Vườn
Ngôn sứ
(The
Garden of the
Prophet)
Lời người dịch:
Trước khi qua đời vì bệnh ung thư (1931) Kahlil Gibran vẫn tiếp tục
hoàn chỉnh bản thảo của The Garden of the Prophet
(Vườn Ngôn sứ), được xuất bản hai năm sau (1933).
Trong The Prophet (1923), một tác phẩm được K. Gibran viết
lại tới ba lần vào ba độ tuổi khác nhau, tác giả mô phỏng khung sườn
của Thus Spoke Zarathustra của Nietzsche nhưng như chúng ta
đã thấy, nội dung duy tâm, nhân bản và lạc quan của The Prophet
hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của triết học Nietzsche. Theo một số
nhà nghiên cứu tôn giáo, có lẽ tư tưởng của K. Gibran chịu ảnh hưởng
tổng hợp của Kitô giáo phương Đông, Hồi giáo và Đạo Bahá'i. Vườn
Ngôn sứ là cuốn nối điêu của The Prophet.
Có thể nói The Prophet, The Garden of the Prophet và The
Earth Gods (Thần linh trần thế) làm thành một bộ ba tập. Nhiều
nhà nghiên cứu triết học xem cả ba như một tổng thể của K. Gibran
nhằm đưa ra một phác thảo về mối liên hệ ba chiều kích trong cuộc
hiện sinh của con người. Có thể diễn tả theo thuật ngữ triết học, ba
chiều kích đó là:
1. Mitwelt hay Mitdasein. Mối liên hệ giữa con người
với con người trong bối cảnh sống với các vấn đề của con người và
cũng là vấn đề con người (The Prophet);
2. Umwelt. Mối liên hệ giữa con người với vũ trụ nói chung và
thiên nhiên nói riêng (The Garden of the Prophet);
3. Gotteswelt. Mối liên hệ giữa con người với Thượng đế, hay
thần linh (The Earth Gods).
Trong The Garden of the Prophet mà chúng tôi hân hạnh được
chuyển ngữ cùng giới thiệu với bạn dưới đây, K. Gibran có lặp lại
một số chủ đề trong The Prophet. Tuy nhiên, ở đây, chúng được
trình bày có tính cách tâm truyền và tâm linh hơn, qua cách Ngôn sứ
Almustafa nói với chín đệ tử sống chung với ông tại Vườn của song
thân ông.
Bằng chiêm nghiệm và qua những phát biểu của một ngôn sứ hư cấu, K.
Gibran đặt cái nhìn về con người giữa cái nhìn về thiên nhiên. Nhiều
chỗ, đặc biệt cuối sách, ông đề cập tới sinh thái, xem thiên nhiên
không phải là nguồn tài nguyên mà là mẹ, là chị, là ngôi nhà cho con
người trần thế và là chốn trở về của con người tạ thế. Ông tâm linh
hóa động thái tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ môi sinh, chống đối thái
độ chuyên quyền của con người ngay cả đối với đất đá, sương khói,
v.v. Và ông phát biểu không với nhãn quan của một nhà khoa học nhưng
với ngôn từ của một nhà thơ tâm linh.
Từ lúc The Garden of the Prophet ra đời tới nay đã gần 80
năm, và K. Gibran không còn sống để thấy mối lo sợ của ông đang
thành hiện thực. Hẳn giờ này, ở đâu đó thần khí của ông cũng đang
xót xa vì thiên nhiên bị con người tàn phá tới cùng cực, đặc biệt
rừng rú, các dòng sông và không khí, v.v. Và thái độ vô đạo với
thiên nhiên như thế trở thành những hành động bất nhân với chính bản
thân, vì rõ ràng con người ngày nay hầu như không còn dám nghĩ tới
thiên nhiên như một tổ ấm cho mình và hậu duệ.
Toàn văn:
Vườn Ngôn sứ
Almustafa,
kẻ được chọn và là kẻ được yêu thương, người đang trong buổi trưa
giữa những ngày đời của mình, trở về hòn đảo nhỏ nơi chôn nhau cắt
rốn vào tháng Tichreen, cũng là tháng tưởng nhớ.
Khi con tàu tiến vào cảng, ông đứng trên mũi tàu cùng
các thủy thủ có mặt chung quanh. Và lòng ông rộn ràng cảm giác đã
thật sự trở lại mái nhà xưa.
Bằng giọng nói đượm mùi biển cả, ông cất tiếng rằng:
"Nhìn kìa, hòn đảo nhỏ chốn sinh thành của chúng ta.
Ngay cả ở đây, đất cũng kéo chúng ta nhấp nhô lên cao rồi xuống
thấp, như một bài ca và một niềm bí ẩn; bài ca cho trời cao và niềm
bí ẩn cho đất thấp; và cái gì ở giữa trời cao với đất thấp sẽ mang
đi bài ca và lời giải nếu không phải là đam mê của chúng ta?
"Đại dương thêm lần nữa mang chúng ta tới các bến bờ
này. Chúng ta chỉ vỏn vẹn là con sóng khác trong vô vàn con sóng của
mẹ biển. Bà sai phái chúng ta đi để phát thành tiếng lời nói của bà,
nhưng làm sao thực hiện được sứ vụ đó nếu chúng ta không đập cho vỡ
cặp đối xứng đá và cát trong lòng mình?
"Vì thủy thủ và đại dương có chung một qui luật rằng:
Nếu muốn tự do, ngươi nhất thiết phải biến thành sương mù. Phi hình
phi dạng là hình dạng đang mãi mãi tìm kiếm, y như vô số tinh vân sẽ
hóa thành những mặt trời và mặt trăng; chúng ta, những kẻ đã tìm
kiếm rất nhiều và giờ đây quay về đảo nhỏ, chúng ta là những chiếc
khuôn cứng nhắc, phải thêm lần nữa biến thành sương mù và học hỏi về
một bắt đầu. Và chỉ có cái bị đập vỡ thành đam mê và tự do mới sống
và vươn lên hết các chiều cao của nó.
"Có phải chúng ta sẽ mãi mãi trong cuộc truy tầm các bến
bờ để có thể hát lên và được nghe. Nhưng còn về con sóng vỗ vào nơi
không có tai nghe thì sao? Chính kẻ không được nghe ở bên trong
chúng ta đang nuôi dưỡng phiền muộn rất sâu xa của chúng ta. Thế
nhưng cũng chính kẻ không được nghe ấy đang tạc linh hồn chúng ta
thành hình dạng và làm nên định mệnh của chúng ta."
Lúc đó, một thủy thủy bước ra và nói:
"Thưa thầy, thầy là kẻ dẫn đầu niềm khao khát bến cảng
này của chúng tôi, và nhìn kìa, chúng ta đã tới. Thế nhưng thầy lại
nói tới phiền muộn và tới tâm hồn sẽ bị đập cho vỡ ra."
Ông trả lời người ấy rằng:
"Chẳng phải tôi đã nói tới tự do và tới sương mù vốn là
tự do lớn lao hơn của chúng ta sao? Thế nhưng, chính trong đau đớn
tôi làm cuộc hành hương tới đảo nhỏ nơi mình chào đời này, thậm chí
y hệt hồn ma của người bị giết tới quì xuống trước mặt những kẻ đã
giết mình."
Và một thủy thủ khác nói:
"Nhìn kìa, có vô số dân chúng trên mặt đê ngăn nước
biển. Họ đã được âm thầm báo trước giờ thầy đến; từ đồng ruộng cùng
vườn nho và trong tình trạng thiếu thốn tình thương, họ tụ tập về
đây ngóng đợi thầy."
Almustafa đăm đăm nhìn các đám đông đứng đằng xa, tâm tư
ông máy động với cơn khát khao của họ, và ông im lặng.
Thế rồi từ trong đám đông dân chúng vang lên tiếng thét,
một tiếng thét tưởng nhớ và khẩn nài.
Almustafa liền nhìn các thủy thủ và nói:
"Tôi mang tới cho họ cái gì đây? Tôi là kẻ đi săn nơi
miền đất xa xăm. Với mục tiêu và sức mạnh của mình, tôi đã dùng hết
những mũi tên vàng họ trao mà không đem về điểm số chung cuộc nào.
Tôi đã không đi theo mũi tên. Có lẽ lúc này chúng đang phơi mình
trong nắng với những cánh chim của lũ đại bàng bị thương nhưng không
rơi xuống đất. Và có lẽ các đầu mũi tên bằng vàng ấy rơi vào tay
những kẻ cần tới để đổi lấy bánh và rượu.
"Tôi không biết chúng đã bay qua những đâu nhưng tôi
biết rõ một điều, rằng chúng đang vạch đường cong trên bầu trời.
"Dẫu vậy bàn tay của tình yêu vẫn ở trên tôi, và các
bạn, các thủy thủ của tôi, vẫn dong buồm thịï kiến của tôi và tôi sẽ
không bị điếc. Tôi sẽ kêu lên thật lớn khi bàn tay các mùa đặt lên
cổ họng tôi, và tôi sẽ hát lên những lời của mình khi các ngọn lửa
làm rực cháy đôi môi tôi."
Những lời nói ấy của ông khiến các thủy thủ cảm thấy
lòng rối rắm bất an. Và một người nói:
"Thưa thầy, xin hãy dạy cho hết thảy chúng tôi; có lẽ vì
máu của thầy đang chảy trong huyết quản của chúng tôi và hơi thở của
chúng tôi thấm đượm hương thơm của thầy nên chúng tôi sẽ hiểu."
Với tiếng gió trong giọng nói của mình khi đáp lại họ,
ông nói:
"Có phải các bạn mang tôi tới đảo nhỏ sinh thành này để
làm một tôn sư? Tôi chưa bị minh triết giam hãm trong lồng. Tôi cũng
quá trẻ trung và quá thơ ngây để nói tới điều gì khác ngoài bản ngã,
cái mãi mãi là một chiều sâu đang kêu gọi một chiều sâu.
