Ngôi trường trong
ký ức
Năm 1961, từ
một làng quê bên cạnh sông Bồ, tôi rời trường trung học Tương Lai
vào Huế theo học trường Thiên Hựu. Thuở đó, khoảng cách hai chục cây
số là một con đường dài. Xe đò Huế-An Lỗ-Sịa hai giờ mới có một
chuyến, lết khục khặc với tốc độ chỉ nhanh gần gấp rưỡi xe đạp, mất
tới khoảng một tiếng đồng hồ. Xe chạy ngúc ngắc một quãng lại dừng,
thường ở Đốc Sơ, Hương Trà, Văn Xá, hay PK. 17 để đón khách. Lâu lâu
có một bà bán cá nục hấp nồi đất ngồi trong quán bên đường, tay
ngoắt xe, tay têm cho xong miếng trầu, chờ chú "ét" đưa quang gánh
lên mui, rồi mới cho trầu vào miệng nhai, đủng đỉnh bước ra xe về
Sịa.
Tôi ở nội trú hai lần, đời Linh mục Trần Hữu Tôn làm hiệu trưởng.
Lần thứ nhất năm Đệ tứ (1961-1962), sắp hết niên học thì bị đuổi vì
"đánh pạc-co" với một học sinh ngoại trú, ở góc cuối sân banh, gần
cửa sau đi sang Tiểu chủng viện Hoan Thiện đang xây. Năm đệ tam sang
ở nội trú trường Bình Linh. Tới năm Đệ nhị (1963-1964), được cha Tôn
xá tội, lại quay về nội trú Thiên Hựu. Câu chuyện cuộc đời 50 năm
trước trong ngôi trường cũ đó tưởng đã lắng nay đột nhiên sôi nổi
trở lại vì cơ duyên nhận được lời gọi viết cho đặc san Thiên Hựu.
Xin cám ơn đại huynh Trương Hữu Lượng với người bạn cùng thời Võ Văn
Lượng ở Montréal.
Năm đó, cảm giác đầu tiên của tôi khi tay xách chiếc valise nhôm,
mặc quần soóc, chân mang giày bata vải, đầu đội mũ cối đánh xi trắng
như vôi, đi theo mẹ vào trường Thiên Hựu là xúc động và lo sợ. Tâm
trạng của một thiếu niên ở nhà quê thì trạng mạo nhưng khi ra tỉnh
lại rụt rè, thấy cái gì cũng lạ, làm gì nói gì cũng sợ bị người ta
cười.
Xúc động vì ba tôi, tuy chỉ là một quân nhân hạ sĩ quan nhưng cố hết
sức cho con vào học nội trú mà phí tổn hàng tháng lúc ấy bằng tiền
lương của một công chức hạng thấp. Cha mẹ tôi là người chưa bao giờ
được cắp sách tới trường, thuộc loại tự học để biết đọc biết viết,
từ một thôn làng gần như vô danh cạnh chân cầu Quán Hàu, bên sông
Nhật Lệ, di cư vào nam năm 1954. Theo lời khuyên của cha sở Bồ Điền,
ông bà phó thác đứa con trai đầu lòng cho trường Thiên Hựu, chắt
chiu đóng tiền ăn học bằng một nửa tiền lương của mình.
Lo sợ vì vẻ đồ sộ của ngôi trường mới. Trường Tương Lai cũ của tôi
nằm bên đường quốc lộ 1, quẹo tay mặt là tỉnh lộ về Sịa. Trường vỏn
vẹn bốn phòng học với chiếc sân rộng, lưa thưa mấy cây soan mùa nắng
nở đầy hoa tím đưa hương dìu dịu, mùa lạnh trơ cành xương xẩu, ngó
thấy mà "sầu đông". Cũng như những dãy nhà đồng loại, nó được người
Việt mình gọi "trường học" vì là nơi có thầy có trò, còn ngoài ra,
không có một phương tiện giải trí, phòng thí nghiệm, thư viện hay
thể dục thể thao nào. Bây giờ, sang phương Tây, thấy trường học của
người ta, nhớ lại các trường trung tiểu học ở xứ mình mà vừa tủi vừa
thương.
