Về chiến
trường xưa
Sau
khi "làm việc" với cán bộ của bộ nội vụ xong, Tân trở về khu giam tù
lòng nửa hy vọng, nửa thắc mắc. Hy vọng vì, qua nội dung đối thoại
với gã cán bộ, anh thấy rằng cánh cửa trại tù sắp hé mở, trả anh về
với gia đình. Tuy nhiên Tân lại thắc mắc với câu hỏi cuối cùng của
gã cán bộ: "Với cấp bực đại tá quân đội Sài Gòn lại được tha trước
anh em cấp nhỏ anh có suy nghĩ như thế nào"?
Tại
sao lại có câu hỏi như vậy, trong khi vấn đề đó chỉ thuộc phạm vi
nội bộ của anh em tù cải tạo mà thôi. Mặc dù đã quanh co trả lời cho
hợp ý của gã cán bộ, kẻo lỡ mất dịp may, nhưng thắc mắc đó của gã
cũng làm cho Tân cảm thấy không yên lòng trước những hoài nghi của
bạn bè, không phải chỉ những người cấp bực thấp hơn mà cả những
người đồng cấp bực nữa.
Suốt thời gian đi tù, cứ mỗi lần có người được trại công bố "học tập
tốt" để trả tự do là mỗi lần dư luận trong tổ đội, trong buồng giam
và trong trại tù có đề tài để bàn ra tán vào. Thời gian tù đày đã
quá dài và quá đủ để cho người ta nhận thức được thành ngữ "học tập
tốt" của cộng sản có ý nghĩa như thế nào, một ý niệm mà máy vi tính
dù tinh vi đến mấy cũng không sao phân tích nổi. Rồi đây dư luận sẽ
chín nghi mười ngờ rằng anh có gốc bự ở Trung Ương Ðảng, rằng anh
hợp tác với cộng sản theo cung cách nào đó, rằng anh nhận biệt vụ
của Hà Nội,...
Trong xã hội thu hẹp nhưng thừa mứa hoài nghi của nhà tù, một dữ
kiện dù nhỏ nhặt cũng phát sinh ra nhiều suy diễn và sự kiện nào có
vẻ nghiêng về phía trại, phía cộng sản đều bị tập thể tù cải tạo coi
là thù địch và nghiêm khắc lên án. Một đối tượng đã mang nhãn hiệu
là người của trại rồi thì sẽ bị tập thể khai trừ, không trực tiếp
công khai thì cũng gián tiếp và thầm kín. Từ đó về sau nếp sống của
đối tượng sẽ không giống ai hết và tâm tư sẽ cảm thấy như gánh lấy
một hình phạt gắt gao.
Phải là người "mặt chay, mày đá" loại thượng thặng mới có thể bất
chấp dư luận trong trường hợp như vậy. Không những khó khăn trong
trại mà khi ra tù rồi, dư âm của chuyện trong tù còn có cơ tác hại
đến thời kỳ định cư ở nước ngoài sau này. Người bị giam cầm nhưng
tin tức trong tù lại được loan đi rất xa, không những về đến Sài Gòn
mà còn sang tận ngoại quốc.
Căn
cứ vào thực tế đó, Tân bắt đầu thấy khổ tâm khi nghĩ đến dư luận
trong bạn bè vào những ngày sắp đến. Vốn là con người mực thước, lúc
nào cũng tuân hành kỷ luật và quy định của trại một cách tuyệt đối,
nghiêm chỉnh từng ly từng tí một đến độ anh bị cho là một quái
tượng, một kẻ "khiếp sợ cán bộ".
Với
tinh thần đó, trước kia trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà chắc hẳn
quân bạ của Tân nhất định phải hoàn toàn trong trắng, và thuộc cấp
của anh phải khốn khổ với anh. Về đến buồng giam, Tân nằm buồn rã
rượi không nói với ai lấy nửa lời mà cũng không buồn ăn uống gì
chiều hôm đó. Ðến giờ điểm buồng, Tân cáo bệnh với buồng trưởng để
khỏi phải ra xếp hàng vào buồng trước khi cán bộ trực trại khóa cửa
qua đêm.
* *
*
Ba
tháng sau, nhân một buổi báo cáo nhân số thường lệ trước khi ra hiện
trường lao động, thời điểm xuất trại được đình lại, báo hiệu chuyện
bất thường. Tập thể tù cải tạo lại có cơ hội suy diễn. Kỷ luật người
nào chăng? Chuyển trại chăng? Hay là tuyên bố đợt tha mới? Xôn xao
chưa lắng dịu thì cán bộ trại trưởng xuất hiện cùng với cán bộ giáo
dục và cán bộ an ninh. Ðám đông tù được lịnh ổn định để lắng tai
nghe trại trưởng nói chuyện.
Cũng những luận điệu quen thuộc tràn đầy lỗ tai tù hơn mười mấy năm
qua, từ trại này đến trại khác. Cũng những lời lẽ phê bình nước đôi
kiểu "tốt mà chưa tốt, có người, có lúc, có nơi còn có hiện tượng
tiêu cực, như thế này, thế nọ, thế kia..." Chung cuộc là để tuyên bố
tha một người tù cải tạo "học tập tốt". Chỉ một người duy nhất, mà
khá long trọng như vậy là vì đã hơn một năm rồi trại không có đợt
tha tù cải tạo nào.