"Hãy để kẻ muốn có minh triết tìm kiếm nó trong cây mao
lương hoa vàng hay một nhúm đất sét đỏ. Tôi vẫn là người ca hát. Tôi
sẽ hát bài ca trần thế và tôi sẽ hát những giấc mộng lạc loài của
các bạn, đang đi suốt ngày giữa giấc ngủ này tới giấc ngủ kia. Nhưng
tôi sẽ vẫn để mắt đăm đăm nhìn biển cả."
Và giờ đây con tàu đã vào cảng, tới con đê ngăn nước
biển. Như vậy, Almustafa đã tới đảo nhỏ nơi ông chào đời, và thêm
lần nữa đứng giữa dân chúng của mình. Từ trái tim họ vang lên tiếng
kêu thật lớn khiến cho nỗi quạnh hiu của chuyến qui cố hương rúng
động bên trong ông.
Họ im lặng ngóng đợi lời ông nhưng ông không đáp ứng vì
lòng trỉu nặng ký ức u buồn. Ông thầm nói trong lòng:
"Có phải mình đã nói rằng mình sẽ hát? Không phải, mình
chỉ có thể hé môi cho tiếng nói của cuộc đời có khả năng dấy lên và
thoát ra theo gió để hân hoan và hỗ trợ."
Kế đó Karima, người nữ từng nô đùa với ông lúc thơ ấu
trong Vườn của mẹ ông, cất tiếng nói:
"Mười hai năm khuôn mặt của thầy đã xa khuất đôi mắt
chúng tôi, và suốt mười hai năm ấy, chúng tôi khao khát tiếng nói
của thầy."
Rất đổi dịu dàng ông nhìn người nữ ấy vì chính Karima là
kẻ đã vuốt mắt cho mẹ ông khi đôi cánh của thần chết cuốn lấy bà.
Ông đáp lại rằng:
"Mười hai năm ư, hỡi Karima? Vì không đo lường khát vọng
của mình với cây sào đầy ngấn sao nên tôi không nghe ra chiều sâu
của nó. Vì khi tình yêu là nỗi nhớ quê nhà, nó làm cạn kiệt những đo
lường thời gian và những tiếng gõ của thời gian.
"Có những khoảnh khắc chứa đựng hàng niên kỷ cách biệt.
Tuy xa cách chẳng là gì cả, chỉ là sự kiệt quệ tâm trí. Có lẽ chúng
ta chưa từng chia tay."
Và Almustafa ngắm nhìn dân chúng, ông thấy hết mọi
người. Người tuổi trẻ và người cao niên, người to lớn và người nhỏ
bé, kẻ hồng hào với nắng gió chạm vào, và kẻ vẻ mặt xanh xao. Trên
mặt họ đều lấp lánh ánh sáng của khát khao và tra vấn.
Một người cất tiếng nói:
"Thưa thầy, cuộc đời đối xử đắng cay với những hy vọng
và những khát vọng của chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi phiền muộn rối
ren và chúng tôi không hiểu nổi. Tôi khẩn nguyện thầy, xin hãy an ủi
chúng tôi, mở ra cho chúng tôi thấy ý nghĩa các khổ sở của mình."
Và trái tim xúc động với lòng từ bi, ông nói:
"Cuộc đời thì cao niên hơn mọi cái đang sống; y như cái
đẹp được chắp cánh trước khi vẻ đẹp ra đời trên trần thế, và y như
chân lý trước khi nó được nói thành lời.
"Cuộc đời ca hát trong lớp lớp thinh lặng của chúng ta
và mộng mơ khi chúng ta say ngủ. Thậm chí khi chúng ta bị bầm dập tả
tơi sa xuống thấp, Cuộc đời vẫn được tấn phong lên ngai cao vời vợi.
Và khi chúng ta sụt sùi, Cuộc đời vẫn mỉm cười suốt ngày, và nó vẫn
tự do cả những khi chúng ta kéo lê xiềng xích.
"Chúng ta rất thường gọi Cuộc đời bằng các tên gọi đắng
cay nhưng chỉ những khi chúng ta lâm cảnh đắng cay và đen tối. Chúng
ta cho rằng Cuộc đời trống rỗng và vô vị nhưng chỉ những khi linh
hồn lang thang chốn quạnh quẽ và tâm hồn say sưa sự lưu tâm quá đáng
tới bản ngã của mình.
"Cuộc đời sâu thẳm, cao vời và xa xăm; và dù chỉ có thị
kiến mênh mông của các bạn mới có thể với tới bàn chân của nó nhưng
nó lại rất gần gủi; và dù chỉ có hơi thở của hơi thở các bạn với tới
trái tim nó, chiếc bóng của chiếc bóng các bạn lướt qua khuôn mặt
nó, và vọng âm của tiếng kêu yếu ớt nhất của các bạn trở thành mùa
xuân và mùa thu trên lồng ngực nó.
"Cuộc đời vừa được vén lộ vừa bị ẩn giấu, y như bản ngã
lớn lao của các bạn bị ẩn giấu và được vén lộ. Nhưng khi Cuộc đời
cất tiếng, hết thảy gió bốn phương đều biến thành lời, và khi nó cất
tiếng thêm lần nữa, trọn nụ cười trên môi các bạn và mọi giọt lệ
trong mắt các bạn đều biến thành lời. Khi Cuộc đời hát, người điếc
nghe ra và bị lôi cuốn; và khi Cuộc đời bước chân đi tới, người mù
nhìn thấy và thú vị háo hức đi theo nó trong thắc mắc kinh ngạc."
Và Almustafa ngừng nói, im lặng mênh mông bao phủ dân
chúng. Trong im lặng ấy có một bài ca vô thanh, và mọi người cảm
thấy khuây khỏa nỗi cô đơn cùng niềm đau khổ.
Và ông rời đám đông, cất chân đi thẳng theo con đường
mòn dẫn tới Vườn của mình, nơi từng là Vườn của song thân, ở đó cha
mẹ ông được đặt nằm an nghỉ với tổ tiên.
Nhiều người muốn đi theo ông vì thấy đây là chuyến trở
về mái nhà xưa và ông hoàn toàn quạnh quẽ vì ở đó không còn thân
nhân nào để bày tiệc nghênh đón theo đúng phong cách của dân tộc.
Nhưng thuyền trưởng khuyên họ rằng:
"Cứ để ông sầu khổ đi trên lối đi của mình. Vì bánh của
ông là bánh cô liêu và trong ly của ông là rượu tưởng nhớ mà ông sẽ
uống một mình."
Các thủy thủ cũng kềm bước chân mình vì trước đó, họ đã
hiểu việc ấy ngay khi thuyền trưởng bảo cho họ biết. Và tất cả dân
chúng đang tập họp trên đê ngăn nước biển đều kềm bước chân khát
khao của họ lại.
Chỉ có Karima đi theo ông, cách một quãng ngắn đằng sau,
lòng cảm thương cho nỗi cô quạnh cùng tầng tầng ký ức của ông. Rồi
không nói một lời, bà quay bước đi về nơi mình ở. Trong vườn nhà,
dưới gốc cây hạnh đào, bà bật khóc nức nở tuy chẳng biết tại sao
mình lại khóc.
Almustafa
đi tới và thấy Vườn của cha mẹ mình. Ông bước vào, khép cổng lại để
không ai có thể theo vào.
Kế đó, suốt bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, ông ở một
mình trong nhà và trong Vườn. Không người nào tới, thậm chí chẳng ai
lai vãng bên ngoài vì cổng đóng. Và hết thảy dân chúng đều biết rằng
ông muốn cô đơn.
Khi bốn mươi ngày cùng bốn mươi đêm ấy chấm dứt,
Almustafa mở cổng để người ta có thể đi vào.
Và có chín người đến ở với ông trong Vườn; ba thủy thủ
của con tàu ông; ba người từng là bạn bè cùng nô đùa với ông khi tất
cả còn thơ ấu. Và họ đều là đệ tử của ông.
Vào buổi sáng, các đệ tử ngồi chung quanh ông; trong đôi
mắt ông có những chốn xa xăm và những hồi tưởng. Và một đệ tử có tên
là Hafiz nói với ông:
"Thưa thầy, hãy kể cho chúng tôi về thành Orphalese và
về vùng đất ấy, nơi đã khiến cho thầy nấn ná tới mười hai năm."
Almustafa im lặng, đưa mắt nhìn tới các ngọn đồi cùng
thinh không mênh mông. và trong im lặng ấy, có một cuộc xung đột.
Kế đó ông nói:
"Hỡi các bạn và là người đồng hành của tôi, thương thay
cho một đất nước tràn đầy đức tin nhưng trống rỗng về tôn giáo.
"Thương thay cho một dân tộc mặc quần áo nó không dệt,
ăn chiếc bánh nó không gặt hái và uống loại rượu không chảy ra từ
máy ép rượu của chính nó.
"Thương thay cho một dân tộc tán dương kẻ dùng vũ lực là
anh hùng và cho rằng kẻ xâm chiếm đang lẫy lừng là hào phóng.
"Thương thay cho một dân tộc chỉ cất cao giọng nói khi
đi đưa đám ma, chỉ kiêu hãnh khi chiếc cổ của nó bị đặt giữa thanh
gươm và cái thớt.
"Thương thay cho một dân tộc mà chính khách của nó là
chồn cáo, triết gia của nó là kẻ diễn trò tung hứng và nghệ thuật
của nó là nghệ thuật chắp vá và mô phỏng.
"Thương thay cho một dân tộc nghênh đón kẻ cai trị mới
của nó với điệu kèn tiếng trống rồi tiễn đưa hắn với tiếng húyt sáo
chế giễu, chỉ để lại nghênh đón kẻ khác với tiếng trống điệu kèn.
"Thương thay cho một dân tộc mà các hiền giả của nó bị
điếc hết năm này qua năm khác và những người mạnh mẽ của nó chỉ đang
ở trong nôi.
"Thương thay cho một dân tộc bị chia thành từng mảnh,
mỗi mảnh xem mình là một quốc gia."