Tuy thế, cơ ngơi của trường Thiên Hựu khác hẳn trường Tương Lai. Nó
là một quần thể gồm ba dãy nhà lầu, được bố trí nối liền nhau theo
hình chữ U, ở sân có nhà chơi như một hạt nhân. Dãy chính giữa tầng
dưới làm phòng étude nhỏ, văn phòng, vài phòng học, phòng giáo sư,
hội đường; tầng hai phòng riêng của các linh mục và nhà nguyện; tầng
ba làm phòng ngủ của học sinh nội trú, hai đầu là phòng nhỏ của hai
thầy đại chủng sinh về làm giám thị theo nhiệm kỳ giúp xứ. Dãy bên
phải hai tầng làm các lớp học chung cả ngoại trú lẫn nội trú, phòng
étude lớn, phòng chiếu phim Charlot quanh năm của nhà khoa học
Oxarango. Dãy bên trái tầng dưới làm phòng ăn nội trú, nhà bếp, tầng
trên làm phòng ăn các cha và phòng bệnh cho học sinh nội trú. Kế bên
dãy này là khu vực của các nữ tu Mến Thánh giá giúp việc nội trợ, y
tế của nhà trường. Trường có một sân bóng rổ, sân đá banh, và một
bàn ping pong đặt ở nhà chơi, về sau có "khoét vách" bán thức giải
khát cho học sinh vào giờ ra chơi.
Trước vẻ đồ sộ đó, lòng tôi thêm phập phồng khi nhập học với mấy
trăm bạn nội trú từ nhiều ngả đường đất nước tụ về. Sàigòn. Quảng
Trị. Nha Trang. Pleiku. Kontum, Đà Nẵng, v.v. mà cha mẹ thuộc các
thành phần xã hội có tiếng tăm, trí thức hay khá giả: bộ trưởng,
tỉnh trưởng, tướng tá, bác sĩ, luật sư, nha dược sĩ, thương gia,
v.v. Đối với một số bạn bên kia đèo Hải Vân và miền nam, phải nói
chuyện gần cả tháng trời mới nghe ra "hắn nói cái chi". Ngồi sát tôi
trong phòng étude lớn là thầy Nguyễn Văn Hoàng, người Quảng Trị, tục
gọi là Hoàng mệ vì hơi móm, về sau có lúc làm cha sở giáo xứ Đại
Phong ở Bãi Dâu. Lúc mới gặp các "công tử" và các "nhà tu hành" đó,
tôi rất ái ngại vì bản thân mình là một cậu bé nhà quê, xuất thân
quá khiêm tốn, lại quen sống nhảy sông tắm giếng, leo cây hái quả,
bẫy chim bắt dế, thả diều đánh căng tập võ nơi đồng ruộng.
Nhưng rồi cuộc đời cũng tự nó giải quyết. May nhờ lối sinh hoạt hội
đoàn thiếu nhi Công giáo từ lúc năm sáu tuổi khiến tôi quen sống tập
thể. Mới sáu giờ sáng đã thức dậy. Làm vệ sinh thật lẹ. Ai đi lễ thì
vào nhà nguyện. Ai không Công giáo xuống phòng học trước, được các
cha luân phiên ngồi đầu phòng làm giám thị. Tới bảy giờ rưỡi: ăn
sáng. Tám giờ: vào lớp học ba giờ, có 15 phút ra chơi. Cơm trưa. Ngủ
trưa 45 phút. Học bài trưa. Vào lớp học 2 giờ. Ăn bữa lỡ. Chơi thể
thao khoảng 1 giờ. Tắm. Học bài tối. Ăn tối. 9 giờ đi ngủ. Ai muốn
học bài nữa thì có thêm 1 giờ xuống phòng học. Bệnh thì khai báo rồi
ra mấy phòng bệnh nằm riêng, uống thuốc, ăn cháo với thịt bằm nhuyển
của các dì phước. Gouter bữa nào cũng chuối với bánh mì. Thức ăn
quanh năm chủ yếu thịt trâu, sữa bột, cá kho, trứng tráng, cơm hấp
hơi trong thau nhỏ, v.v. Mỗi mâm bốn người, bốn món ăn chơi; cậu nào
hay mút nĩa mà không nghe lời anh em thì được xin cha cho qua mâm
khác.
