Chuyến
tàu thiên sứ
Thuở xa xưa ấy, tại
một miền vô định trong vùng thung lũng với núi đồi bao quanh, có một
cậu bé chẳng khác gì những cô cậu khác. Cậu bé kháu khĩnh, rất được
cha cùng mẹ yêu thương. Hai vợ chồng đã luống tuổi mà chỉ có một mụn
con duy nhứt. Muốn kiếm thêm một cháu gái cho đủ đôi mà không tìm
đâu được, dẫu cho có phải bị phê bình vỡ kế hoạch, mất điểm thi đua.
Bốn năm năm qua, cậu bé rất vui vẻ, hồn nhiên, thỏa mãn với mọi thứ
mà cậu có được. Cậu chơi đùa thoải mái, chạy thật nhanh và bắt đầu
choảng nhau với một vài đứa trẻ láng giềng, dẫu rằng chẳng có mấy
đứa, vì xóm của cậu chẳng có bao nhiêu nhà. Vùng ba má nó ở gần như
là hoang dã.
Cây cối không có mấy, chỉ có một con đường độc đạo bằng đất thiên
nhiên, không đổ đá, trán nhựa thì còn lâu. Mưa xuống bùn lầy lên
nhão nhoét, nắng chói chang bụi đỏ mù trời. Thỉnh thoảng một vài
chiếc xe bò, xe trâu lách cách chạy qua, và thị xã gần nhứt ít lắm
cũng xa hằng mấy mươi cây số ngàn.
Đền bù lại, nơi chốn ấy còn thấy được chút hình ảnh của xã hội văn
minh, cũng chứng kiến được chút thành quả của khoa học tiên tiến nhờ
đường tàu hỏa chạy xuyên qua. Từ bên kia núi đồi, con tàu vụt nhanh
ra, quanh qua xê xế đôi chút rồi chạy băng qua cánh đồng phẳng lì
trước mặt để rồi lao mất hút vào cụm cây cối trong khu rừng xa xa.
Tàu thường chạy qua vào lúc chạng vạng hay là lúc đã tối sẫm gì đó.
Tùy theo mùa hè hay mùa lạnh, trời nắng hay trời mưa, người ta còn
thấy những tia nắng chiều phản chiếu lên những toa xe lửa hay những
cửa sổ toa xe sáng choang với ánh đèn lỗ chỗ đêm đen và tiếng gầm gừ
của tàu xé tan bức màn tĩnh lặng của đồng quê.
Cậu bé còn nhớ rằng, dưới bóng hoàng hôn đang ập tới, hoặc trong đêm
tối dày đặc, nó thường canh chừng con rắn bằng sắt gầm gừ từ xa,
chạy ào qua như một mũi tên, với một tiếng động đinh tai nhức óc,
rồi chạy băng qua đồng bằng để biến mất trong rừng cây. Con rắn to
lớn không mấy chút đã biến thành một chấm đen ở chưn trời, nhả lên
một đám khói trải dài trên lưng tàu.
Mỗi khi nghe tàu sắp tới, nó vọt ra khỏi nhà, cố đuổi theo tàu, hai
chưn nhỏ bé lăng xăng hấp tấp, nhưng làm sao mà chạy kịp con tàu. Ấy
thế mà nó cứ cắm đầu cắm cổ chạy, như muốn nói lên với con tàu lời
chào mừng thân thiện. Trên một đoạn đường, được bao nhiêu hay bấy
nhiêu. Hôm nào không chạy được cùng con tàu thì từ trong cửa sổ, bé
nhìn đăm đăm để ghi cho được vào tâm trí hình ảnh của con tàu rần rộ
kia và bóng dáng các ông các bà nam thanh nữ tú từ xa xôi đến để rồi
đi về cõi xa xăm, chạy ngang qua rất là mau.