Kế đó, một người thưa:
"Hãy nói cho chúng tôi về cái ngay lúc này đang chuyển
động trong lòng thầy."
Almustafa nhìn kẻ đó chằm chặp, rồi với giọng ẩn chứa âm
thanh như một ngôi sao đang hát, ông nói:
"Trong giấc mộng tỉnh táo của các bạn, khi các bạn bị
làm cho nín lặng và đang lắng nghe bản ngã rất sâu xa, thì các ý
nghĩ của mình, giống như những bông tuyết, rơi giập giờn và phủ lên
mọi âm thanh của không gian với một sự thinh lặng trắng xóa.
"Và giấc mộng tỉnh táo là gì nếu không là mây nảy lộc và
ra hoa trên cây cao ngất trời trong lòng các bạn? Và ý nghĩ của các
bạn là gì nếu không phải là những cánh hoa được gió của tâm hồn các
bạn tung vãi lên các ngọn đồi và các cánh đồng của nó?
"Và y như các bạn chờ đợi sự bình an cho tới khi cái phi
hình phi dạng trong các bạn làm thành hình dạng, mây cũng sẽ tụ lại
và lơ lửng như thế cho tới khi các Ngón tay Đầy Ân phúc tạo hình
những khát vọng mờ xám của nó thành những mặt trời, những mặt trăng,
và những ngôi sao pha lê."
Kế đó, Sarkis, kẻ nửa tin nửa ngờ thưa rằng:
"Nhưng rồi mùa xuân sẽ đến, hết thảy tuyết của giấc mộng
và ý nghĩ của chúng ta sẽ tan, chẳng còn gì tồn tại."
Và ông đáp lại rằng:
"Khi mùa xuân đến tìm Người yêu dấu của nó giữa các lùm
cây và các vườn nho đang ngủ say, quả thật tuyết sẽ tan và sẽ chảy
thành những con nước để tìm dòng sông trong thung lũng, làm kẻ châm
đầy ly cho cây hoa mia và cây nguyệt quế.
"Tuyết trong lòng các bạn cũng sẽ tan như thế khi mùa
xuân đến, và bí mật của các bạn cũng sẽ chảy thành những con nước để
tìm dòng sông cuộc đời trong thung lũng, và dòng sông ấy sẽ cuốn lấy
bí mật của các bạn, mang ra biển.
"Khi mùa xuân đến, mọi vật sẽ tan chảy và biến thành
khúc ca. Thậm chí các ngôi sao, các bông tuyết thênh thang đang rơi
chầm chậm trên những cánh đồng bao la cũng sẽ tan chảy thành những
con nước hát ca. Khi mặt trời của dung nhan Ngài mọc lên trên chân
trời bát ngát, lúc đó cặp đối xứng đang đông lạnh nào sẽ biến thành
giai điệu du dương? Và ai trong các bạn chẳng muốn mình là kẻ châm
nước đầy ly cho cây hoa mia và cây nguyệt quế?
"Chỉ mới hôm qua các bạn còn xê dịch với biển khơi
chuyển động, không bờ bến cũng như không bản ngã. Thế rồi gió, hơi
thở của Cuộc đời, dệt cho các bạn chiếc mạng làm bằng ánh sáng trên
khuôn mặt Cuộc đời; rồi bàn tay Cuộc đời gom các bạn lại và cho các
bạn hình dạng, và với chiếc đầu được nâng lên, các bạn tìm kiếm
những đỉnh cao. Nhưng biển đi theo các bạn, và bài ca của biển vẫn ở
bên trong các bạn. Dù các bạn đã quên quan hệ phụ mẫu với biển, biển
sẽ mãi mãi xác định tình mẹ con và sẽ mãi mãi gọi các bạn tới với
nó.
"Nếu đi lang thang giữa núi non hay sa mạc, các bạn sẽ
luôn luôn nhớ tới chiều sâu của tâm hồn biển dịu mát. Và dù các bạn
thường không biết mình khao khát cái gì nhưng thật ra cái đó là sự
yên lành mênh mông và đầy nhạc điệu của biển.
"Và làm sao có thể khác? Trong bụi lùm và trong nhà nghỉ
mát nơi khu rừng nhỏ, khi mưa nhảy múa trên lá cây giữa ngọn đồi và
khi tuyết rơi, đó là ân phúc và giao ước. Trong thung lũng, khi các
bạn dẫn đàn súc vật ra dòng sông, trong cánh đồng nơi các con nước
như những dòng suối lấp lánh bạc, cùng nhau kết hiệp với y trang
xanh thẳm; trong các khu vườn khi những hạt sương sớm mai soi bóng
các tầng trời; trong đồng cỏ khi khi sương chiều như chiếc mạng che
mơ hồ lối đi; trong tất cả những cái đó, biển ở với các bạn, làm
chứng cho di sản các bạn kế thừa và đòi tình yêu của các bạn.
"Chính bông tuyết trong các bạn đang chạy xuống biển."
Vào
một buổi sáng, khi họ đi dạo trong Vườn, xuất hiện trước cổng một
phụ nữ và đó là Karima, kẻ thời thơ ấu được Almustafa thương yêu như
một người em gái. Bà đứng lặng yên, chẳng hỏi han cũng chẳng đưa tay
lên gõ cổng, chỉ nhìn vào Vườn với anh mắt đăm đăm, khát khao và
buồn bã.
Thấy khát vọng trên mi mắt bà, Almustafa bước lẹ làng
tới vòng tường hai bên cổng và mở ra cho bà. Karima đi vào và được
mọi người nghênh đón.
Rồi bà cất tiếng nói rằng:
"Lý do nào khiến thầy tự ý rút lui hoàn toàn làm cho tất
cả chúng tôi không thể sống trong ánh sáng của khuôn mặt thầy? Vì,
nhìn kìa, đã nhiều năm nay chúng tôi yêu thương thầy và trông ngóng
thầy bình yên quay về. Giờ đây, dân chúng kêu lên đòi hỏi tiếng nói
của thầy và muốn được nghe thầy thuyết giảng. Em là sứ giả của họ,
tới đây cầu khẩn thầy phô mình ra cho dân chúng và nói với họ những
lời xuất từ sự khôn ngoan của thầy, để làm khuây khỏa kẻ con tim rạn
vỡ và kẻ khờ dại."
Ngước mắt nhìn vào khuôn mặt bà, ông nói:
"Cô em ạ, đừng gọi tôi là kẻ khôn ngoan nếu cô không gọi
hết thảy mọi người là kẻ khôn ngoan. Tôi là quả xanh còn bám lấy
cành, và mới hôm qua, tôi chỉ là nụ hoa.
"Và đừng gọi ai ở giữa các bạn là kẻ khờ dại vì thật ra
chúng ta không phải kẻ khôn ngoan cũng chẳng phải kẻ khờ dại. Chúng
ta đều là những chiếc lá xanh trên cây đời, và cuộc đời tự nó ở quá
bên kia khôn ngoan hoặc minh triết, và chắc chắn nó ở quá bên kia sự
khờ dại.
"Phải chăng tôi thật sự rút lui khỏi các bạn? Phải chăng
cô không biết rằng chẳng có khoảng cách nào ngoại trừ cái mà linh
hồn không băng qua bằng tưởng tượng? Và khi linh hồn băng qua khoảng
cách đó, nó biến thành một điệu nhạc trong linh hồn.
"Không gian nằm giữa các bạn và người bên cạnh các bạn,
kẻ tuy rất gần nhưng không thân thiện, thật ra rộng lớn hơn không
gian giữa các bạn và người yêu dấu của mình đang ở bên kia bảy miền
đất và bảy đại dương.
"Vì trong tưởng nhớ thì không có khoảng cách; chỉ trong
lãng quên mới có vực thẳm ngăn cách tới độ ngay cả tiếng nói lẫn ánh
mắt của các bạn cũng không thể rút ngắn.
"Giữa các bờ đại dương và đỉnh núi cao nhất có một con
đường bí mật các bạn nhất thiết phải đi qua trước khi trở nên một
với những đứa con của đất.
"Giữa nhận biết và hiểu biết của các bạn có một lối đi
bí mật các bạn nhất thiết phải khám phá trước khi nên một với loài
người, và vì thế nên một với bản thân.
"Giữa bàn tay phải để cho và bàn tay trái để nhận, có
một khoảng cách lớn lao. Chỉ bằng cách cho rằng cả hai bàn tay đều
vừa cho vừa nhận, các bạn mới có thể đem chúng vào cõi phi không
gian, vì chỉ khi hiểu ra rằng mình không có gì cho và cũng chẳng có
gì nhận, các bạn mới có thể khắc phục không gian.
"Quả thật khoảng cách mênh mông nhất nằm giữa thị kiến
khi ngủ và sự hoàn toàn tỉnh thức của các bạn, và giữa cái là hành
động và cái là khát vọng.
"Vẫn còn có một con đường khác nhất thiết các bạn phải
đi qua trước khi nên một với Cuộc đời. Nhưng lúc này tôi sẽ không
nói tới con đường đó, vì thấy ngang đây các bạn đã thấm mệt về việc
du hành."
Rồi
cùng với Karima, ông và chín đệ tử đi ra chợ. Ở đó, ông phát biểu
với dân chúng, các bằng hữu, những người láng giềng, và có nỗi hân
hoan trong lòng họ và trên mi mắt họ.
Và ông nói:
"Các bạn khôn lớn trong khi ngủ và sống cuộc đời đầy đủ
hơn trong khi mộng. Vì trọn ban ngày được dùng để cảm tạ về những gì
mình đã nhận trong thanh vắng ban đêm.
"Các bạn thường nói tới đêm như một thời cơ để nghỉ ngơi
nhưng thật ra đêm là thời cơ để tìm kiếm và khám phá.
"Ban ngày cho các bạn sức mạnh của nhận thức và dạy cho
các ngón tay trở nên thành thạo hơn trong nghệ thuật tiếp nhận;
nhưng chính ban đêm mới dẫn các bạn tới nhà kho tàng trữ châu báu
của Cuộc đời.
