Cát bụi phận này
Cát bụi
bạt ngàn trên sa mạc, trên đồng khô cỏ cháy, trên đường phố hoang vu
chói chang ánh nắng... Ngày tạo thiên, lập địa, ngày núi non sừng
sửng nổi lên, đại dương và biển cả xuất hiện, đâu đâu cũng cát bụi
và cát bụi. Cát bụi cứ nằm yên, cát bụi cùng cát bụi, mãi mãi bên
nhau, không đời nào xa cách. Cho đến một ngày, phong ba bão táp,
cuồng phong lên cơn thịnh nộ, hồng trần điên đảo, bụi trần bốc lên
bay bổng, tung tăng đi chín phương Trời mười phương Phật, tứ phương,
tám hướng xa xôi. Như vậy là cát bụi chu du thiên hạ, ta bà trời
đất, năm non bảy núi, ngũ châu tứ hải, tha phương lăn lóc, ngàn
trùng hải lý, chọn lựa đất lành đáp xuống, tạo ra thân thế, dựng nên
tiền đồ sự nghiệp.
Có cát bụi và cát bụi, cát bụi rơi vào thân phận sang hèn, vinh nhục
khác nhau, tùy định mạng và số kiếp. Cát bụi phận này rơi vào số
kiếp thơ sinh nghèo, con cái của một gia đình làm ăn đủ sống, lương
đầu tháng, nợ cuối tháng. Sống không thừa thảy, cơm đủ ăn, áo quần
đủ mặc. Trầy trật với cuộc đời, đèn sách lần mò cũng được bằng nọ
với bằng kia. Không phương tiện để tiếp tục cuộc đời khoa bảng thì
"dưa leo chấm với cá kèo, học trò nghèo phải học Normal".
Đỗ đạt, đăng khoa, làm nghề "gõ đầu trẻ", học trò dăm ba đứa, nhi
nhô nhi nhăn, nói nói cười cười, nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba là bọn
chúng. Thôi, không bằng cấp cao sang, đành sống làng chàng với lũ
không ma cũng chẳng quỷ. Cứ ậm à ậm ự qua ngày đoạn tháng, lãnh
lương ba cọc, ba đồng, sáng xách đít đi, chiều xách đít về, mà vui
thú cùng vợ con.
Người muốn vậy nhưng thời thế chẳng muốn, giặc giã tràn đồng, quân
lính Tây làm không xuể, nổi máu cà nanh đố kỵ, lấy cớ giặc Mít thì
quân bản xứ phải lo lấy. Ai đâu làm tôi làm mọi đi đánh giặc mướn
cho tụi bây. Chẳng bằng thực dân dẹp loạn không nổi, phải lấy thêm
lính bản địa làm bia thịt cho đỡ tức.
Xuất phát từ bài diễn văn của danh tướng De Lattre đọc tại trường
Tây nổi tiếng đất Sài Gòn - trường Chasseloup Laubat - ngày 11 tháng
Bảy năm 1951, qua đó vị tướng lừng danh của quân đội Tây, viện dẫn
lòng dòng lịch sử, văn học và triết học Tây phương và cả lịch sử
Việt Nam cùng với luận cứ của giới trí thức yếm thế địa phương để
kết luận rằng:
"Vì những người chiến sĩ của nước Pháp, vì tương lai của Việt Nam,
vì lý tưởng của thanh niên, vì chính những người thanh niên của đất
nuớc này đang chiến đấu ngoài kia, trước những toan tính nhỏ nhen và
trước cái đớn hèn khả kính ấy, tôi xin thưa cùng những con người như
vậy, và các bạn hãy góp lời cùng tôi, để nói với họ rằng: "Thưa
không, giặc tới rồi, hãy tỏ ra mình là con người!"
"Phải xứng danh với con người, nghĩa là, nếu chọn cộng sản, hãy gia
nhập Việt Minh. Ngoài đó có những người chiến đấu tài ba để bảo vệ
một sự nghiệp sai quấy. Nhưng nếu là người yêu nước thì hãy chiến
đấu cho quê hương mình, vì cuộc chiến này là của các bạn. [...] Cuộc
chiến này, dẫu muốn hay không thì cũng là cuộc chiến của Việt Nam,
vì đất nước Việt Nam. Và nước Pháp chỉ chiến đấu cho bạn nếu như các
bạn cùng chiến đấu với nuớc Pháp."
Quan Tây đã muốn vậy, mà còn mại hơi chín hấu làm gì, cứ ra lịnh thì
các quan thuộc địa thi hành răm rắp. Thế nhưng, người ta muốn làm
một đòn chiến tranh tâm lý coi cho nó đẹp, quấy động tinh thần để
tránh tiếng Tây bắt lính. Năm ngày sau bài diễn văn đó, chánh phủ
Bảo Đại truyền lịnh tổng động viên. Trong cao trào quân dịch, cát
bụi phận này chạy trời sao khỏi nắng! Vậy là khăn gói quả mướp lên
đường nhập ngũ tùng chinh. Tiếng gọi thời thượng kêu là động viên đi
lính.