Mùa hè ở đây nóng kinh khủng và mùa mưa thì cứ rỉ rả lê thê, người
ta thường bảo nhau nóng cháy da và mưa thúi đất. Những khi mưa dầm
mưa dề, nó mang đôi giày ủng, lượm được ở đâu không biết mà rộng
rinh, vậy mà cũng chạy được không té. Thân mình thì che lấy bằng tấm
nylon, buộc thắc ở cổ. Lúc nắng tháng bảy tháng tám còn thiêu đốt dữ
dằn trước khi biến mất đàng sau chưn trời, thì nó chạy chưn không,
mình trần trùi trụi. Thế là cậu bé đâm đầu mà chạy đua với con tàu,
không phải để ăn thua gì với nó, nhưng chỉ muốn biểu lộ chút thân
tình.
Đó là một cậu bé vui tính, hay cười nhưng nghiêm nghị. Không bao giờ
nó khóc la hay buồn nản khi con tàu chạy vụt qua. Nó không vẫy khăn
tay như thường tình, có lẽ vì nó không có khăn mù-soa, mà cũng không
buồn vẫy tay, có lẽ nó cho đó là những cử chỉ ước lệ của phường
trưởng giả thành thị. Thực tiễn hơn, nó chỉ biết câm nín và đứng yên
lại để luyến lưu dõi theo đôi mắt nhìn con tàu qua đi rồi xa lần để
biến dạng ở phía chưn trời.
Cứ mỗi chạng vạng tối là cậu bé kia có hẹn với đoàn tàu từ đồi núi
đổ xuống đồng bằng để chạy vào rừng cây. Đó là đoàn tàu quan trọng
chở khách du lịch hạng sang, với những toa giường ngủ và toa nhà
hàng. Không phải là những con tàu chỡ hàng hóa mà người dân thường
có thể la cà. Không đâu, đó là con tàu quý phái, bóng lộn, có những
chữ ghi kỳ quái với những huy hiệu bí hiểm dưới cữa sổ.
Nhiều lần nhìn qua cửa sổ các toa tàu, cậu bé trông thấy những nhơn
vật có vẻ trịnh trọng, ăn mặc toàn màu trắng, đầu đội mũ cũng trắng
tuốt. Ba nó cho biết họ là mấy ông hỏa đầu quân, nấu bếp trên tàu.
Kỳ nhỉ, nó nghỉ bụng, người gì mặc đồ trắng tinh lại đội mũ trắng
nữa mà đi làm bếp?
Ba của cậu bé cũng chưa già mấy. Hàng ngày, ông canh tác thửa vườn
cằn cổi, đất lộn đá, không cần biết ranh giới, vì chẳng có ai cạnh
tranh, và nhiệm vụ chánh của ông là trông chừng đường sắt. Mỗi tuần,
ông thả bộ hàng mấy chục cây số đi về để kiểm tra đường rầy, xem xét
những cây xà ngang và coi chừng những đống đá nâng đỡ các đầu xà.
Mẹ cậu bé rất sùng đạo. Bà cũng đi bộ khá nhiều, nhưng những cuốc đi
của bà chỉ diễn ra vài ba tuần một lần, độc nhứt vào sáng chủ nhựt
để đi lễ nhà thờ ở khá xa nhà. Người ta chẳng thấy bà đi chợ bao giờ
vì rau cải thì đã có thửa đất do chồng bà canh tác cung cấp. Thịt cá
thì cũng do người đàn ông đó đem về cho bà từ những chuyến viễn hành
thăm lom đường sắt. Thành thử ra những bữa ăn của gia đình này chủ
yếu là thịt cá phơi khô, chỉ có rau cỏ là tươi.
Trong tình hình như vậy, đương nhiên là cậu bé chẳng bao giờ đi
trường học vì có đâu để đi. Những khi rảnh rỗi, ba nó chỉ cho nó
biết mặt chữ và hình dáng những con số. Ngoài ra, nó có nhiệm vụ
chăn sóc một vài con trừu mà nó phải đưa đi gặm cỏ dọc theo đường
sắt.