"Mặt trời dạy cho mọi vật gia tăng khát vọng ánh sáng
nhưng chính đêm mới nâng chúng lên tới các ngôi sao. Quả thật sự
tĩnh mịch của đêm dệt chiếc mạng tân hôn lên mọi cây cối trong rừng,
lên các đóa hoa trong vườn, và rồi bày ra bữa tiệc dư dật, dọn sẵn
phòng hoa chúc; và giữa thinh lặng thiêng liêng ấy, ngày mai được
thụ thai trong cung lòng của Thời gian.
"Đêm ở với các bạn như thế, và như thế, trong khi tìm
kiếm, các bạn thấy được thức ăn thức uống cùng sự no đầy. Dù tới lúc
trời rạng sáng, việc thức dậy của các bạn xóa sạch ký ức ấy nhưng
bàn ăn của các giấc mộng vẫn được bày ra mãi mãi và phòng hoa chúc
vẫn đang chờ đợi."
Ông
im lặng bước đi một quãng, và dân chúng đi theo, ngóng từng lời ông
nói. Rồi ông lại cất tiếng rằng:
"Các bạn là thần linh dù các bạn chuyển động trong thân
xác; giống như dầu được thắp trong tối đen, các bạn là ngọn lửa dù
bị giữ trong cây đèn.
"Nếu các bạn chỉ đơn thuần là thân xác thì việc tôi đang
đứng trước các bạn và đang nói với các bạn hoàn toàn là hư không, y
hệt kẻ chết đang gọi kẻ chết. Nhưng sự thật không phải như thế. Toàn
bộ cái bất tử bên trong các bạn được tự do suốt ngày suốt đêm, nó
không thể bị ở mãi một chỗ cũng không thể bị câu thúc, vì đó là ý
muốn của Đấng Tối cao. Các bạn là hơi thở của Ngài, giống như gió
không bị túm bắt hoặc giam nhốt vào lồng. Và tôi cũng là hơi thở của
hơi thở Ngài."
Nói xong, ông đi rất nhanh ra khỏi đám đông dân chúng,
và về lại Vườn của mình.
Sarkis, kẻ nửa tin nửa ngờ, thêm lần nữa lên tiếng nói:
"Thưa thầy, còn về sự xấu xa thì sao? Thầy không bao giờ
nói tới cái xấu xa."
Almustafa trả lời đệ tử ấy với ngọn roi trong giọng của
mình. Ông nói:
"Bạn của tôi ơi, kẻ nào sẽ gọi bạn là không hiếu khách
nếu hắn đi ngang nhà bạn nhưng chẳng muốn gõ cửa?
"Và kẻ nào cho là bạn điếc và không lưu tâm nếu hắn nói
với bạn bằng giọng lưỡi lạ lùng về điều mà bạn chẳng chút nào hiểu
biết?
"Phải chăng bạn không bao giờ cố sức để đi tới, để bước
vào tâm hồn của kẻ mà bạn chẳng bao giờ thèm vào vì cho rằng xấu xa?
"Nếu có cái xấu xa thì thật ra nó không là gì cả mà chỉ
là bàn cân trong đôi mắt bạn và sáp trét kín hai tai bạn.
"Bạn của tôi ơi, đừng gọi cái gì là xấu xa, ngoài trừ sự
sợ hãi của linh hồn khi có mặt các ký ức của chính nó."
Và
vào ngày nọ khi họ ngồi dưới những chiếc bóng trải dài của hàng cây
bạch dương, một người phát biểu rằng:
"Thưa thầy, tôi sợ hãi thời gian. Thời gian đi qua chúng
ta, cướp mất tuổi xuân nhưng bù lại, nó cho chúng ta cái gì?"
Ông trả lời rằng:
"Lúc này, hãy bốc một nắm đất. Các bạn có thấy trong đó
một hạt mầm, hay có thể một con sâu? Nếu bàn tay của các bạn đủ rộng
và đủ sức chịu đựng, hạt mầm ấy sẽ trở thành một khu rừng và con sâu
ấy trở thành một đàn thiên thần. Và đừng quên rằng năm tiếp liền năm
sẽ biến các hạt mầm thành các khu rừng và các con sâu thành các
thiên thần, tùy thuộc vào cái Lúc này, tất cả những năm âáy, chính
là cái Lúc này đây.
"Và các mùa quanh năm là gì nếu không là ý nghĩ của các
bạn đang biến đổi? Mùa xuân là sự thức dậy trong lồng ngực các bạn
và mùa hạ chỉ là sự công nhận thành quả của các bạn. Chẳng phải mùa
thu là người già trong lòng các bạn đang hát bài ru con cho cái vẫn
còn là đứa bé trong hữu thể các bạn? Và tôi hỏi các bạn mùa đông là
gì nếu chẳng là giấc ngủ dài với những giấc mộng về các mùa kia?"
Rồi
Mannus, một đệ tử có tính tò mò, nhìn chung quanh thấy có mấy cây
leo trong thời kỳ ra hoa đang bám vào cây sung. Và anh nói:
"Thưa thầy, thầy nhìn các cây ký sinh kia. Thầy nói ra
sao về chúng? Chúng là kẻ trộm với hai hàng mi mệt nhoài đang đánh
cắp ánh sáng của những đứa con vững mạnh của nắng để làm cho nhựa
tốt tươi chảy sang cành lá của chúng."
Ông trả lời anh rằng:
"Bạn ạ, chúng ta đều là kẻ ăn bám. Chúng ta, những kẻ
cần lao để biến lớp đất trên mặt địa cầu thành sự sống đang đập
nhịp, chúng ta không ở bên trên những kẻ trực tiếp nhận sự sống từ
lớp đất ấy mà không biết tới đất.
"Liệu người mẹ có sẽ nói với con mình rằng: 'Ta trả con
lại rừng sâu vốn là bà mẹ vĩ đại hơn của con vì con làm mệt nhoài cả
trái tim lẫn bàn tay của ta'?
"Hay liệu một ca sĩ có sẽ quở trách bài hát của chính
mình rằng: 'Ngay lúc này, hãy quay về cái hang của những âm vang nơi
ngươi từ đó mà đến vì tiếng của ngươi tiêu dùng hơi thở của ta'?
"Và liệu kẻ chăn bầy có sẽ nói với con vật vừa tròn năm
rằng: 'Ta không có đồng cỏ để có thể dẫn ngươi ra đó, vì thế ngươi
hãy chịu cắt cổ để trở thành lễ vật cho nguyên cớ ấy'?
"Không, bạn của tôi ơi, mọi sự ấy đều đã có câu trả lời,
cả trước khi chúng được đặt ra, giống như những giấc mộng của các
bạn đã được hoàn thành trước khi các bạn ngủ.
"Chúng ta sống dựa vào nhau theo một qui luật đã có từ
thời cổ sơ và phi thời gian. Chúng ta hãy cứ sống như thế trong tử
tế và yêu thương. Chúng ta tìm kiếm nhau trong nỗi cô đơn của mình
và chúng ta đi trên đường khi không có tổ ấm gia đình ngồi bên cạnh.
"Hỡi các bạn hữu và người anh em của tôi, con đường
thênh thang là bạn đồng hành của các bạn.
"Các cây này, đang sống dựa vào cây khác, rút sữa của
đất trong tĩnh mịch ban đêm, và đất trong trầm lặng đang mơ thấy
mình bú mút trên ngực của mặt trời.
"Và mặt trời, cũng y hệt bạn và tôi cùng mọi người có
mặt ở đây, ngồi trong danh dự đồng đều nơi bàn tiệc của Đấng Quân
vương có cửa dinh luôn luôn rộng mở và bàn tiệc luôn luôn bày biện
sẵn.
"Mannus bạn của tôi ạ, mọi cái hiện hữu đều dựa vào mọi
cái hiện hữu; và mọi cái hiện hữu đều sống trong đức tin vô bờ bến
vào sự hào phóng của Đấng Tối cao."
Và
vào một buổi sáng khi bầu trời còn nhá nhem với trời vừa rạng, họ
cùng nhau đi dạo trong Vườn, nhìn ngắm phương Đông và thinh lặng
trong sự hiện diện của mặt trời đang mọc.
Một lát sau, Almustafa đưa tay lên chỉ và nói:
"Hình ảnh của mặt trời sớm mai trong hạt sương thì không
ít hơn mặt trời. Phản ánh của cuộc đời trong linh hồn các bạn thì
không ít hơn cuộc đời.
"Hạt sương soi bóng ánh sáng vì nó luôn luôn làm một với
ánh sáng, và các bạn phản chiếu cuộc đời vì các bạn và cuộc đời là
một.
"Khi bóng tối ngự trên các bạn và nói: 'Bóng tối này là
bình minh chưa ra đời; và dù cơn đau lâm bồn của đêm đang phủ kín
tôi nhưng bình minh sẽ được sinh ra cho tôi cùng một lúc cho các
ngọn đồi.'
"Hạt sương làm tròn trịa tinh cầu của nó trong bóng tối
của hoa huệ chẳng phải không giống với bản thân các bạn đang gom tụ
linh hồn mình trong lòng Thượng đế.
"Liệu hạt sương có sẽ nói: 'Nhưng tôi là hạt sương ngàn
năm mới có một lần.' Các bạn hãy lên tiếng trả lời nó, 'Ngươi không
biết rằng ánh sáng của tất cả những năm ấy đang chiếu rực rỡ trong
hình tròn của ngươi sao?'"
Và
vào buổi tối nọ, một cơn bão lớn ghé qua chốn đó, Almustalfa và đệ
tử, cả chín người, vào nhà, cùng ngồi quanh lò sưỡi, yên lặng.
Rồi một trong các đệ tử nói:
"Thưa thầy, tôi cô đơn, vó ngựa thời gian gõ rất mạnh
trên lồng ngực tôi."
