hy vọng,
nỗi khát khao
và lòng mong ước của tôi,
và tôi thường cầu xin để có
một cuộc sống đẹp đẽ
và an tĩnh như thế.
Nhưng ý muốn tàn nhẫn của số phận
đã đặt tôi vào lòng thành thị.
Và con người
phải sở hữu số phận đã cưỡng bách
các ý nghĩ, hành động và lời nói của nó,
và cái không thoả đáng ấy
định hướng
bước chân của nó tới nơi bất như ý.
Nguồn:
-
The Treasury of Kahlil Gibran, The Arabic Writings by The Author of
The Prophet, The Procession, tt 303-318, Anthony
Rizcallah Ferris dịch, Martin L. Wolf biên tập., Nxb Citadel Press,
New York, 1951.
-
The Procession, Kahlil Gibran, George Kheirallah
biên d ịch, Nxb The Philosophical Library, Inc. (The Wisdom
Library), New York 1958.
|