Thuở đó, chúng tôi may mắn chỉ học ở lớp một ngày năm giờ, chia làm
hai buổi. Nghỉ chiều thứ năm xem phim cha Oxarango chiếu, và thứ
bảy. Ngày chủ nhật xem lễ, học bài, ăn sáng xong, tới 9 giờ, ai
không bị phạt consigne thì được tự do ra ngoài đi chơi cho tới 12
giờ. Sau đó về ăn trưa, ngủ trưa, rồi "xếp hàng dọc đi du ngoạn",
thường là lên núi Ngự Bình "chơi" một chồng dĩa bánh bèo, húp nước
mắm ngon hơn ăn bánh. Hằng bữa, đầu phòng ăn có một linh mục vừa ăn
vừa trông coi. Đi ngủ cũng có linh mục, thường là cha Petijean, "đi
tuần" trước khi tắt đèn. Thỉnh thoảng cha kiểm tra xem có giường nào
nằm hai đứa không, hay có đứa nào dùng mền gối giả như làm hình nhân
đang ngủ, để trốn ra ngoài đi chơi không.
Năm học lớp Đệ nhị, tôi cũng có mấy lần ban đêm trốn ra ngoài đi
chơi. Lợi dụng giờ học bài thêm, rủ nhau len lén tới một cửa sổ nào
đó, vặn "trái xoài" mở cửa nhảy ra rồi đè chặt lại. Đi lòng vòng khu
vực Dòng Chúa Cứu thế hay An Cựu, hút thuốc, đánh bi-da, uống
cà-phê, chọc ghẹo tào lao, hay ghé quán chị Đầm trước mặt trường
ngồi tán dóc, khoảng một hai giờ. Khi quay về, kéo ngay cánh cửa sổ
đó ra, nhảy vào, vặn "trái xoài" lại. Có lần đang "đi hổng chân như
ma" lên cầu thang bị cha Nguyễn Phương bắt được, vặn muốn đứt tai,
mách cha Tôn, phạt consigne viết ba trăm lần "Tôi không trốn đi chơi
ban đêm nữa". Từ đó hết dám.
Cứ đến dịp lễ lớn, ngày tết hay tuần nghỉ lễ bắc cầu mới được về
thăm nhà. Trên nguyên tắc, tiền bạc cha mẹ phải gởi cha Hiệu trưởng
giữ. Chủ nhật, ra ngoài chơi phải xếp hàng, kiếm cách xin cha phát
cho một hai chục để đi ciné Tân Tân hay Châu Tinh, vé hạng nhì, uống
cà phê đá Lạc Sơn hay Thành Lập, ngồi "nghễ", và hút bốn điếu Ruby
ba đồng. Sách vở giấy bút cần mua thêm thì thưa với cha Tôn để văn
phòng đặt hàng nhà sách Ưng Hạ. Hàng về, bác Nhạc, trưởng văn phòng,
kêu lên phát cho.
Cuộc sống nội trú xa nhà riết rồi đâu vào đấy và ấm dần lên với tình
bè bạn cùng trang lứa. Ngày tháng đều đặn trôi, dần dà tập cho mình
thành nền nếp kỷ luật; việc ăn và học, chơi và ngủ, ngăn nắp điều độ
như trong trại lính. Từ chuyện tiêu pha tới giao tế cái gì cũng vào
khuôn phép và hòa nhã. Bạn bè tuy hay trêu chọc nhau nhưng gần như
không ai lừa gạt hay thô bạo với ai. Cứ thế ăn sâu vào tâm thức, tới
độ khoảng năm bảy năm sau ngày 30.4.1975, tại Sàigòn, tôi gặp lại
Vinh, một bạn thân nội trú cũ, con của một nha sĩ ở Gia Hội. Hắn
than vãn với tôi là rất oán trách các cha các thầy ở Thiên Hựu, nhất
là cha Tôn: các vị dạy dỗ hắn đàng hoàng quá khiến cho lúc này, hắn
không thể nào ra đứng chợ trời mánh mung để kiếm sống qua ngày!
Tôi chỉ biết mỉm cười khi nghe lời than trách đó vì bản thân lúc ấy
cũng "đứng chợ trời" suốt buổi luôn miệng hỏi người qua kẻ lại "có
gì bán không, có mua gì không". Tôi cũng chỉ tạm đủ sống qua ngày
nhờ "cần cù, có kỷ luật, cố gắng giữ lời hứa", nhưng không phất lên
được vì dù lỡ buột miệng "có nói không, không nói có" cũng cảm thấy
hổ thẹn, nổi da gà. Và như tôi vừa trình bày, ảnh hưởng thứ nhất mà
tôi tin rằng trường Thiên Hựu tạo ra trong rất đông học sinh, cả nội
trú lẫn ngoại trú của nó, là dù bạn có cố ý làm lem luốc tâm hồn
mình hoặc muốn để mặc bản thân trôi theo một khúc sông vẩn đục nào
đó của dòng đời cũng không là chuyện dễ dàng.