Ba mẹ cậu bé rất đỗi thương yêu nó nên ít khi rầy la, nói chi đánh
đập. Năm khi mười họa, ba nó cũng nổi sùng cho nó bớp tai, nhưng
cũng nhè nhẹ, mỗi lúc nó làm mặt giận mày hờn nhõng nhẽo hoặc trái ý
cha mẹ. Một đôi khi người ta cũng bắt gặp nó nói dối. Nhưng cũng
thông thường thôi chẳng đáng gì.
Nói cho cùng thì nó cũng là một cậu bé dễ thương và ba mẹ nó nghĩ
rằng biết đâu ngày nào đó nó sẽ vào thị xã, làm được những chuyện gì
đó không tên, hái ra bạc lại có tên tuổi trên báo chí. Nhưng đó chỉ
là viễn tượng của cha mẹ nó. Riêng nó, đâu có nhìn xa như vậy.
Đời sống hiện nay của nó đã có một cái gì thỏa mãn trọn vẹn rồi. Còn
hơn một thú vui, một kỳ quan, một niềm tin, một nỗi hy vọng, gần như
một mối tình. Đó là nỗi mong chờ đoàn xe lửa của nó sẽ qua đây đêm
nay, cũng như mọi đêm. Đối với nó, xe lửa đó như một tia chớp trong
cái hỗn độn, trong cái ánh sáng của đời nó, tóm lại là một hình ảnh
ngời chói của cuộc đời.
* * *
Một ngày kia, vào đầu xuân, buồn thay cậu bé ngã bịnh. Đã lâu nó
không còn vui vẻ hồn nhiên, vui đùa ít hơn, mặt mày tái xanh. Xe lửa
tới, nó cũng ra xem, nhưng không còn chạy theo nữa. Nó ăn ít đi và
lần hồi hình như nó không rời chỗ nằm của nó. Những người chung
quanh nó cảm thấy buồn phiền với nỗi buồn của nó.
Cuối cùng ba nó quyết định đưa nó đi thầy thuốc. Nhưng chuyện đó đâu
phải dễ, mà chuyện rước thầy về nhà cũng khá nhiêu khê. Lôi thôi,
rắc rối nhưng còn dễ hơn đưa nó đi. Ăn ở nơi miền đèo heo hút gió
được cái an nhàn thanh tịnh, nhưng trái lại cũng có điều bất tiện.
Suy đi, tính lại, ba nó lội bộ đến một nông trại gần nhà, thỉnh
thoảng có một chiếc xe tải chạy ngang. Bác tài xế xe tải có biết một
ông thầy thuốc chịu khó di chuyển vì lòng từ mẫu lương y. Rồi một
ngày nọ lão thầy lang cũng đến được, đủng đa đủng đỉnh trên lưng lừa
của nông trại cho mượn.
Thầy thuốc chẩn mạch xong, thốt ra nhiều từ thông thái lạ tai mà ba
mẹ nó và nó chưa nghe thấy bao giờ, làm cho ba mẹ nó cũng như nó sợ
hãi lo âu. Mẹ nó òa lên khóc, ba nó cứng rắn hơn, vuốt ve mẹ nó
nhưng với nét mặt u buồn. Nói chung là ai ai trong nhà cũng thoáng
thấy rằng Tử Thần đang lảng vảng đâu đây.
Thầy thuốc đi rồi, ba mẹ cậu bé đâm ra dịu hiền hết mực với nó, một
thái độ chưa hề có đối với nó. Hai ông bà bước tránh xa nơi nó nằm
để khóc lén, nhưng trước mặt nó, họ vẫn tươi cười và chẳng bao giờ
rầy la nó nữa.
Con người chúng ta ai mà chẳng như vậy? Mình phải bị một điều gì đó
đe dọa, hăm he thì những người xung quanh mới thấy thương mình. Tất
cả mọi săn sóc ân cần đó làm cho cậu bé, có nguy cơ đi xa về thế
giới bên kia, cảm thấy một niềm vui sướng chi lạ. Nhưng có một điều
làm cho nó nhiều đau khổ nhứt là con tàu kia, con tàu qua ngang hằng
đêm đó, nó sẽ không được nhìn thấy nữa!