Chín tháng quân trường, năm rưởi trời đóng đồn giữ giặc, trấn ải
miền đất mũi, muỗi bay như rải trấu, trâu bò cũng phải nằm mùng, đỉa
lội như bánh canh, nước mặn chiếu sáng lân tinh dưới bước chưn
bốt-đờ-xô. Hết hồi lận đận, quan trên chạy giấy cho về bộ tổng tham
mưu, đánh giặc giấy tờ, ngày hai buổi đi về xe gíp, xe con, sáng mặt
quan một quan hai. Nhưng nhìn xa, trông rộng, tương lai mịt mùng,
hơn nữa mộng hải hồ thời trai trẻ chưa dứt điểm, cứ có cơ hội tung
cánh chim bằng là cất cánh bay xa.
Chẳng phải bay quanh bay quẩn đầu non, cuối bãi, Lạng Sơn, Cà Mau,
mà bay tít mù vạn dậm đường xa, vùng trời Tây, miền đất Ma-Rốc. Thôi
thì phỉ chí tang bồng, trọn nợ cung tên, cát bụi phận này rộng bước
đường mây một cõi đi về. Học nghề bay bổng, chuyên môn tạch-tạch-xè,
ấy vậy mà cũng phải cả năm dài.
Ngày cuối khóa, từ miền chiến tuyến quê nhà, một tin chẳng lành bay
sang cho hay là cứ điểm Điện Biên không còn nữa! Một con "xe" trên
bàn cờ đã vào tay đối thủ, một con cờ mất đi, chưa hẳn bàn cờ thua
cuộc. Nhưng đó cũng là một yếu tố tâm lý để đi đến chỗ tinh thần ba
quân ngao ngán. Chiến trường chao đảo, chính trường cũng lao xao.
Lại là chính trường mẫu quốc cơ. Trong nôn nóng và với sức ép của
tình hình, người ta đặt vội một chữ ký, cắt đôi một đất nước có "chủ
quyền bị kiểm soát", chia hai một dân tộc anh em mà thù nghịch.
Ngày trở về, đất nước rần rộ đổi thay, người Bắc vô Nam, trong làn
sóng di cư và người Nam đi Bắc, dưới danh nghĩa tập kết. Cũng là một
dân tộc hai chiều di chuyển khác nhau, dưới tên gọi chẳng giống
nhau. Ngoài Bắc vô Nam thì dời nhà, dọn cửa, để tiếp tục ăn nên làm
ra, mà trong Nam ra Bắc là tập họp lại để đánh phá tiếp theo. Thành
thử ra trong tên gọi, qua cung cách xưng hô, người ta đã có ẩn ý.
Trong cái đổi thay lớn, do Nhà Nước Đại Pháp bấm nút từ Genève, dân
bản địa làm một cuộc lật đổ ngai vàng, bằng cái gọi là "trưng cầu
dân ý", đưa ngài thủ tướng lên thay thế quân vương quốc trưởng. Lẽ
đương nhiên chánh phủ đương quyền đứng ra tổ chức hỏi ý dân một cách
"chặt chẽ" thì kết quả như thế nào ai cũng biết. Ông vua cuối cùng
của nhà Nguyễn mà bị thần dân bỏ rơi, hình ảnh long nhan bị cho vào
xọt rác, để suy tôn một vị thủ tướng, chưn ướt chưn ráo, từ nước
ngoài cường quốc anh em đưa về, dân chúng còn lâu mới biết đến, lên
ngôi thống soái, trị vì thiên hạ.
Một chánh quyền non trẻ, quản trị một đất nước thu hẹp còn phân nửa
mà lắm chuyện nhiêu khê, phải vo tròn sao cho kịp trong hai năm để
tranh cử lại ngoài kia. Trong khi ngoài nớ tuyên bố độc lập từ lâu
thì trong ni còn phải lòng vòng kiểu chế độ này, chánh thể nọ. Trong
khi người ta sắp xếp đội ngũ để xâm nhập lãnh thổ, để xé rào biên
cương, chọc thủng giới tuyến, tìm cách khuynh đảo, thì mình con ắc-ê
xếp hàng cơ bản thao diễn. Trong khi mình cạy cục dựng lên cộng hòa
thì người ta đã tự cho là dân chủ từ khuya.
Cứ cà nhằn cà nhì, đâu chẳng ra đâu mà cứ lo suy tôn lên, suy tôn
xuống, Tây làm không xong bỏ cuộc rút về, Mỹ lăm le tưởng bở nhảy
vào, phen này ô-kê nơm-bờ-oan. Binh hùng tướng mạnh đổ bộ lên Đà
Nẵng như chừng tiến vào trận chiến kinh thiên động địa. Rồi thì tổ
chức chánh trị, quân đội theo lối Hiệp Chúng Quốc, đánh giặc kiểu
nhà giàu, đem trực thăng chở quân bỏ chỗ này, đặt chỗ kia.
