Giáng sinh để chịu đóng đinh
Lời
người dịch:
Hằng năm, ngày Giêsu ra đời (Noël) được xem là một lễ hội hầu như
trên khắp thế giới, có lẽ vì tính cách vui tươi, bình an, đại chúng
và thậm chí thương mại của nó. Thế nhưng, đại lễ quan trọng nhất của
Kitô giáo, mang tính căn nguyên và được giáo hội qui điển hóa hơn
300 năm trước lễ Giáng sinh ngày 25 tháng Mười hai, đó là lễ Phục
sinh (Easter hay Pâques). Đức tin Kitô giáo đặt cơ sở trên mầu
nhiệm Phục sinh. Lễ Phục sinh là cao điểm kết thúc tuần thương khó
(khổ nạn, passion) tuẩn tử cứu độ và sống lại vinh quang của Giêsu
mà theo thần học Kitô giáo, cũng là tiêu biểu cho diễn tiến đáng ao
ước của cuộc sống Kitô hữu. Nếu không có tín lý Phục sinh, toàn bộ
giáo thuyết Kitô giáo sụp đổ. Vì thế, lễ Phục sinh đầy lạc quan đó
được tái hiện hằng tuần ở một qui mô nhỏ hơn, vào ngày Chủ nhật.
Nhận thấy lễ Giáng sinh là dịp duy nhất trong năm khiến rất đông
người ngoài Kitô giáo (chiếm hơn 90% dân số Việt Nam) thấy hình ảnh
“Giêsu Hài đồng”, chúng tôi xin giới thiệu một tiểu phẩm của
Kahlil Gibran có nhan đề “Đóng đinh Thập giá (viết trong ngày Thứ
sáu Tuần thánh)” viết về “Giêsu Cứu thế”. Nhan đề bài này do
chúng tôi tự đặt, và giới thiệu nó như một đóng góp để có thể góp
phần đưa tới cái nhìn đồng cảm và tích cực hơn về Kitô giáo, đặc
biệt trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.
Hôm
nay, vào đúng ngày này mỗi năm, loài người bừng tỉnh khỏi giấc ngủ
say và đứng trước bóng ma của các Thời đại, nhìn với đôi mắt đẫm lệ
về Núi Sọ để chứng kiến Giêsu Nadareth bị đóng đinh trên Thập giá. .
. Nhưng khi ngày qua đi và tới chiều hôm, loài người lại quay về quì
gối cầu nguyện trước ngẫu tượng được dựng lên trên mọi gò đồi, mọi
đồng cỏ và mọi nơi đổi chác lấy miếng ăn.
Hôm
nay, các linh hồn Kitô hữu cưỡi lên đôi cánh ký ức bay tới
Jerusalem. Ở đó, họ sẽ đứng thành những đám đông, đấm ngực mình và
đau đáu ngó Ngài đầu đội vòng gai, dang hai tay trước trời cao và
nhìn từ đằng sau chiếc mạng của Cái chết vào những chốn thẳm sâu của
Sự sống.
Nhưng khi màn đêm buông xuống sân khấu ban ngày và vở kịch ngắn ngủi
ấy kết thúc, các Kitô hữu sẽ làm thành từng nhóm, trở về nhà rồi ngã
mình trong bóng tối lãng quên giữa những chăn màn của mông muội và
lười biếng.
Vào
ngày độc nhất này của mỗi năm, các triết gia rời hang động tối tăm,
các nhà tư tưởng rời căn buồng lạnh lẽo, và các thi sĩ rời lùm cây
tưởng tượng của mình; tất cả đến đứng cung kính trên núi đồi tịch
mịch đó, lắng nghe tiếng của một người trẻ tuổi nói về những kẻ giết
Ngài: "Cha ơi, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng
làm."
Nhưng sau khi thinh lặng của bóng tối làm lịm tắt tiếng nói của ánh
sáng, các triết gia, các nhà tư tưởng và các thi sĩ quay về kẽ nứt
chật hẹp và khâm liệm linh hồn mình bằng những trang giấy vô nghĩa.
Hôm
nay, những phụ nữ thường ngày bận tâm làm đẹp với Cuộc đời, sẽ xỏa
tóc đi gặp một người mẹ đau khổ đang đứng trước Thập giá, trông như
thể chiếc cây nhỏ nhoi mỏng mảnh trước bão giông cuồng nộ; và khi
tới gần bà, họ sẽ nghe tiếng nức nở rất thẳm sâu và tiếng than thở
rất tê tái.
Hôm
nay, những thanh niên và những thiếu nữ đang chạy đua với con nước
lũ văn minh hiện đại, sẽ tạm dừng chân ngoái mặt nhìn lui để thấy
Maria Magdala trẻ trung đang rửa bằng nước mắt các vết máu từ chân
của Đấng thiêng liêng bị treo giữa Trời và Đất, và khi ánh mắt hời
hợt của tuổi hoa niên thấm mệt với cảnh tượng đó, họ sẽ ra đi và
chẳng mấy chốc rộn lên tiếng cười ròn rã.
Vào
ngày này mỗi năm, Loài người thức dậy với cơn tỉnh giấc của mùa
xuân, tới đứng khóc lóc bên Người Nadareth đang chịu khổ hình, và
rồi Loài người sẽ khép cả hai mắt, đầu hàng giấc ngủ say. Nhưng mùa
xuân vẫn thức, đang mỉm cười tiến bước cho tới khi quyện vào mùa hạ
mang y trang vàng rực ngan ngát hương. Loài người là kẻ than khóc,
kẻ thưởng thức sự than khóc những hồi ức và những anh hùng của các
Thời đại.