Bà mẹ, từ trước đến giờ cho chuyện nó đón mừng đoàn tàu chạy qua mỗi
tối là trò chơi trẻ con, giờ đây bà mới hiểu ra rằng đó là sự đam mê
của tuổi thơ, một đam mê có cơ dẫn đến mục tiêu cao hơn, phải thực
hiện bằng mọi cách và mọi giá. Nên chi, bà đặt chiếc giường của nó
sát cửa sổ để cho nó có thể trông thấy được đoàn tàu chạy qua mỗi
tối.
Vậy là, hằng đêm, khi còi tàu báo hiệu từ bên kia núi đồi, cậu bé
chỏi cùi chõ nhỏm dậy để nhìn cái lộng lẫy huy hoàng của thế giới
chưa hề biết đến, chạy vụt qua. Nhưng cái nhỏm lên của nó ngày một
yếu đi nên nó chẳng còn nhìn thấy được mấy.
Sáng hôm đó, cuối xuống nhìn con như mọi bữa, bà nhìn thấy những
giọt nước mắt long lanh chảy dài trên má. Đưa bàn tay gân guốc vuốt
lấy mái tóc dịu mềm của bé thơ, cố cầm nước mắt của chính mình, bà
khẽ hỏi con: "Con đau làm sao? Con đau chỗ nào?" Nó yếu ớt lắc đầu,
nước mắt long lanh, như những đứa bé trai buồn lòng và hơi mắc cỡ.
Và với một giọng bé nhỏ ngập ngừng, qua tiếng khóc thật ấm ức, nó
cho mẹ nó biết rằng nó hằng mơ ước được bước lên xe lửa một ngày nào
đó. Và ngày hôm nay đây nó biết rằng không khi nào bước lên xe lửa
được vì xe lửa chỉ chạy vụt ngang quá mau và không khi nào ngừng
lại. Nghe con nói bà mẹ vội vàng bỏ đi vì bà không chịu nỗi nữa khi
nghe ước vọng không thành của con.
Kể từ hôm đó, cứ mỗi khi nhìn con, dường như bà nhìn thấy trong đôi
mắt của trẻ một lời nguyện cầu não lòng và thầm lặng. Vậy rồi, ngày
này qua ngày nọ, cậu bé không nói gì đến đoàn xe lửa nữa. Nhưng khi
tiếng gầm gừ của đoàn xe xuất hiện từ phía núi đồi và khi cậu bé có
gắng chồm lên là bà nghĩ rằng cuộc đời quá bất công và thật là dễ
sợ.
Cũng như cậu bé, bà bắt đầu nghĩ tới chiếc xe lửa kia có giá trị đến
bực nào trên cõi đời này và tất cả những gì mà con bà, bà và tất cả
những nguời khác có quyền mong đợi và hy vọng. Rồi một đêm, khi cậu
bé đã ngủ say, bà cho ông chồng biết mối quan hệ to tát giữa cậu bé
và đoàn xe lửa mỗi tối chạy nhanh qua với tiếng động ồn ào và với
nhiều ánh sáng xuyên qua cửa sổ các toa.
Hè qua, thu lại. Cậu bé vẫn cầm cự với vị Thần có lưỡi hái. Mặt trời
chiếu sáng trong bầu trời càng lúc càng xanh, rồi nắng hanh vàng...
Ba mẹ của bé lại thêm hy vọng. Lão thầy thuốc trở lại thăm con bịnh
hai lần nữa. Thầy là một con người trung hậu, to cao mạnh dạng, đáng
mặt bực ông của cậu bé. Thầy thấy có cảm tình với cậu bé trai vững
chắc, can đảm, có thể sống tới trăm tuổi, đã phấn đấu khá nhiều với
cơn bịnh, đến đổi ông thầy thuốc già của đồng ruộng, đã từng trải
nhiều, cũng thấy cảm phục sức kháng cự của cậu bé có nét mặt khôi
ngô.
