.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)


bút
việt
hồn
quê

Bài vở cho trang này xin gửi về:
nhà văn PHONG THU
phongthu@mindspring.com

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Nguyễn Thị Thanh Dương Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Võ Thị Trúc Giang | Nguyễn Thế Hà | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Thạch Lang | Đại Lãn Lâm Kim Loan | Vũ Nam | Nguyên Nhung | Chân Y Nghiêm | Pháp Nhật Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Anh Thư | Diệu Trân | Tiểu Tử | Nguyễn Ước Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

  Nguyễn Ước

Đọc 'Ngậm thẻ qua sông' của Phù Hư

1

'Ngậm thẻ qua sông' do Hội Nhà văn xuất bản vào đầu năm 2013, ngoài phần thơ còn xen kẽ các phụ bản, gồm 4 ký họa của Trần Đạt, Nguyễn Tuấn, Bùi Ngọc Tư, tranh bìa cùng hai bức nữa của Nguyên Lý (Quỳnh Bích Châu), và hai bản phổ nhạc, một của Vũ Ngọc Giao, một của Châu Đăng Khoa.

Tập thơ mỏng, trang nhã. Mười chín bài, viết theo thể trường đoản cú (hai bài), lục bát (chín bài), bảy chữ cổ phong cách tân (bốn bài), tám chữ phá cách liên vận hay cách vận (bốn bài). Bài sớm nhất có ghi thời điểm sáng tác năm 1972; bài trễ nhất có thể là đoản thi in đầu tập 'Nghĩ về thơ', hẳn mới được viết gần đây. Như thế, tuy là tập thơ đầu tay, 'Ngậm thẻ qua sông' thật ra có hơn bốn chục tuổi đời.

 

2

Cảm tưởng đầu tiên, thơ Phù Hư mang phong vị cổ, 'mây ngâm úng nước chiều trời /chuông xô tháp nhọc nặng lời chia tay/ ở lâu nhà phố ngủ lầy/ nhạc phao tin ngựa rong đầy phố câm' (Ngưa ô vong). Hoặc 'ngàn năm biên ải giữ oan hồn/ lá rừng xô gió núi sông xương/chết phơi khí tiết vô danh sĩ/chết đắng cay ma núi ngậm hờn' (Quân bộ khúc, 1973). Thế nhưng trong hơi hướng cổ của những câu thơ vừa trích, cùng với những câu thơ khác suốt tập, chan chứa hình ảnh lạ và đắt, phong cách diễn đạt cá biệt, mang tính sáng tạo với nỗ lực tìm tòi cái mới và con đường riêng của một thi sĩ, dù lúc viết chúng ra, tuổi anh chỉ vừa qua ngưỡng hai mươi, 'mặt thâm hiểm quá răng trắng nhởn/biên giới xế chiều như cõi âm/cây che mù mịt vùng lãnh khí/có tiếng ai cười nghe xa xăm' (Quân bộ khúc), hoặc 'rượu vang đỏ máu chim mù/ai đem gan ruột trùng tu tiếng người/tiếng cô hồn khóc trời ơi/nến đêm nguyệt tận thắp đồi cỏ thiêng' (Cung tơ chiều).

 

3

Phù Hư lớn lên trong cuộc chiến vừa qua, và hẳn cũng từng khoác áo lính. Bốn bài thơ viết về đời lính 'Một chân giày', 'Quân bộ khúc', đặc biệt, 'Đồn sơn yễm'‘Ngậm thẻ qua sông', theo tôi, tạo cho Phù Hư giọng thơ rất riêng và chỗ đứng cũng rất riêng của một thi sĩ cầm súng. Trong thế kỷ vừa qua, bỏ sang một bên vô số 'thơ cổ động’ được lưu hành mỗi bên chiến tuyến hay mỗi miền đất nước, có lẽ đếm chưa đầy các ngón tay những thi phẩm đúng nghĩa, ghi sắc nét và đầy xúc cảm về thân phận cùng nỗi niềm của người lính Việt. Ngoài hình ảnh người lính thấp thoáng trong thơ Hữu Loan, Yên Thao, Nguyễn Duy, v.v. và khá đông thi sĩ Miền Nam, ta cách riêng có Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Bắc Sơn. Và nay có thêm Phù Hư với mấy bài thơ vừa được chính thức lưu hành. Khác với vẻ hào hùng lãng mạn trong thơ Quang Dũng, tưng bừng quyết chiến trong thơ Hoàng Cầm, đắng cay khinh bạc trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, người lính trong thơ Phù Hư cúi mặt cam đành; thân xác bị đẩy vào lửa đạn mà tâm tư xa lạ với trận mạc, hờ hững với nguyên cớ chiến đấu, không than oán cũng chẳng tự hào, cứ thế lầm lũi di hành, sẵn sàng cho phút giây định mệnh, nhưng với tâm thức sáng suốt và phẩm cách của một con người, ‘âm thầm đêm tối gào giữ giặc/nhanh đạn chuyền quanh chống tuyến đầu/gió núi rên oằn băng tiếng pháo/mây tan đường trái phá qua sâu/… rượu hết từ khuya vắng tiếng người/đêm lính trú buồn ham bếp lửa/nhìn nhau kể chuyện vẫn cười chơi/tay hơ than khói khô da thịt/thuốc đốt từng khoanh dấu mặt người'. (Đồn sơn yễm, 1972). Hoặc ‘buổi mới đến cau cao vừa nhú bẹ/em thẹn thùa tôi tưởng thuở bình yên/tôi đâu hay em có nỗi hờn riêng/trông chinh chiến gọi hồn chồng theo gió/một tháng tròn ngỡ như ngày thuở nhỏ/em là em mẹ là mẹ xưa’ (Ngậm thẻ qua sông, 1972)