Tôi còn nhớ năm lớp Đệ tứ, học Việt văn với thầy Phạm Đình Bách. Bài
luận dù hay dù dở, hể xuống hàng mà đầu dòng không thụt vào đều đặn
hai ô là bị zéro ngay. Năm Đệ nhị, con của thầy là Vinh học chung
lớp với tôi rồi sau theo ngành bác sĩ. Thầy là một thi sĩ nổi tiếng
và là chiến sĩ Việt Quốc, tử nạn vụ Mậu Thân, nhưng hình ảnh đầu húi
cua và sự cẩn trọng ngay hàng thẳng lối trong chữ nghĩa cùng tác
phong khắc khổ của thầy vẫn sống mãi trong tôi. Bên cạnh đó, là cung
cách làm việc tận tụy theo lối nhà binh, chiếc áo chùng thâm bạc
từng vệt phấn của các cha Lefas, Duval, Petitjean, v.v. sau mỗi giờ
giảng dạy, như một tấm gương lao động hết mình.
Sống chung với các bạn đủ mọi tầng lớp xã hội và thuộc các tôn giáo
khác nhau dần dà tạo cho tôi thái độ không biết sợ hãi trước những
gì gọi là chức vụ, vị vọng hay giàu sang, cũng như không có tinh
thần phân biệt tín ngưỡng. Thiên Hựu, cũng như các trường Công giáo
khác, là cơ sở giáo dục tự trị, được tổ chức và điều hành theo tinh
thần Kitô giáo chứ không phải là cơ sở truyền giáo, vì thế không có
giờ dạy giáo lý và tạo được không khí thoải mái cho cuộc sống chung
của các học sinh lương giáo. Nhờ đa số học sinh không là người Công
giáo, cả ngoại trú lẫn nội trú, và nhờ các bạn từ nhiều miền đất
nước về sống chung dưới một mái trường nên tạo được tinh thần "hòa
hợp dân tộc và tôn giáo" cho chúng tôi trong tuổi thiếu niên.
Lối xử sự của các linh mục, nhất là của cha Tôn, không phân biệt học
sinh giàu nghèo, con quan chức hay con thường dân, gây cho chúng tôi
ấn tượng về sự bình đẳng xã hội. Tôi nhớ có lần bọn nội trú chúng
tôi quậy phá tập thể vào một sáng chủ nhật trên phòng ngủ: đua nhau
thả bi rồi đồng loạt thét lớn nhiều lần "Monsieur Vincent", làm các
cha ở tầng dưới điếc óc! Cha Tôn bắt bỏ phiếu kín, ghi tên ba đứa
"đầu đảng". Sau khi kiểm phiếu, có được tên ba kẻ trúng thăm nhiều
nhất, ngài kêu lên từng đứa, bắt nằm sấp xuống. Rồi quấn xong điếu
thuốc cẩm lệ, ngài vung roi mây quất sàn sạt xuống bắp chân mỗi đứa,
vừa đánh vừa hài ra địa vị của cha hắn: "Con bộ trưởng mà rứa hả,
con bác sĩ con ty trưởng cảnh sát mà ri hả, tau đập cho mà nhớ, tau
đập cho mà chừa, v.v."
Bên cạnh việc học thầy còn có học bạn. Như đã viết ở trên, ngồi kế
bên tôi năm Đệ tứ trong phòng étude lớn là thầy Hoàng, sau này đi
trọn đường tu, làm cha. Thân phụ của thầy lúc đó cũng là hạ sĩ quan
như ba tôi, nên chúng tôi rất thân nhau; tôi học hỏi được nơi thầy
rất nhiều. Ngồi sau lưng tôi là thầy Lanh, thích viết văn và hướng
dẫn tôi làm thơ, về sau xuất. Không hiểu sao lớp của các thầy đang
học chương trình Việt lại bị bắt sang học chương trình Pháp nên các
thầy phải cố gắng rất nhiều. Lớp này đá banh rất giỏi, làm nồng cốt
đội banh của trường, nhất là thầy Nhơn mà nghe nói sau này làm giám
mục. Còn các lớp chủng sinh khác như của thầy Huy, thầy Hiệu, (về
sau làm cha, có người làm giám mục), vẫn học chương trình Việt. Cùng
học một thời với tôi, tuy khác lớp là cha Nguyễn Văn Lý, và các linh
mục nhóm Nguyễn Kim Điền trong đó có cha Giản, con của bác Nhạc, chủ
lực của Khối 8406 sau này. Tôi tin rằng lối giáo dục của trường
Thiên Hựu cũng như tình trạng học chung chơi chung giữa người tu và
kẻ tục của chúng tôi suốt ngày đêm dưới một mái trường đã ảnh hưởng
ít nhiều lên các vị ấy.