Buổi tối lần thứ ba, sau khi khám bịnh, thầy ngoái cổ nhìn lại con
bịnh nay đã trở thành người bạn thân thiết. Thầy tự nhũ rằng với
nhiều tiền bạc hơn, con bịnh sẽ thoát khỏi. Người ta sẽ đưa nó đi
bằng xe ngựa đến nông trại, rồi từ đó xe hơi sẽ đưa đi ra thị xã.
Rồi thì bằng xe lửa, xe hơi, máy bay, người ta sẽ đưa nó vượt trùng
dương hải lý tìm những bậc danh sư đã từng khoe thuốc này thuốc nọ
chữa trị bá bịnh. May ra người ta làm được cho nó sống lại một đoạn
đường đời nữa trước khi chết vĩnh viễn.
Vị thầy thuốc đang nghĩ mông lung rằng mình đã có phần lỗi lầm chữa
chưa tới mức vì lý do này hay lý do khác, làm cho bậc cha mẹ của bé
phải mất sáu tháng dài để khóc hết nước mắt. Thầy cảm thấy ân hận,
bỗng nhiên ông thấy một tia mừng vui nổi lên trên gương mặt xanh xao
của cậu bé đang ngóc đầu lên nhìn. Ông chưa hết ngạc nhiên thì bà mẹ
cho biết:"Xe lửa tới!" Tàu hỏa chạy qua ngang làm rung rinh cả căn
nhà. Tất cả qua đi, trả lại tĩnh mịch cho miền hoang dã và cậu bé
chán nản để rơi cái đầu nặng chĩu vì bịnh hoạn lên chiếc gối vàng
ệch.
Như vậy, sau ba má của cậu bé, đến lượt ông thầy thuốc cũng biết
được điều bí mật của nó, một đứa bé không phải vì thiếu can đảm mà
vì quá mong muốn được bước lên chiếc xe lửa. Và ông thầy thuốc đã
nghĩ rằng cậu bé kia không được máy bay bốc đi chữa bịnh là điều bất
công, tự nhũ rằng bằng mọi cách ông sẽ đưa nó lên tàu hỏa một lần,
dù chỉ một lần duy nhứt, vì đó là điều nó ao ước nhứt trên đời.
Đêm đó, ông thầy thuốc về nhà hơi trễ vì ông phải ở nán lại bàn tính
chuyện với ba mẹ cậu bé. Họ bàn tính đưa nó lên thị xã để đến nhà
ga. Chuyến đi có thể làm nó chết, nhưng nó cũng nhìn được tận mắt
chiếc xe lửa trước khi nhắm mắt. Họ chịu hoàn toàn trách nhiệm trong
vụ này, nhưng cũng nán lại đôi ba ngày vì trước cái đau khổ và cái
chết, trong thâm tâm con người còn hy vọng may ra còn có điều huyền
diệu nào đó. Mọi việc xong xuôi, chỉ đợi thi hành, thì có một chuyện
xảy ra làm xáo trộn hết.
Bà mẹ không rời giường con nửa bước vì nó lần hồi suy sụp trầm
trọng, chỉ có lúc chạng vạng là hồi tỉnh dậy. Chỉ có chiều tối là nó
tỉnh táo và có thể trao đổi được một vài câu. Trong khi mê sản, nó
nói những gì không ai nghe được. Qua câu chuyện, đoàn tàu lại đến và
bà mẹ thấy tiếc là phải ngưng chuyện đưa nó ra thị xã để coi xe lửa.
Đêm nọ, nó kêu mẹ nó lại hỏi rằng tại sao xe lửa không bao giờ ngừng
lại trước ngôi nhà bé nhỏ của gia đình? Bà mẹ tìm cách trả lời để
cho nó hiểu rằng xe lửa chỉ ngừng lại ở các nhà ga, còn căn nhà nhỏ
này thì ăn nhầm gì mà nó phải ngừng.