 

4

Ở đây, tôi không dám bàn về độ cao nghệ thuật của thơ Phù Hư trong 'Ngậm thẻ qua sông' vì tôi nghĩ, giá trị của tác phẩm vốn nằm trong tự thân nó, và đường bay của tác phẩm biến thiên theo độ rung của mỗi người khi đọc đi đọc lại cùng không khí của mỗi thời đại. Điều tôi tiếc là hầu như Phù Hư đã ngưng tiếng thơ của anh sau khi viết ra những bài chính trong tập này, có thể vì kể từ năm 1975, đã xảy ra quá nhiều điều nghiệt ngã cho thơ và thi sĩ. Thế rồi, khi thơ gặp vận mở để có mặt rộng rãi trên các tạp chí thì một chút mặt bằng trên kệ trong nhà sách lại được trân quí hơn thơ, nên độc giả ít có cơ hội chạm tay vào một tập thơ. Ước gì với thành quả của 'Ngậm thẻ qua sông', Phù Hư có đủ hứng khởi cầm bút trở lại, đi tiếp con đường anh đã cho thấy rằng thơ là đầu nguồn của sáng tạo và đổi mới ngôn từ, là hình ảnh của cảm xúc, nhịp điệu của những giấc mộng trong tâm hồn và các thực tại giữa cuộc đời.

 

5

Ghi chú: Phù Hư, tên thật Nguyễn Đắc Ngân, sinh năm 1951 tại Hải Dương. Lúc nhỏ sống ở Huế. Từ năm 1972 định cư tại Sàigòn cho đến nay. Thơ đã đăng ở các báo Khởi hành, Văn, Thời tập, Đúng dậy, Mỹ thuật thời nay. (Ghi theo bìa tập thơ).

 

6

Mời đọc:

Ngậm thẻ qua sông

                                 Phù Hư

thơm lửa hương khoai tiếng hát rừng

ven thôn vừa ghé buổi di quân

khói mẹ sau lều cơm chín tới

nước em chè lá đậm phèn sông

 

tôi đời trận mạc xa quê quán

buổi ghé nương em núp bóng nhà

em nhớ thương chồng đóng đồn ải xa

lâu tin vắng trông mòn đường xóm

tôi ở quá bên hông nhà gió sớm

đợi dùm em tin chinh chiến gời về

 