Thiên Hựu còn để lại trong tôi những bài học căn bản về nghệ thuật.
Lớp hội họa của thầy Phi Hùng. Lớp âm nhạc của thầy Lê Quang Nhạc.
Hai vị đều là danh sư. Cũng tại đó, tôi viết nên những bài thơ bài
văn đầu tiên đầy mơ mộng cuộc đời hoặc nhớ thương vơ vẩn. Những ngày
giá rét như lạnh từ trong xuơng lạnh ra, những đêm trăng sáng vằng
vặc như trời buông lụa bạc khắp chung quanh. Mùa đông, ở trong phòng
ngủ rộng hay phòng học lớn của học sinh nội trú cho cảm giác buồn xa
vắng và nhớ mênh mông. Những bữa tối trời, ăn cơm xong đi dạo ở sân
banh, đom đóm bay đầy. Trời sắp vào hạ, lang thang trong sân trường
trong tai đầy tiếng ve ran mới thấy lòng nôn nao mong cho mau hết
năm học để được về với thôn làng, tắm sông dạo đồng, lang thang trên
đường quê với các bạn trai gái. Mỗi lần hè tới, cuốn lưu bút đầy
những lời trêu ghẹo, nhắc nhở kỷ niệm và hẹn hò chia tay thắm thiết:
Mi đi tau nhớ mi đi! Chỉ tiếc những trang giấy ấy đang nằm đâu đó
theo mấy chục năm can qua, tị nạn chiến tranh, lưu lạc giang hồ, tù
ngục rồi vượt biên. Thiên Hựu cũng dạy cho tôi những bước diễn tập
quân sự ắc-ê un deux trois quatre, dưới sự huớng dẫn rất nhà nghề
của linh mục cựu quân nhân Etcheren, để chuẩn bị cuộc diễn hành của
học sinh các trường theo thông lệ ngày quốc khánh 26.10 hằng năm tại
Phu Văn Lâu.
Tôi gọi là "nằm đâu đó" vì trong cuộc đời mình, chẳng có gì mất hút.
Mọi sự không hiện lên trong ý thức thì chúng nằm đâu đó trong cõi
tiềm thức. Và đêm nào đó bỗng dưng thảng thốt vì nó chợt tái hiện
trong giấc mơ. Hết năm Đệ nhị, thi đỗ Tú Tài I, gia cảnh thay đổi
khiến tôi phải sang học một trường bán công. Cũng chỉ ở đó được mấy
tháng, vì không chịu nổi cảnh xô bồ, tôi đành bỏ về nhà tự học để
thi Tú Tài II theo diện thí sinh tự do.
Cha Tôn mấy năm sau cũng rời trường, sang làm cha sở họ Phanxicô ở
gần đó. Bác Nhạc mà cuộc đời gắn bó với Thiên Hựu, cũng rời trường
dưới thời cha Nguyễn Tiến Huynh, trong sự buồn tiếc của nhiều người
vì bác là "bộ nhớ" của trường. Thời làm hiệu trưởng, cha Nguyễn Văn
Thành cũng đồng thời là tuyên úy cho Liên đoàn Sinh viên Công giáo
mà tôi làm chủ tịch. Rồi sau đó, cha rời cuộc sống tu trì, mới qua
đời cách đây vài năm ở Thụy Sĩ. Thầy Nam làm linh mục quản xứ Quán
Ngang Gio Linh. Thầy Hàm làm tuyên úy Tiểu khu Quảng Trị. Thầy Trọn
làm cha sở Quảng Biên ở mé ngoài Hố Nai. Trước 1974, nhờ làm cán bộ
của Phong trào Công lý & Hoà bình và Công giáo Tiến hành của Tòa
Tổng giám mục Huế, tôi thường có dịp gặp lại các “nhà tu hành” cũ
khi đi công tác giáo xứ.