Cậu bé như hiểu ra. Nó lặng thinh trong giây lát và lần đầu tiên từ
sáu bảy tháng nay, nó không khóc mà hỏi rằng liệu nó có sắp chết
không? Bà mẹ nghẹn ngào không nói năng gì. Bà cảm thấy lạnh cả
người, chẳng biết phải nói sao. Sau khi lấy lại bình tỉnh và vựa vào
niềm tin ở Chúa trên cao, bà nói với con. Xung quanh Chúa Hài Đồng
có rất nhiều thiên sứ ăn mặc trắng toát là những cậu bé trai ngoan
ngoãn không khi nào biết mình được chọn lựa và cũng chẳng biết lúc
nào. Và bà cho nó biết nó thuộc loại những đứa bé như vậy.
Từ đó về sau, cậu bé không còn đề cập đến đoàn xe lửa mà cái chết
cũng không. Và trong cơn mê sảng nó tưởng tượng ra một câu chuyện,
lúc nào cũng một chuyện duy nhứt, là xe lửa ngừng lại trước nhà nó
để nó leo lên mà bay lên trời, có Chúa Dê-Xu chờ nó trên đó. Rồi nó
la bài hải:"Xe lửa! Xe lửa!" Mẹ nó phải chạy vội đến để trấn an nó.
Mỗi khi xe lửa đến thật, trong buổi chiều tối, trên nét mặt bịnh
hoạn của nó thoán hiện một niềm vui sướng và chút hy vọng là rồi đây
con rắng sắt thép kia cũng sẽ ngừng lại. Và lúc đoàn tàu dửng dưng
và lạnh lùng qua ngang rồi biến mất với tiếng động thì trên nét mặt
gầy gò của bé người ta thấy xuất hiện một niềm đau khổ nào đó, mông
lung và không tên. Như chừng tất cả nghị lực trong người nó đã tan
biến và nó bắt đầu khóc thầm mà chỉ dấu bên ngoài là hai giọt nước
mắt long lanh từ từ lăn trên đôi gò má hốc hác.
Ngày qua, đêm lại, hai vợ chồng già kia không chịu đựng nỗi cảnh khổ
đau của con trai mình. Chắc cậu bé còn đau khỗ gấp bội vì giờ đây
nó phải bỏ đi nỗi thắc mắc trong lòng để nói thẳng với cha với mẹ.
Và khi nó nói với cha: "Ba ơi, con muốn leo lên xe lửa!", thì ba mẹ
nó tự vấn lương tâm, lòng hỏi lòng là hai người đã phạm lỗi lầm sai
quấy gì, ở kiếp trước cũng như khi đang sống trên cõi đời này để cho
đứa con ngây thơ duy nhứt của họ phải đền tội quá nặng như vậy?
Hai ông bà đâu có quen lớn gì với những bực quyền thế, nhưng chỉ có
thầy thuốc là mối thân tình mới đây. Thầy thuốc đã thương tình cậu
bé thì tức nhiên ông cũng thương tình hai ông bà. Nghĩ như vậy, hai
ông bà ngồi xuống cặm cụi hí hoáy viết một lá thơ cho thầy thuốc.
Trong thơ, hai ông bà cho thầy thuốc hay rằng tình hình sức khỏe của
cậu bé rất tệ, nó chỉ nói về chiếc xe lửa thôi và điều nó hết sức
mong mỏi là xe lửa kia ngừng ngay trước nhà để nó leo lên mà đi về
cõi trên. Đây là một lá thơ vô cùng giản dị, chất phác, rất dễ
thương, viết trên giấy học trò, có kẻ ô vuông, với nhiều lỗi chánh
tả và dĩ nhiên có một vài đốm mực.
Thầy thuốc nhận được lá thơ trong lúc đang khám cho một vị trạng sư
trong thị xã, ốm đau vì cuộc sống quá bừa bải, trác táng. Đọc thơ,
thầy thuốc tưởng nhớ tới cậu bé đang hấp hối nên nỗi buồn đã hiện
lên nét mặt. Được hỏi bức thơ có gì làm buồn lòng, thầy thuốc không
nói chẳng rằng, đưa luôn lá thơ cho luật sư xem.