đêm nay mưa em mắt ngủ khuya

tôi lạnh gió tin địch về vẫn thức

làng em ở gió Lào qua rất độc

ngày mưa mùa khuất núi mù sông

mẹ già mong một mụn cháu đầu lòng

em nhắn gởi bao lần tin vẫn biệt

ruộng vườn em trăng sương ngày tháng Chạp

tôi gác đêm như bóng người rình

tối nay đạn nổ nhẹ mạn sông

sương mỏng quá nhìn hoa ngàn con mắt

tôi giữa đêm nghe mình như thất lạc

thương xóm nhà biết nổ đạn vào đâu

đồng đội tôi ngủ mệt thôn sâu

ngại làm động mẹ ho vừa chợp mắt

tôi nương bóng nhà trăng che khuất

ngồi co mình cho bóng bớt riêng tôi

nhìn xa trăng định trốn sau đồi

sông tiếng bạc dặm buồn như tiếng cú

thức có khuya mới nghe hồn bớt ngủ

mới hay trăng tháng chạp úa quanh đời

nghe em thở não mãi không nguôi

em thở đó hay gió kêu mùa giá

nhà em ở miệt đông xóm hạ

bên triền sông không bến phải vắng thuyền

đầu trăng con nước rất vô duyên

lên mấp mé vườn em vai phơi áo

em rất nhỏ ngày trông vào gánh gạo

mẹ thì già vồn cải với nương rau

bước sau hiên vun mẹ dây trầu

mùa tốt lá xanh hồn tôi mới ghé

buổi mới đến cau cao vừa nhú bẹ

em thẹn thùa tôi tưởng thuở bình yên

tôi đâu hay em có nỗi hờn riêng

trông chinh chiến gọi hồn chồng theo gió

một tháng tròn ngỡ như ngày thuở nhỏ

em là em mẹ là mẹ xưa

tôi lêu nghêu lúc đi sớm về trưa

cơm nửa buổi giữa khuya kêu bụng đói

nhà thưa quạnh tôi gượng vui chẳng nổi

mẹ thẫn thờ em heo bóng trong sân

tôi trận mạc nhầu không kể đến thân

sương nhiều lắm trời không che nằm đất

em vẫn bảo tôi mái tranh không chật

tôi cười xòa xó xỉnh mãi đâm quen

 

tròn tháng rồi đây nhớ không em

hôm từ biệt quanh thôn nhà cửa khép

lúc quân đi chắc em không hề biết

đội tôi ngùi ngùi ngậm thẻ qua sông

còn tôi co ro lạnh mãi gió đông

một lần cuối nhìn nhà em đóng kín

tin chồng em chắc chưa về đến bến

như tin tôi mấy thuở gởi thăm nhà

cũng mấy năm rồi biền biệt phương xa

em còn nhớ một lần tôi ghé ở

thơm lửa hương khoai vùi bếp cũ

hồn em xa lắm cũng quanh đây.

1972

 

NGUYỄN ƯỚC

Sinh năm 1947 tại Hàm Hoà, Quảng Ninh, Quảng Bình. Năm 1954, theo gia đình di cư vào Bồ Ðiền, Phong Ðiền, Thừa Thiên. Tốt nghiệp Ðại học Sư Phạm Huế, ban Việt Hán. Trước năm 1975, dạy Văn và Sử tại Huế, Ðà Nẵng rồi Tuy Hòa, đồng thời làm chuyên viên công tác phát triển xã hội. Có bài đăng trên các báo Giáo Giới, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức, Xây Dựng, Sóng Thần, Ðại Dân Tộc, v.v... Năm 1989, vượt biển sang đảo Galang, Indonesia. Từ năm 1991, định cư tại Toronto, Canada; tác viên cộng đồng; cộng tác với các tạp chí như Hợp Lưu, Thơ, Diễn đàn talawas, Ði Tới, Làng Văn, Thời Báo, Thư Quán Bản Thảo, Người Việt Hải Ngoại, Ð àn Chim Việtv.v. Ðịa chỉ hiện nay: 532 Dufferin St. Toronto, ON. Canada. M6K 2A7.

Tác phẩm đã in Trước 1975:
- Tội Của Họ (kịch)
- Bài Ca Người Nô Lệ Mới (thơ)

Tại hải ngoại: (những cuốn có dấu * đã tái bản và phát hành trong nước do các NXB Văn Học, Văn Hoá Thông Tin, Hội Nhà Văn, Tôn Giáo, v.v.):
- Giáo Lý Mới Thời Ðại Mới: Ðức Tin Công giáo (Sách Giáo lý của HÐGM Hà lan), dịch*
- Chân Dung Một Giáo Hoàng, tuyển dịch
- Ðức Giê-su: Cuộc Ðời Và Thời Ðại, dịch *
- Krishnamurti: Cuộc Ðời Và Lời Giảng, biên dịch *
Tập I: Ðời Không Tâm Ðiểm *
Tập II: Dòng Sông Thanh Tẩy *
Tập III: Krishnamurti Tinh Yếu *
- Chuyện Kinh Thánh của Pearl Buck, dịch *
- Về Từ Cõi Chết của Elie Wiesel, dịch *
Tập I: Ðêm *
Tập II: Rạng Sáng *
Tập III:Tai Nạn *
- Chuyện Người Hành Hương, dịch và chú giải *
- Máu Hồng Y của Brian Moore, dịch *
- Hiến Chương Nhân Bản 2000, dịch và chú giải
- Một Hồ Sơ Chủ Nghĩa Hậu Hiện Ðại, biên khảo *
- Trăng Huyết, trường thiên tiểu thuyết (chung với A. Grey)
- Truyện Tì bà Của Nguyễn Bính, sưu khảo và chú thích
- Cẩm Nang Sống Thiền, biên dịch
- Một Thời Ðể Nhớ –
Tuyển tập thơ chung 10 tác giả

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     ÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.