Năm 1999, từ Canada về Huế, một trong những nơi tôi nhất định phải
"hành hương" là trường Thiên Hựu. Nhưng rồi khi đi ngang đường
Nguyễn Huệ, tôi không dám vào vì thấy trường xưa nay treo bảng Đại
học Khoa học. Đứng bên vệ đường, tôi ngậm ngùi tưởng tượng mình sẽ
trả lời ra sao nếu lúc này có đứa con trai độc nhất đứng bên cạnh,
yêu cầu dẫn vào thăm ngôi trường ba nội trú ngày xưa. Làm sao tôi có
thể dẫn con vào đó khi vận mệnh của ngôi trường cũ đã đổi thay theo
vận nước và chung chia số phận với những cha những thầy giảng dạy
cùng những học trò từng ngồi trong đó.
Quốc phá sơn hà tại nhưng cảnh cũ chỉ còn trong tâm tưởng, người cũ
không biết nay về đâu. Tôi chỉ còn lại trong mình bài học được từ
trường xưa, đó là không nên chủ quan dựa vào sức mình mà phải biết
trông cậy vào thánh ý quan phòng. Lồng trong bài học đó là hình ảnh
của ngôi trường khả kính, linh mục và giáo sư đầy ân nghĩa và bạn bè
chí tình mà tôi mang theo tâm thức để giữ tinh thần ung dung lạc
quan khi phải sống trong tình thế ngặt nghèo ở trong nước, và sau
đó, quặn mình đổi đời nơi hải ngoại.
Cũng may còn có một số hình ảnh của trường Thiên Hựu trên mạng
AnhK19.com. Còn ngôi trường Tương Lai Bồ Điền của tôi thì hoàn toàn
biến mất dù một trong các học sinh của nó về sau làm Bí thư Tỉnh ủy
Thừa Thiên. Trường đã bị san bằng, mặt bằng của trường bị người ta
cắt ra chia nhau; có lẽ vì đất ở địa điểm ấy được giá, nằm sát ngả
tư quốc lộ và tỉnh lộ.
Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, tôi tin rằng khoảng mươi lăm năm nữa, khi
cháu nội khôn lớn, tôi sẽ không còn chỉ vào lồng ngực mình mà nói
ngôi trường Thiên Hựu ông nội học ngày xưa nay đang nằm ở đây, chỗ
có trái tim ông. Với những gì hiện xảy ra trên thế giới và tại Việt
Nam, tôi chắc chắn đã tới lúc cái thiện chiếm ưu thế trên cái ác, vì
đó là qui luật của cuộc sáng thế ngày càng tốt đẹp hơn và lẽ tuần
hoàn vật cùng tắc biến. Và đang đi tới ngày tòa nhà có hình chữ U đó
trở về với cái tên La Providence Thiên Hựu thuở trước.
Có ai dám đoan chắc sẽ không thể nào có một ngày như thế? Tôi nói
đương nhiên có vì La Providence hay Thiên Hựu có nghĩa Trời lo,
Thánh ý quan phòng của Thượng đế. Là Kitô hữu và cựu học sinh Thiên
Hựu, tôi được gieo sâu trong lòng niềm tin vào thiên ý. Sẽ tới một
ngày tôi dẫn cháu nội vào ngôi trường cũ, bên đường Nguyễn Huệ, trên
đường lên An Lăng và qua An Cựu. Tôi sẽ chỉ cho cháu thấy những chỗ
ông nội nằm ngủ, ngồi học bài, làm thơ, diễn kịch, đá banh, chơi
bóng rổ bóng bàn, v.v. Và đây là nơi cha Tôn thường dựng xe
mobylette rồi đứng vấn thuốc cẩm lệ ngó quanh, cha Lefas vừa đi vừa
nói càm ràm với bộ râu đầy bụi phấn. Tôi sẽ dẫn cháu nội tới một cửa
sổ ở cuối dãy bên phải. Ở đó, tôi sẽ kéo cánh cửa có buộc sợi dây
thun xe đạp ra, và hai ông cháu cùng xem một cuốn phim Charlot do
cha Oxarango cài đặt sẵn từ hơn sáu chục năm trước./.
|