Alustalfa đứng lên và bước ra chính giữa họ. Ông nói với
giọng nghe như chất chứa một cơn gió rất lớn:
"Cô đơn! Thì đã sao? Các bạn đến trong cô đơn và các bạn
sẽ một mình tan loảng vào sương mù.
"Vì vậy hãy uống chén cô đơn của mình trong lặng lẽ.
Ngày mùa thu cho những đôi môi khác những chén khác và đong đầy
chúng với rượu đắng cay và ngọt ngào, y hệt chúng đang rót đầy chén
của các bạn.
"Hãy một mình uống chén cô đơn dù nó có mùi máu và nước
mắt của chính các bạn, và hãy ca ngợi cuộc đời vì tặng phẩm làm
nguôi cơn khát đó. Vì không có cơn khát ấy, tâm hồn của các bạn chỉ
là bờ của một biển cằn cỗi, không khúc hát và không ngọn sóng.
"Hãy nâng chén cô đơn lên quá đầu mình và hãy uống rất
sâu với lòng hân hoan.
"Lần nọ, tôi tìm tới một nhóm bạn, ngồi chung bàn tiệc
với họ và cùng uống với nhau tận tình. Nhưng rượu của họ không bốc
lên đầu tôi, cũng chẳng chảy vào ngực tôi. Nó chỉ xuống tới bàn chân
tôi. Minh triết của tôi bị để cho khô khan, trái tim tôi bị khoá
cứng và niêm kín. Chỉ có bàn chân tôi ở với họ trong sương mù dày
đặc.
"Và tôi không còn tìm tới nhóm bạn đó nữa, không uống
rượu với họ bên bàn tiệc của họ nữa.
"Bởi thế, tôi nói với các bạn rằng dù vó ngựa thời gian
gõ mạnh lên lồng ngực các bạn, thì đã sao? Các bạn nên uống chén khổ
đau một mình, và thật tốt khi cũng uống chén hân hoan một mình."
Và
vào ngày nọ, khi Pardrous, người Hi Lạp, đi dạo trong vườn. Chân anh
vấp phải một hòn đá và anh nổi giận. Và anh quay mình lại, lượm hòn
đá lên và nói lẩm bẩm:
"Ôi đồ chết tiệt trên lối đi của tôi!"
Rồi anh liệng hòn đá ra xa.
Và Almustapha, kẻ được chọn và được yêu thương, nói:
"Tai sao bạn nói: 'Ôi đồ chết tiệt'? Vậy có phải bạn đã
ở lâu trong Vườn này và không biết rằng tại đây chẳng có cái nào
chết cả? Mọi cái đều sống và nóng hôi hổi trong sự nhận biết của ban
ngày và trong sự đường bệ của ban đêm. Bạn và hòn đá là một. Chỉ có
sự khác biệt trong nhịp tim đập. Trái tim của bạn đập nhanh hơn một
chút, phải không bạn của tôi? Phải, nhưng nó không trầm tĩnh lắm.
"Nhịp điệu của đá có thể là một nhịp điệu khác, nhưng
tôi nói với bạn rằng nếu bạn nghe những chốn sâu thẳm của linh hồn
mình và đo các đỉnh cao của không gian, bạn sẽ nghe ra một cung điệu
duy nhất, và trong cung điệu đó, hòn đá và ngôi sao cùng hát, cái
này với cái kia, trong một bản đồng ca toàn hảo.
"Nếu những lời này của tôi không với tới sự thấu hiểu
của bạn thì hãy để cho một rạng sáng khác. Nếu bạn nguyền rủa hòn đá
này vì trong cơn quáng mắt của mình bạn vấp phải nó, thế thì bạn
cũng sẽ nguyền rủa ngôi sao như vậy nếu đầu bạn cụng phải nó trên
bầu trời. Nhưng ngày ấy sẽ đến khi bạn thu gom các hòn đá và các
ngôi sao như đứa bé nhặt hoa huệ trắng trong thung lũng, tới lúc đó
bạn sẽ biết rằng hết thảy những cái ấy ấy đều đang sống và đang toả
hương."
Và
vào một ngày đầu tiên của tuần lễ, khi tiếng chuông Đền thờ vang tới
tai họ, một người nói rằng:
"Thưa thầy, chung quanh đây chúng tôi nghe nói rất nhiều
tới Thượng đế. Thầy nói sao về Thượng đế, và thật sự Ngài là ai?"
Và Almustafa đứng trước các đệ tử như một cây trẻ trung,
chẳng sợ cuồng phong hay bão tố. Và ông trả lời họ rằng:
"Hỡi các bạn chung chí hướng và là người yêu thương của
tôi, lúc này các bạn hãy nghĩ tới một trái tim chứa đựng hết thảy
các trái tim của các bạn, một tình yêu bao hồm hết thảy các tình yêu
của các bạn, một linh hồn gói trọn hết thảy các linh hồn của các
bạn, một tiếng nói ôm đồm hết thảy các tiếng nói của các bạn, và một
im lặng sâu thẳm hơn hết thảy muôn trùng im lặng của các bạn, và phi
thời gian.
"Lúc này, hãy tìm cách nhận thức trong bản ngã toàn mãn
của các bạn một cái đẹp say đắm hơn mọi cái xinh đẹp, một bài ca
mênh mang hơn những bài ca của đại dương và rừng thẳm, một sự uy
nghi ngư trên ngai mà so ra, chòm sao Orion chỉ là chiếc ghế để
chân, và đang cầm trong tay một quyền trượng nạm đầy châu ngọc trong
đó Nhóm thất tinh Pleiades chỉ là tia sáng le lói của các hạt sương.
"Các bạn lúc nào cũng chỉ tìm kiếm thực phẩm và chỗ ở,
quần áo và gậy đi đường, lúc này hãy tìm kiếm Đấng không phải là mục
tiêu cho mũi tên của mình, cũng không phải là hang đá để che chắn
mình trước sức mạnh của thiên nhiên.
"Và nếu những lời này của tôi là tảng đá và bí hiểm, thế
thì hãy cứ vẫn tìm kiếm để cho trái tim của các bạn có thể bị phá vỡ
và các tra vấn của các bạn có thể mang các bạn tới tình yêu và sự
khôn ngoan của Đấng Tối cao mà con người gọi là Thượng đế."
Và họ im lặng, cả chín đệ tử, lúng túng bối rối trong
tâm hồn. Almustafa động lòng thương cảm họ, ông đăm đăm nhìn họ và
nói:
"Thay vì nói tới thần linh, chúng ta hãy nói tới người
láng giềng, tới anh chị em của các bạn, tới các hiện tượng thiên
nhiên chuyển động chung quanh nhà cửa và đồng ruộng của chúng ta.
"Trong tưởng tượng, các bạn muốn vươn lên tới mây, và
các bạn tưởng rằng nó cao ngất trời; các bạn muốn vượt qua biển cả
bao la và cho rằng nó xa xăm diệu vợi. Nhưng tôi nói với các bạn
rằng khi gieo hạt giống vào lòng đất, các bạn đã với tới đỉnh cao
nhất; và khi lên tiếng chào vẻ đẹp buổi sáng với người láng giềng,
các bạn đã băng qua một đại dương mênh mông.
"Các bạn rất thường hát về Thượng đế, Đấng Vô cùng,
nhưng thật ra các bạn không nghe bài ca ấy. Ước gì các bạn có thể
nghe bài ca của chim chóc và và nghe tiếng lá rời cành khi gió thổi
qua, và hỡi các bạn, đừng quên rằng lá chỉ hát khi chúng lìa cành!
"Thêm lần nữa tôi truyền lệnh cho các bạn chớ nói một
cách quá đổi tùy tiện về Thượng đế, đấng là Tất cả của các bạn, thay
vì thế, hãy nói và hiểu biết nhau như một người láng giềng với một
người láng giềng, như một thần linh với một thần linh.
"Vì cái gì sẽ cho lũ chim non trong tổ ăn nếu con chim
mẹ bay lên phía bầu trời? Và cỏ chân ngỗng nào trong cánh đồng sẽ
mọc tràn lan nếu không được cưới hỏi bởi một con ong bay đến từ cỏ
chân ngổng khác?
"Chỉ khi bị lạc loài trong bản ngã rất nhỏ nhoi của
mình, các bạn mới tìm kiếm bầu trời mà các bạn gọi là Thượng đế. Ước
gì các bạn có thể tìm được lối đi vào bản ngã của riêng mình; ước gì
các bạn có thể ít ở không và chỉ lo lát đường.
"Hỡi các thủy thủ của tôi và các bạn hữu của tôi, thật
rất khôn ngoan khi nói ít hơn về Thượng đế, đấng chúng ta không thể
thấu hiểu, mà nói nhiều hơn về nhau, kẻ chúng ta có thể thấu hiểu.
Tuy thế tôi muốn các bạn biết rằng chúng ta là hơi thở và là hương
thơm của Thượng đế. Chúng ta là Thượng đế, trong hoa và rất thường,
trong quả."
Và
vào một buổi sáng khi mặt trời ở trên cao, một trong các đệ tử, kẻ
trong ba người từng nô đùa với Almustafa lúc còn bé, tới bên ông và
nói:
"Thưa thầy, bộ quần áo này tôi mặc hoài mặc mãi và tôi
chẳng có bộ quần áo nào khác. Xin cho phép tôi rời chỗ này ra chợ và
mặc cả, để may ra có thể mua cho mình quần áo mới."
Ông nhìn chằm chặp người tuổi trẻ ấy và nói:
"Đưa quần áo của bạn cho tôi."
Người bạn làm như thế, và đứng trần truồng giữa trưa.
Và Almustafa nói với giọng y hệt một chiến mã đang phi
trên đường trường:
"Chỉ có người khoả thân sống trong nắng. Chỉ có người
chất phác cưỡi trên gió. Và kẻ nào một mình lạc lối một ngàn lần mới
có chuyến trở về nhà.