Quân tưởng mạnh mà sao đánh không thắng, phải chăng vì chánh trị
chẳng được lòng dân, lại gây thêm hận thù tôn giáo. Có khó gì đâu,
con tướng ta đặt nó lên, nay không bằng lòng thì ta hất nó xuống đưa
con tướng khác lên thay. Tưởng đâu dễ ợt, nào ngờ mấy ông Tướng Thầy
Ba lên ngôi chánh trị, không tạo được uy tín, vì tướng nào cũng như
tướng nào, tài sức ngang nhau, biết nhau quá rõ. Mày làm được tại
sao tao lại không? Như vậy là thay bậc đổi ngôi như cơm bữa, đảo
chánh tới, đảo chánh lui, rồi chỉnh lý, biểu dương lực lượng. Thôi
thì loạn xà ngầu, chánh trường nát như tương Tàu lôi theo chiến
trường rối nùi như nồi canh hẹ.
Đánh chẳng đặng thì đàm, đánh đánh, đàm đàm, lộn xộn, lăng xăng.
Giặc của mình mà mình chẳng đóng vai chánh trong cuộc nói chuyện hòa
bình, lại bị người khác giành quyền nói hộ. Vậy là họ nói vì lợi ích
riêng tư của phe họ. Đã vậy mà họ còn đi đêm, thậm thà thậm thụt
chuyện riêng tư, bất kể quyền lợi của phe ta. Họ quyết định với nhau
trên đầu trên cổ phe ta, rồi bắt ép phe ta phải chấp nhận. Chơi vậy
thì chơi với ai, đồng minh là như vậy à? Mồ tổ cha thân phận nhược
tiểu!
Cứ như vậy mà người ta tuyên bố "chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình". Chấm dứt đâu chẳng thấy, hòa bình lập lại thì còn lâu. Chỉ
chấm dứt cho nước đàn anh đem quân vào đánh phá mà không nên thân
nên phải rút quân chạy dài, bỏ của chạy lấy người, để cho quân bản
xứ gánh chịu hậu quả. Làm vậy sao đáng mặt anh hùng hảo hớn?
Mất thể diện thì cho mất luôn, miễn được yên thân đẹp phận cho riêng
mình. Bọn giặc ác ôn côn đồ, được nước làm tới, đem quân tấn kích
trong cái gọi là chiến dịch "Mùa Xuân Thắng Đại", năm mũi giáp công,
vi phạm trắng trợn Hiệp Định mà họ đã đưa tay mặt, đặt tay trái để
ký mà những nước thân thế có chữ ký trên Hiệp Định cũng làm ngơ! Vậy
là quân giặc phương Bắc ào ào tiến quân, thành quách phía Nam sập đổ
như những con cờ đô-mi-nô.
Đất nước thênh thang, ngoài tầm tay với, không sao giữ được thì co
cụm lại, ngày một ngày hai thu hẹp như mảnh "da sầu muộn". Một bước
thụt lùi, hai bước tiến tới đâu không thấy, chỉ thấy co rút lại hết
chỗ dung thân đành di tản chạy lưu vong, chạy nhanh lên, những ai
còn chạy kịp. Không thoát được đành làm thân người ở lại, trăm dâu
đổ đầu tằm, chịu mang tai mang tiếng là "ngụy quân và ngụy quyền".
Rồi khăn gói lên đường đi học tập cải tạo mút mùa lệ thủy trong các
trường đại học triền miên.
Những ai không chịu đựng nổi thì bôn ba hải ngoại, đi chui vượt biển
vượt biên, vì cột đèn mà có chưn nó cũng đi, không ăn ở được với lũ
ma quỷ lên làm người. Khỉ đột về thành thì làm sao mà chung sống.
Thà đi mà chết còn sung sướng hơn ở lại mà làm những cái xác không
hồn. Đi thì cứ đi không cần biết nơi đến vì có khi cũng chẳng đến
được mà phải vùi thây trong lòng đại dương hay lấy thân cá mập làm
mồ làm mã.
Làm thân di tản buồn, người tỵ nạn lưu vong, HO vất vả hay ODP lang
thang, ngày một ngày hai ăn nên làm ra bằng năm bằng mười thời
trước. Quên thuở cơ hàn, huênh hoang tự cao tự đại, áo gấm về làng,
tiền Việt kiều ta xài cho phỉ chí. Đi xa về quê, coi trời bằng vung,
nói năng chẳng cần sự thật, chuyện thật của mình ai biết được mà lo.
Ôi, tất cả chỉ là cát bụi biến thân, chu du thiên hạ, ngàn trùng hải
lý, đi đây đi đó, tám hướng, tứ phương, vinh có, nhục chẳng phải
không. Cát bụi phận này, cát bụi thành xác thân tôi, từ bé chút trở
thành lớn đại. Cát bụi tuyệt vời, từ khởi thủy tí ti đã trổi dậy lớn
bự để rong chơi, trong ánh sáng thái dương, trong bầu trời vũ trụ.
Mấy mươi năm thân phận người đời, một sớm một chiều tóc trắng như
nhuộm tuyết, cát bụi trở về cùng cát bụi. Một đời người hay một kiếp
cát bụi, đâu lại vào đó, sắc sắc, không không.
Phan Quân
|