. .
. Nếu loài người có sự hiểu biết, hẳn nó tận hưởng vinh quang của
mình. Loài người giống như đứa bé đứng với niềm vui sướng bên cạnh
con thú chấn thương. Loài người cười thành tiếng trước khi cơn nước
lũ ngày càng mãnh liệt mang vào quên lãng những cành khô và cuốn
trôi tất cả những gì không gắn bó với sự mạnh mẽ.
Loài người xem Giêsu Nadareth như một kẻ sinh trong nghèo khó, chịu
khốn khổ và bị sỉ nhục cùng với hết thảy những kẻ yếu. Và Ngài được
thương xót vì Loài người tin rằng Ngài bị đóng đinh đau đớn vô cùng.
. . Và tất cả những gì Loài người dâng lên cho Ngài là lời kêu khóc,
rên rĩ cùng than van. Suốt rất nhiều thế kỷ, Loài người đã thờ phụng
sự yếu đuối trong con người của Đấng Cứu thế.
Không, Người Nadareth ấy không yếu đuối! Ngài mạnh mẽ và là người
mạnh! Nhưng người đời không chịu để ý tới ý nghĩa thật sự của sức
mạnh ấy.
Giêsu không bao giờ sống cuộc sống sợ hãi. Ngài cũng không chết
trong khổ đau than van. . . Ngài sống như một thủ lãnh; Ngài bị đóng
đinh như một chiến sĩ đấu tranh. Ngài chết với phong thái anh hùng,
làm những kẻ giết Ngài và hành hạ Ngài phải run sợ.
Giêsu không là con chim với đôi cánh gãy. Ngài là cơn bão thịnh nộ
đánh gãy mọi đôi cánh cong. Ngài không sợ hãi kẻ ngược đãi mình lẫn
đối thủ của mình. Ngài không khổ sở trước những kẻ giết Ngài. Ngài
tự do, dũng cảm và dám đương đầu. Ngài thách thức hết thảy những kẻ
bạo ngược và những kẻ áp bức. Ngài nhìn thấy những mụn nhọt hay lây
và Ngài cắt bỏ chúng. . . Ngài làm câm lặng Cái ác, Ngài nghiền nát
Dối trá và Ngài làm tắc nghẽn Phản bội.
Giêsu không đến từ tâm điểm của vòng tròn Ánh sáng để phá hủy nhà
cửa và xây lên trên đó các nhà dòng hay tu viện. Ngài không thuyết
phục kẻ mạnh trở thành một tu sĩ hay một tư tế, Ngài đến để gởi tới
thế gian một tinh thần mới, với sức mạnh nghiền nát nền móng của bất
cứ đế chế nào xây dựng trên xương người và sọ người. Ngài đến để
triệt hạ những cung điện uy nghi được xây cất trên huyệt mộ của kẻ
yếu, và nghiền nát các ngẫu tượng được dựng lên trên thân xác của
người nghèo. Giêsu không được sai tới chốn này để dạy dân chúng xây
lên các thánh đường nguy nga và các đền thờ tráng lệ ở giữa những
túp lều lụp xụp lạnh lẽo và những nơi cư ngụ tối tăm ảm đạm . . .
Ngài đến để làm cho tâm hồn con người thành đền thờ, linh hồn thành
bàn thờ và tâm trí thành tư tế.
Đó
là các sứ mệnh của Giêsu Nadareth, và đó là những lời giảng dạy mà
vì chúng Ngài bị đóng đinh vào Thập giá. Và nếu Loài người khôn
ngoan, ngày hôm nay nó sẽ đứng và hát trong sức mạnh của bài ca
chinh phục và khúc ca khải hoàn ấy. . .
Hỡi
Giêsu bị đóng đinh, Đấng từ Núi Sọ đang xót xa nhìn cuộc diễu hành
buồn thảm của các Thời đại, đang nghe tiếng huyên náo của các quốc
gia tối tăm và đang thấu hiểu các giấc mơ của Vĩnh cửu. . . Trên
Thập giá, Ngài vinh quang và uy nghiêm hơn một ngàn hoàng đế ngồi
trên một ngàn ngai vàng trong một ngàn đế quốc. . .
Trong khổ hình của cái chết ấy, Ngài có quyền năng hơn một ngàn
tướng lãnh trong một ngàn cuộc chiến tranh. .
Với
xót xa của mình, Ngài vui sướng hơn mùa xuân và các đóa hoa của nó.
. .
Với
đau khổ của mình, Ngài thinh lặng dũng cảm hơn các thiên thần đang
khóc lóc trên trời. . .
Trước kẻ đánh đập mình, Ngài vững vàng hơn núi đá. . .
Vòng gai nhọn của Ngài sáng chói và siêu phàm hơn vương miện của
Bhram. . .
Những cây đinh xuyên qua bàn tay Ngài đẹp đẽ hơn quyền trượng của
Jupiter. . .
Những đốm máu rơi vãi trên bàn chân Ngài rực rỡ hơn chuỗi hạt trên
cổ Ishtar. . .
Xin
tha thứ cho những kẻ nhu nhược than khóc Ngài hôm nay vì họ không
biết khóc than cho chính họ. . .
Xin
tha thứ cho họ vì họ không biết rằng Ngài đã chinh phục sự chết và
tuôn sự sống xuống trên kẻ chết. . .
Xin
tha thứ cho họ vì họ không biết rằng sức mạnh của Ngài vẫn đang chờ
họ. . .
Xin
tha thứ cho họ vì họ không biết rằng mọi ngày đều là ngày của Ngài.
. .
|