"Các thiên thần chán ngán kẻ khôn ngoan. Chỉ mới hôm
qua, một thiên thần nói với tôi rằng: 'Chúng ta tạo ra hỏa ngục cho
những kẻ chói sáng. Ngoài lửa ra, còn có cái gì mới có thể tẩy sạch
môät bề mặt đang tỏa sáng và làm một vật tan chảy tới cốt lỏi của
nó?'
"Và tôi nói: 'Nhưng khi tạo ra hỏa ngục, quí vị cũng tạo
ra quỉ sứ để cai quản hỏa ngục'. Nhưng các thiên thần trả lời rằng,
'Không đúng, hỏa ngục được cai quản bởi những kẻ không đầu hàng
lửa'.
"Khôn ngoan thay thiên thần! Y biết những cách thức của
con người và những cách thức của người nửa người. Y là một trong
những thiên thần bảo hộ, đến để làm kẻ chăm sóc các ngôn sứ khi họ
bị những người khôn ngoan cám dỗ. Và rõ ràng y mỉm cười khi các ngôn
sứ mỉm cười và khóc khi họ khóc.
"Hỡi các bạn và các thủy thủ của tôi, chỉ có người trần
truồng mới sống trong nắng. Chỉ có con thuyền không bánh lái mới có
thể dong buồm trong đại dương bao la. Chỉ có kẻ âm u với đêm tối mới
tỉnh dậy với bình minh, và chỉ có người ngủ với rễ của mình dưới
tuyết mới có thể với tới mùa xuân.
"Vì các bạn cũng giống như rễ cây. Và giống như rễ cây,
các bạn chất phác tuy các bạn có sự khôn ngoan xuất phát từ đất. Và
các bạn lặng lẽ tuy các bạn có bên trong mình những nhánh chưa đâm
chồi thành ca đoàn gió bốn phương.
"Các bạn mong manh và các bạn phi hình phi dạng tuy các
bạn là cái bắt đầu của những cây sồi vĩ đại và những cây dương liễu
lá như nửa ngọn bút chì nhưng chống đỡ được trời cao.
"Thêm lần nữa tôi nói rằng các bạn đơn thuần là rễ lưng
chừng giữa lòng đất tối đen và các tầng trời đang chuyển động. Và
tôi rất thường thấy các bạn vươn lên khiêu vũ với ánh sáng, nhưng
tôi cũng từng thấy các bạn rụt rè e lệ. Hết thảy các rễ đều rụt rè e
lệ. Chúng giấu trái tim mình rất lâu tới độ chúng chẳng biết làm gì
với nó.
"Nhưng tháng Năm sẽ tới, và tháng Năm như một trinh nữ
trằn trọc, nàng sẽ làm mẹ các ngọn đồi và các thảo nguyên."
Và
một đệ tử từng phục vụ trong Đền thờ, cầu xin ông:
"Thưa thầy, xin hãy dạy cho chúng tôi để lời của chúng
tôi được giống như lời của thầy, là bài kinh và hương trầm đối với
dân chúng."
Almustafa đáp lại rằng:
"Các bạn sẽ vươn lên quá bên trên lời của mình mà lối đi
của các bạn vẫn tồn tại, làm cung điệu và mùi hương; cung điệu cho
những kẻ đang yêu và cho mọi kẻ được yêu; mùi hương cho hết thảy
những ai sống cuộc sống trong vườn.
"Nhưng các bạn sẽ vươn lên quá bên trên lời của mình để
tới một đỉnh cao nơi bụi sao đang rơi, và các bạn sẽ xoè bàn tay ra
cho tới khi hứng đầy tay. Lúc đó các bạn sẽ nằm xuống ngủ tựa con
chim non trắng nỏn trong tổ chim trinh nguyên, và các bạn sẽ mộng
thấy ngày mai của mình cũng trăéng nỏn như hoa đổng thảo trinh
nguyên đang mộng thấy mùa xuân.
"Đúng thế, các bạn sẽ đi xuống sâu hơn lời của mình. Các
bạn sẽ tìm thấy đầu nguồn đã thất lạc của con nước, và các bạn sẽ
tìm thấy một hang động ẩn mật đang vọng lại tiếng gọi yếu ớt của vực
sâu mà ngay lúc này các bạn chẳng nghe ra.
"Đúng thế, các bạn sẽ đi sâu hơn lời của mình, sâu hơn
mọi âm thanh, xuống tới tâm điểm của lòng đất. Và tại đó, các bạn sẽ
ở một mình với Ngài, đấng cũng dạo bước trên sông Ngân."
Ông im lặng. Sau đó một chốc, một đệ tử lên tiếng hỏi ông:
"Thưa thầy, xin hãy nói về hiện hữu cho chúng tôi. Hiện
hữu là gì?"
Almustafa ngước nhìn người ấy thật lâu và yêu thương
anh. Rồi ông đứng dậy, cất bước đi cách họ một quãng xa. Kế đó ông
quay lại và nói:
"Trong Vườn này, nơi song thân tôi an nghỉ và được chôn
cất bởi bàn tay của người đang sống, trong Vườn này nằm vùi lấp các
hạt mầm của quá khứ gần đây, chúng được đôi cánh của gió mang tới
chốn này. Song thân tôi sẽ được chôn cất ở đây một ngàn lần, và một
ngàn lần gió sẽ vùi lấp các hạt mầm; và một ngàn năm kể từ nay các
bạn và tôi với những đóa hoa này sẽ cùng nhau đến Vườn này y hệt lúc
này, và chúng ta sẽ hiện hữu, trong yêu thương cuộc đời, và chúng ta
sẽ hiện hữu, trong mộng mơ không gian, và chúng ta sẽ hiện hữu,
trong vươn lên tới phía mặt trời.
"Nhưng hôm nay, hiện hữu là sống khôn ngoan, dù không là
người xa lạ đối với kẻ dại khờ; nó là sống mạnh mẽ nhưng không mạnh
mẽ đối với sự hư hỏng của kẻ yếu đuối; nô đùa với con cái còn thơ
dại nhưng không như người cha mà thay vì thế, như kẻ cùng chơi đang
muốn học hỏi trò chơi của chúng.
"Là giản dị và ngay thật với bậc cao niên, cả ông lão
lẫn bà lão, cùng ngồi với họ trong bóng râm của cây sồi cổ thụ dù
bạn vẫn đang đi với mùa xuân.
"Là tìm kiếm một thi sĩ dù y có thể đang sống cách bảy
con sông, và ở thanh thản trong sự có mặt của y, chẳng ước muốn gì,
chẳng ngờ vực gì và cũng không một câu hỏi trên môi.
"Là biết rằng thánh nhân và kẻ phạm tội đều là anh em
song sinh của một người cha, Vua Nhân từ của chúng ta, và biết rằng
kẻ này sinh ra trước kẻ kia chỉ một khoảnh khắc nên chúng ta xem hắn
là Hoàng tử được tấn phong.
"Là đi theo Cái đẹp cho dẫu nàng có dẫn các bạn tới bờ
vách dựng đứng, và dù nàng được chắp cánh còn các bạn chẳng có chiếc
cánh nào, và dù nàng sẽ vượt qua quá bên kia bờ vách dựng đứng ấy
cũng hãy đi theo nàng vì Cái đẹp không ở nơi nào và ở đó là hư
không.
"Là khu vườn không có tường rào, vườn nho không kẻ canh
giữ, nhà chứa kho báu luôn luôn mở cửa cho người đi qua.
"Là bị cướp bóc, bị phỉnh phờ, bị lừa đảo, đúng thế, bị
làm cho mê muội, bị mắc bẫy và rồi bị chế giễu. Tuy thế, đối với
những cái đó, các bạn hãy nhìn xuống từ chiều cao bản ngã rộng lớn
hơn của mình và hãy mỉm miệng cười trong khi biết rằng có một mùa
xuân đang tới khu vườn mình để khiêu vũ trong những chiếc lá của
mình, biết rằng có một mùa thu để làm chín các chùm nho của mình,
biết rằng nếu chỉ một cánh cửa sổ mở ra hướng Đông thôi thì lòng
mình sẽ không bao giờ trống trải, biết rằng hết thảy những người bị
cho là kẻ sai phạm, cướp bóc, phỉnh phờ, lừa đảo đều là người anh em
đang thiếu thốn của mình, và biết rằng mình có thể ngẫu nhiên là tất
cả những kẻ đó trong mắt của những cư dân được ân phúc đang ở Thành
đô Vô hình bên trên thành phố này.
"Và giờ đây đối với các bạn, kẻ cũng có bàn tay làm nên
và tìm thấy mọi vật cần thiết cho tiện nghi ngày ngày đêm đêm của
mình,
"Hiện hữu là làm người dệt vải với những ngón tay có
mắt, làm người thợ xây dựng lưu tâm tới ánh sáng và không gian, làm
người cày ruộng cảm thấy đang giấu kho báu bằng từng hạt mầm mình
gieo, làm người đánh cá và người đi săn có lòng xót thương con cá và
con thú, thế nhưng có lòng thương xót lớn lao hơn cho cái đói ăn và
cái thiếu thốn của con người.
"Và trên tất cả, tôi nói điều này; tôi muốn mỗi bạn và
hết thảy các bạn là những đối tác cho cứu cánh của mọi người vì chỉ
như thế các bạn mới hy vọng đạt được cứu cánh tốt của chính mình.
"Hỡi các bạn chung chí hướng và là người yêu thương của
tôi, hãy dũng cảm và đừng ngoan ngoãn, hãy rộng rãi và đừng bị giới
hạn; và cho tới giờ khắc sau cùng của các bạn và của tôi, hãy thật
sự là bản ngã lớn lao hơn của mình."
Ông ngừng nói. Một sự ảm đạm sâu lắng phủ lên trên cả
chín đệ tử. Trái tim của họ quay sang ngả khác, không chung một
hướng với ông vì họ không hiểu những lời ông vừa nói.