Quan trạng sư rất gay gắt với những người yếu thế, yếu mềm với những
kẻ mạnh và quyền uy, trên đời này chỉ có tiền là quan trọng hơn hết
đối với ông. Vừa trao thơ, thầy thuốc vừa nói: "Tôi nghĩ ông đâu có
quan tâm vụ này." Trạng sư không nói gì, trao trả lá thơ lại rồi
bước ra khỏi phòng mạch.
Ba tiếng đồng hồ sau ông trở lại và hỏi mượn bức thơ. Thầy thuốc
hơi ngập ngừng, rồi như có một động lực nào đó thức đẩy lương tâm,
ông trao cho luật sư bức thơ mà chẳng muốn biết ông trạng sư mượn để
làm gì. Thế rồi lá thơ mộc mạc của hai vợ chồng già ít học, nguệch
ngoạc, rằn ri, vì thương con, cũng chạy được từ dưới đất đen lên tới
văn phòng ông bộ trưởng giao thông vận tải.
Trong khi lá thơ xoàng xĩnh chạy qua những ngõ ngách nào không ai
biết thì trên hiện trường thực tế, con tàu cứ chạy mỗi ngày, qua
vùng đất đó hằng đêm. Con tàu cũng rít còi trước khi tới thung lũng,
rầm rập chạy ngang đồng bằng để rồi lao hút vào rừng rậm đầu kia.
Mỗi chuyến tàu qua, cậu bé như hồi tĩnh, mĩm cười để trấn an ba mẹ
nó. Ba nó ẵm nó ra khỏi giường và vác nó lên vai như muốn ôm trọn
tình thương vào lòng. Kề miệng vào sát tai nó, ông thủ thỉ như ru nó
ngày còn bé.
Cậu bé không nói gì, nhưng ba mẹ nó biết rằng nó chưa muốn chết, nếu
chưa bước được lên tàu hỏa. Ba nó vuốt nhẹ mặt và bàn tay nó rồi khẻ
nói: "Mai mình sẻ đi ra thị xã, rồi con sẽ leo lên xe lửa." Cậu bé
thì thầm đáp lại: "Con cám ơn ba! Con cám ơn ba!"
* * *
Cái ngày mai mà ba nó hứa hẹn đó đã đến, đã qua gần hết, mặt trời đã
xế bóng và chiều hôm đang xuống lần trên cánh đồng nằm giữa núi đồi
và rừng cây. Ba mẹ cậu bé bồn chồn không sao tả được vì rồi đây xe
lửa lại vụt qua, với những tiếng động long trời chuyển đất. Cậu bé
nằm yên trên vai ba nó, toàn thân đã giảm hơi nóng, bắt đầu lạnh lần
lần. Nó không phản ứng gì với những dấu hiệu của đoàn tàu sắp đến
như trước nay. Dường như nó chẳng nghe thấy gì. Nó không trả lời cho
ba nó. Bà mẹ không khóc nữa vì đôi mắt sâu lõm và mỏi mệt trên gương
mặt gân guốc đã cạn nước mắt.
Thời gian trôi qua nặng nề, ai cũng im lặng và bất động, lắng nghe
hơi thở của bé càng lúc càng dồn dập trong đêm đen. Bỗng nhiên, ở
phía núi đồi và thung lũng tiếng còi xe lửa hét lên như xé toạt màn
đêm. Hôm nay, tàu súp-lê hai tiếng dài. Bà mẹ bịt tai lại, không
muốn nghe. Ba cậu bé để nhẹ nó xuống giường, vuốt cặp mắt thơ ngây
của bé rồi hai tay che mặt mình lại để khóc thương cho đứa con duy
nhứt trong gia đình chết đi mà không toại nguyện.
Một ánh sao băng lạc loài xẹt ngang vùng trời của căn nhà lẻ loi
trên cánh đồng có con đường sắt băng qua. Một ước mơ nhỏ nhen dưới
"đất đen" làm sao một guồng máy to lớn "trên cao" thỏa mãn được!
Phan Quân
(Mượn ý từ "L'enfant qui attendait un train"
của Jean d'Ormesson)
|