Và nhìn kìa, ba người từng là thủy thủ khao khát biển
cả; và những người từng phục vụ trong Đền thờ khao khát sự an ủi của
chốn linh địa; và những người từng là bạn nô đùa thời thơ ấu với
ông, khao khát chốn thị tứ. Tất cả đều điếc trước những lời của ông
khiến âm thanh của chúng quay về ông như đàn chim mệt nhoài không
nơi cư trú đang tìm chỗ lánh nạn.
Và Almustalfa bước đi, cách họ một quãng trong Vườn, ông
không nói với họ cũng chẳng nhìn tới họ. Họ bắt đầu biện bạch với
nhau và tìm cách bào chữa cho khát vọng đã biến mất của mình.
Và nhìn kìa, họ quay lưng, mỗi người đi về nhà riêng hay
chốn ở của mình khiến cho Almustafa, kẻ được chọn và là kẻ được yêu
thương, bị bỏ lại cô độc.
Và khi đêm tràn mọi lối, ông cất bước đi tới mộ phần của mẹ, ngồi
hồi lâu dưới cây tuyết tùng được trồng và lớn lên bên cạnh. Bỗng
dưng xuất hiện chiếc bóng của ánh sáng cao cả trên bầu trời, và Vườn
chói lọi như hạt châu xinh đẹp trên bộ ngực của đất.
Almustafa kêu lớn trong cô đơn của linh hồn, và ông nói:
"Linh hồn tôi chở nặng trỉu hoa trái chín mọng của nó.
Có ai muốn tới đây dùng cho thỏa lòng? Có ai đang chay tịnh và có ai
quảng đại tử tế trong tâm hồn đến và phá giới bằng những hoa lợi đầu
mùa của tôi trong nắng, và như thế, giải thoát tôi khỏi sức nặng của
dư dật này.
"Linh hồn tôi đang chảy tràn với rượu của các thời đại.
Không kẻ nào đang khát tới uống sao?
"Nhìn kìa, có một kẻ đứng giữa ngả tư đường đang chìa
bàn tay cho người qua kẻ lại, và trong bàn tay hắn chứa đầy châu
ngọc. Hắn kêu lên với người ta rằng: 'Hãy thương xót tôi, hãy lấy
đi. Nhân danh Thượng đế, xin hãy lấy khỏi bàn tay tôi cho lòng tôi
khuây khỏa.'
"Nhưng người qua kẻ lại chỉ đưa mắt ngó, chẳng ai lấy
châu ngọc trong lòng bàn tay hắn.
"Thay vì thế, ước gì hắn là kẻ hành khất chìa bàn tay ra
để nhận - đúng vậy, một bàn tay run rẩy và mang trống không về cho
lồng ngực hắn - còn hơn chìa ra bàn tay đầy tặng phẩm giàu có nhưng
chẳng tìm được người nào nhận.
"Và nhìn kìa, có một hoàng tử nhân từ dựng lên trong
hoang mạc chiếc lều bằng lụa và truyền lệnh tôi tớ đốt lửa làm dấu
hiệu cho kẻ xa lạ và kẻ lang thang. Ông còn sai nô lệ đi canh các
ngả đường để có thể tìm thấy và đem về một người khách. Nhưng mọi
lối đi và con đường trong hoang mạc đều vắng tanh và họ chẳng tìm
thấy ai.
"Thay vì thế, ước gì hoàng tử ấy là một kẻ chẳng biết đi
đâu về đâu, đang tìm kiếm thức ăn và chỗ trú. Ước gì ông là kẻ lang
thang trong tay chỉ có cây gậy và cái bình đất. Để lúc đêm xuôáng
ông sẽ họp mặt với người cùng cảnh ngộ và với các thi sĩ chẳng biết
đi đâu về đâu, cùng nhau chia sẻ tình cảnh khất thực, những tưởng
nhớ và những mộng mơ.
"Và nhìn kìa, cô con gái của một đức vua vĩ đại vừa ra
khỏi giấc ngủ, chỗi dậy và khoác lên mình y trang gấm vóc, châu báu
ngọc ngà, và cô rắc xạ hương lên mái tóc, nhúng đầu ngón tay vào
nước hổ phách. Rồi công chúa ấy đi xuống lâu đài, bước vào ngự viên
để sương đêm qua nhận ra đôi hài vàng dưới bàn chân cô.
"Trong thanh vắng trời đêm, cô con gái người thợ cày sau
khi dẫn cừu của cha ra cánh đồng và quay về nhà thân phụ lúc chiều
hôm với bụi của lối đi ngoằn ngoèo dưới bàn chân cùng hương các vườn
nho trong nếp gấp quần áo.
"Và khi đêm xuống cùng với các thiên thần có mặt trên
trần thế, cô sẽ len lén đi sang thung lũng bên sông nơi có người yêu
đang ngóng đợi.
"Ước gì cô là một nữ tu đang đốt trái tim làm trầm hương
để tâm hồn có thể vươn lên theo gió, và như cây nến, sau khi cạn
kiệt linh hồn, thành ánh sáng bốc lên tới sự sáng cao cả hơn, cùng
kết hiệp với hết thảy những kẻ đang thờ phụng và những kẻ đang yêu
với kẻ được yêu.
"Thay vì thế, ước gì cô là một phụ nữ già nua theo năm
tháng, đang ngồi trong nắng và tưởng nhớ tới người từng chia sẻ tuổi
xuân với mình."
Và đêm mỗi lúc một sâu thêm, Almustafa cũng tối đen với
đêm; linh hồn ông như mây không tan. Và ông lại kêu lên:
"Linh hồn tôi chở nặng trỉu hoa trái chín mọng của mình,
Linh hồn tôi chở nặng trỉu hoa trái của mình.
Ai giờ đây sẽ tới ăn để được no lòng?
Linh hồn tôi chảy tràn với rượu của mình,
Ai giờ đây sẽ rót uống và được dịu cơn nóng sa mạc?
"Ước gì tôi là cây không hoa cùng chẳng trái,
Vì cơn đau dư dật cay đắng hơn cằn cỗi,
Và ưu phiền của người giàu có của chẳng ai thèm lấy,
Lớn lao hơn sầu khổ của kẻ ăn mày xin chẳng ai cho.
"Ước gì tôi là giếng khô nứt nẻ người ta vứt đá xuống,
Vì như thế tốt lành dễ chịu hơn sinh làm nguồn nước sinh
động,
Khi người qua kẻ lại chẳng ai uống.
"Ước gì tôi là ống sáo dưới bàn chân dẫm đạp,
Vì như thế tốt hơn làm cây đàn sợi dây bằng bạc
Trong ngôi nhà chủ nhân không một ngón tay,
Và lũ con đều điếc."
Lúc này, suốt bảy ngày và bảy đêm, không người nào tới gần Vườn,
Almustafa hiu hắt với những hồi ức và niềm đau của mình. Ngay cả
những kẻ từng nghe ông nói với lòng yêu thương và sự nhẫn nại cũng
quay lưng trước những theo đuổi của thời đại khác.
Chỉ một mình Karima đến, trên khuôn mặt như phủ chiếc
mạng im lặng. Tay mang ly và đĩa, thức uống với thức ăn cho nỗi cô
đơn và cơn đói của ông. Sau khi đặt những thứ đó xuống trước mặt
ông, bà đi theo lối đi về nhà mình.
Almustafa lại đến với những bằng hữu của ông là hàng
bạch dương trồng bên trong cổng vườn, ngồi ngắm con đường. Sau một
lúc, ông trông thấy như có một đám mây bụi cuốn bên trên con đường
và tiến về phía ông. Rồi từ đám mây bụi ấy bước ra chín người, đi
đằng trước là Karima đang hướng dẫn họ.
Almustafa bước ra găp họ trên đường. Họ đi qua cổng, tất
cả đều an lành tươi tốt như thể họ vừa rời khỏi lối đi này một tiếng
đồng hồ trước đây.
Họ vào nhà để dùng bữa tối với ông nơi bàn ăn đạm bạc.
Sau khi Karima đặt lên bàn bánh mì, cá và rót chai rượu cuối cùng
vào ly. Bà vừa rót vừa xin với Tôn sư rằng:
"Xin phép cho em được rời nơi đây, ra phố để tìm rượu
đem về rót đầy ly của quí vị, vì rượu hết rồi."
Ông ngước mắt nhìn bà, và trong đôi mắt ấy có một chuyến
hành trình và một xứ sở xa xăm. Ông nói:
"Không, vì rượu đã đủ cho giờ này."
Và họ ăn với uống và được thỏa lòng. Khi bữa ăn kết
thúc, Almustafa nói với giọng mênh mông, sâu như biển, đầy như con
nước triều dâng cao dưới ánh trăng, và ông bảo:
"Hỡi các bạn chung chí hướng và người đồng hành của tôi,
hôm nay chúng ta nhất thiết phải chia tay. Từ lâu chúng ta đã leo
lên những ngọn núi dựng đứng nhất và chúng ta đã vật lộn với bão tố.
Chúng ta đã biết tới cơn đói nhưng cũng từng ngồi trong các tiệc
cưới. Chúng ta thường trần truồng nhưng cũng từng mặc y trang vương
giả. Chúng ta quả thật đã du hành rất xa nhưng giờ đây, chúng ta
chia tay. Các bạn sẽ cùng nhau đi trên lối đi của mình, và một mình
tôi phải đi theo con đường của tôi.
"Dù các đại dương mênh mông và các miền đất bao la sẽ
chia cách chúng ta nhưng chúng ta vẫn là những người cùng đi với
nhau trong cuộc lữ hành lên Núi Thánh.
"Nhưng trước khi chúng ta đi theo nẻo đường cam go của
riêng mình, tôi muốn trao cho các bạn thành quả vụ thu hoạch và
những thứ mót lượm được của lòng tôi.
"Hãy đi trên lối đi của mình, vừa đi vừa ca hát, nhưng
nên hát khúc ngắn vì chỉ những khúc hát chết yểu trên môi các bạn
mới sống mãi trong trái tim loài người.
" Hãy nói tới sự thật đẹp đẽ bằng những lời ít ỏi, nhưng
chớ dùng lời nào để nói tới sự thật xấu xí. Hãy bảo người thiếu nữ
có mái tóc lung linh trong nắng rằng nàng là con gái của ban mai.
Nhưng nếu bạn trông thấy người mù, đứng nói với kẻ đó rằng y làm một
với bóng đêm.
"Hãy lắng nghe người thổi sáo như lắng nghe tháng Tư,
nhưng nếu có nghe phát biểu của người hay chỉ trích và người ưa bươi
móc lỗi lầm, các bạn hãy điếc như xương cốt và xa xăm như tưởng
tượng của mình.
"Hỡi người chung chí hướng và người yêu thương của tôi,
trên lối đi của mình các bạn sẽ gặp kẻ lội bộ, hãy cho họ đôi cánh
của mình. Và kẻ sừng sỏ, hãy cho họ vòng nguyệt quế của mình. Và kẻ
có móng vuốt, hãy cho họ những cánh hoa thay cho các ngón tay. Và kẻ
miệng lưỡi châm chọc, hãy cho họ những lời mật ngọt.
"Đúng vậy, các bạn sẽ gặp hết thảy những kẻ đó và hơn
thế nữa. Các bạn sẽ gặp kẻ què đang bán nạng, kẻ mù đang bán gương
soi. Và các bạn sẽ gặp kẻ giàu có đang ăn xin nơi cổng Đền thờ.
"Đối với kẻ què, các bạn hãy cho sự nhanh nhẹn của mình,
đối với kẻ mù hãy cho thị kiến của mình, và hãy thấy rằng các bạn
đem bản thân mình cho kẻ hành khất giàu có; họ là kẻ thiếu thốn hơn
hết trong tất cả vì chắc chắn không kẻ nào muốn dang tay xin của bố
thí nếu hắn không thật sự nghèo dù đang có nhiều của cải.
"Hỡi những người chung chí hướng và bạn hữu của tôi, tôi
tích nạp các bạn bằng tình yêu của chúng ta để các bạn là vô số lối
đi băng từ bờ bên này sang bờ bên kia hoang mạc, nơi sư tử và thỏ
đi, luôn cả chó sói và cừu.
"Nhưng các bạn hãy nhớ của tôi điều này: Tôi dạy các bạn
không phải việc cho mà là việc nhận, không phải khước từ mà là làm
mãn nguyện, không phải nhượng bộ mà là thấu hiểu, với nụ cười trên
môi.
"Tôi dạy các bạn không phải im lặng, mà thay vào đó là
một bài hát không lớn tiếng.
"Tôi dạy các bạn bản ngã rộng lớn hơn của mình, cái chứa
đựng hết thảy mọi người."
Và ông đứng lên khỏi bàn ăn, bước thẳng ra Vườn và đi dạo dưới bóng
hàng cây bách khi ngày đã xế. Họ đi theo ông, cách một quãng ngắn,
vì tâm hồn của họ nặng trỉu và lưỡi của họ dính chặt vòm miệng.
Chỉ một mình Karima, sau khi thu dọn mảnh vụn trên bàn
ăn, tới với ông và nói:
"Thưa thầy, em muốn xin thầy cho phép em được chuẩn bị
thực phẩm cho ngày mai và cho chuyến đi của thầy."
Nhìn bà với đôi mắt từng trông thấy các thế giới khác
nhau, ông nói:
"Hỡi cô em gái và là người yêu thương của tôi, việc ấy
xong rồi, thậm chí từ lúc bắt đầu của thời gian. Thức ăn và thức
uống đã sẵn sàng, cho ngày mai. giống như cho hôm qua và hôm nay của
chúng ta.
"Tôi đi, nhưng nếu tôi đi với chân lý chưa được nói
thành lời, thì chính chân lý ấy sẽ tìm tôi và thu thập tôi thêm lần
nữa qua những thành tố của tôi bị tản mác khắp trùng trùng thinh
lặng của vĩnh cửu, và thêm lần nữa tôi sẽ đến trước mặt cô để có thể
nói với giọng nói được sinh ra một lần nữa từ tâm điểm của trùng
trùng thinh lặng vô tận.
"Và nếu có điều gì của cái đẹp mà tôi không công bố cho
các bạn, lúc đó tôi sẽ được gọi thêm lần nữa, đúng thế, thậm chí
bằng chính tên của tôi, Almustafa. Và tôi sẽ cho các bạn dấu hiệu để
các bạn có thể biết tôi đã trở lại ngõ hầu nói thành lời tất cả
những gì đang thiếu, vì Thượng đế sẽ không cho phép Bản thân Ngài bị
che giấu đối với loài người cũng như lời của Ngài bị nằm phủ kín
trong vực thẳm của lòng người.
"Tôi sẽ sống ở quá bên kia cái chết,
và tôi sẽ hát trong tai các bạn
cả sau khi sóng biển bao la mang tôi trở về
với vực sâu đáy biển mênh mông.
Tôi sẽ ngồi bên bàn ăn của các bạn
dù không với hình hài
Và tôi sẽ đi với các bạn ra đồng,
một linh hồn vô hình.
Tôi sẽ tới với các bạn bên lò sưỡi,
một người khách không thấy.
Cái chết chỉ làm đổi thay chiếc mặt nạ
che bộ mặt của chúng ta.
Người đốn củi sẽ vẫn là người đốn củi,
Người thợ cày là người thợ cày,
Và kẻ hát bài ca cho gió
cũng sẽ hát nó
cho các tinh cầu đang chuyển động."
Và các đệ tử ngồi yên như tảng đá, họ sầu khổ trong lòng
vì ông đã nói: "Tôi đi." Nhưng không người nào đưa tay ra giữ Tôn sư
lại, cũng không ai đi theo sau các bước chân ông.
Và Almustafa đi ra khỏi Vườn của mẹ mình. Bàn chân ông
bước lẹ làng, không gây nên âm thanh nào. Trong chốc lát, như chiếc
lá bị cuốn trong cơn gió mạnh, ông đi rất xa họ. Và có thể nói là họ
thấy một ánh sáng mờ nhạt chuyển động lên tới các chiều cao.
Và cả chín người bước ra, đi dọc theo con đường. Nhưng
người đàn bà vẫn đứng yên ở đó trong bóng đêm đang tụ về. Bà nhìn
ánh sáng và hoàng hôn nhập lại thành một theo cách của chúng. Và nỗi
phiền muộn cùng cô đơn của bà được khuây khỏa nhờ lời ông đã nói
rằng:
"Tôi đi, nhưng nếu tôi đi với chân lý chưa được nói
thành lời, thì chính chân lý ấy sẽ tìm kiếm tôi và thu thập tôi, và
tôi sẽ lại đến."
Và lúc này trời đã chiều hôm.
Và Almustafa đã đến vùng đồi. Bước chân ông dẫn ông tới
sương mù. Ông đứng giữa các tảng đá cùng hàng cây bạch dương che
khuất mọi sự, và cất tiếng nói rằng:
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
hơi thở trắng chưa bị kềm trong khuôn khổ,
Tôi trở về với chị,
làm một hơi thở trắng vô thanh,
một lời chưa được thốt ra.
"Ôi Sương mù,
người chị sương mù có cánh của tôi,
lúc này chúng ta ở cùng nhau,
và cùng nhau chúng ta sẽ ở
tới ngày thứ hai của cuộc đời,
bình minh của nó sẽ ở trên chị,
những hạt sương trong vườn,
và tôi, một hài nhi trên ngực một phụ nữ.
và chúng ta sẽ nhớ lại.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
tôi trở lại.
Một trái tim đang lắng nghe trong thẳm sâu của nó,
y như trái tim của chị.
Một khát vọng đập rộn ràng và không chủ đích,
y như khát vọng của chị.
Một ý nghĩ chưa tụ lại,
y như ý nghĩ của chị.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
con đầu lòng của mẹ tôi,
Hai bàn tay tôi còn giữ những hạt mầm non
chị đã bảo tôi tung vãi,
Và đôi môi tôi in dấu lên bài ca
chị đã bảo tôi hát.
Và tôi không mang tới chị hoa trái,
và tôi không mang tới chị những âm vang,
vì hai bàn tay tôi mù loà
và đôi môi tôi khô cứng.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
tôi đã yêu thương quá đổi thế giới này,
và thế giới này đã yêu thương tôi,
vì mọi nụ cười của tôi đã trên môi nó,
và mọi giọt lệ của nó đã trong mắt tôi.
tuy ở giữa chúng tôi có vực sâu im lìm,
nó không muốn rút ngắn,
tôi chẳng thể bước thêm.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
người chị Sương mù bất tử của tôi,
Tôi hát những bài ca cổ đại
cho lũ con nhỏ bé của mình,
Và chúng lắng nghe,
trên mặt chẳng chút thắc mắc;
Nhưng ngày mai
có lẽ chúng hoàn toàn không nhớ nữa
Và tôi không biết
gió sẽ mang bài ca ấy tới ai.
Và dù chẳng phải của tôi
tuy nó đã đến trái tim tôi,
và ở tạm trên đôi môi tôi.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
dù mọi sự này đến để đi qua,
lòng tôi thanh thản.
đủ để hát cho những kẻ
đã sinh ra trước trong đời.
Và dù việc ca hát thật chẳng phải của tôi,
Tuy là khát vọng sâu xa nhất của lòng tôi.
"Ôi Sương mù, chị của tôi,
người chị Sương mù của tôi,
lúc này tôi làm một với chị.
Tôi không còn là một bản ngã.
các bức tường đã sập,
và các xiềng xích đã gãy;
Tôi vươn lên tới chị,
làm một sương mù,
Và chúng ta cùng nhau
bồng bềnh trên biển
cho tới ngày thứ hai của cuộc đời,
khi bình minh sẽ ở trên chị,
những hạt sương trong vườn,
và tôi,
một hài nhi trên ngực một phụ nữ./.
|