Bài
nói chuyện của lão trại trưởng, tuy được phát ra với một niềm hãnh
diện lộ liễu qua nét mặt dương dương tự đắc của một người tự cho
mình có hành động ban ân và làm được chuyện vĩ đại, nhưng lại được
tù cải tạo tiếp nhận một cách lạnh lùng. Sau hơn một thập niên tù
đày, tù cải tạo đã đạt đến một kỹ thuật "tiếp thu" những lời lẽ "lên
lớp" của cán bộ cộng sản mà trơ như đá, vững như đồng, một loại nước
đổ đầu vịt. Trong những giây phút như vậy, họ để tư tưởng bay về một
cõi mộng mơ nào đó, như là một phiên ngồi thiền, cho đến khi nào
nghe những tiếng vỗ tay cò mồi là họ lại trở về với thực tại.
Những gì người cán bộ cộng sản thuyết giảng trước đông đảo phạm nhân
đều là những câu nói để mà nói chớ nghe thì chắc chẳng ai nghe, đừng
nói làm gì chuyện tin tưởng. Cho nên trình độ "cải tạo tốt" của Tân
đem lại cho các đội lao động xuất trại ngày đó một đề tài bàn tán
khá sôi nổi mà cũng làm cho lòng anh thêm nặng trĩu nỗi lo âu.
Các
đội lao động đi hết rồi, Tân hối hả làm thủ tục ra trại, một thủ tục
đặc biệt đối với anh vì phải rời trại ngay hôm đó, chớ không như
những đợt tha trước kia. Tuy rằng như vậy anh đở phải nghe những lời
đàm tiếu của bạn bè trong thời gian chờ đợi nhưng anh lại ấp ôm thêm
nhiều mặc cảm. Thực ra Tân cũng chưa hiểu được tại sao trại lại
"chiếu cố" anh đến như vậy vì, trong chừng mực mà anh biết được, anh
không phải là người như bạn bè đang tưởng tượng.
Trước kẻng tan tầm lao động buổi sáng hôm đó, qua sự thúc hối của
cán bộ trực trại, Tân từ giả anh bạn tù trực sinh và các bạn bè đau
ốm đang nghỉ lao động có mặt tại buồng và nhắn gởi những lời cáo
biệt đến bạn bè cùng đội rồi xách ba-lô ra đi. Anh được đi cùng với
lão cán bộ trại trưởng trên chiếc "xe con" đưa lão ta lên Hà Nội
công tác gì đó.
Ðã
trăn trở vì những ẩn ức của chuyện ra về quái lạ của mình, Tân còn
phải nghe thêm những "lời bạt" của phần lên lớp buổi sáng về "chính
sách khoan hồng của Ðảng và Nhà nước đối với những người không chạy
đi", xuyên suốt quảng đường mấy mươi cây số nghìn từ Nam Hà đến tận
Hà Nội! Trong khi đó, anh còn phải đắn đo thêm về việc anh đi Hà Nội
cùng xe con với trại trưởng nữa.
Ðược ra về với gia đình, điều mà người tù nào lại không thèm khát và
mong muốn, nhưng lòng Tân buồn rười rượi vì không thực sự nhận thức
mức độ "tiến bộ" của cá nhân và nhất là khi nhớ lại những cái bắt
tay, những lời đưa tiễn thờ ơ đến lạnh lùng của bạn tù. Đó là chưa
nói đến những lời lẽ nước đôi đầy tính châm biếm.
Tân
không có được niềm tự hào của một học sinh thành đạt do những nỗ lực
riêng tư. Thậm chí anh cảm thấy còn tồi tệ hơn khi thủ đắc một điều
gì nhờ gởi gấm, chạy chọt. Suốt mấy ngày đêm trên chuyến tàu Thống
Nhất để xuôi Nam, Tân gần như quẫn trí vì mãi suy nghĩ về trường hợp
của chính mình và vì hình dung đến tình nghĩa sau này giữa bạn bè và
anh.
Là
con người vốn hay trăn trở ưu tư, anh đâm ra bức rức vô cùng và thấy
hối tiếc vì mình đã được tự do không đúng lúc. Tự do ban phát trong
một bối cảnh nào đó làm cho người thụ hưởng còn khổ tâm hơn thuở tù
đày. Ðây cũng là một trong những cung cách thâm độc thuộc chương
trình lao động cải tạo của cộng sản.
* *
*
Sau
những ngày rộn rã trong niềm vui sum họp, Tân chưa khuây khoả được
nỗi buồn đeo đẳng từ trại Nam Hà thì một thông tin khác làm cho anh
thêm sầu héo tâm can. Nhân một ngày vui miệng với ý định kể thành
tích của đứa con gái yêu quý thì vô tình vợ anh lại khơi động thêm
vết thương đang lở loét trong tâm tư anh.
-
Ông biết không, ông về sớm được là nhờ con Thu Thảo đó.
-
Nhờ Thu Thảo? Nó làm sao mà gỡ cho tôi được?
-
Chẳng là trong lúc ông còn trong trại, gia đình không tiện báo cho
ông vì sợ ông lo nghĩ có ảnh hưởng xấu đến việc học tập. Thu Thảo nó
đã lập gia đình hồi năm ngoái...
-
Nó lấy chồng thì có gì mà phải giấu tôi, nó đi theo người ta à?
-
... đâu có, cưới hỏi đàng hoàng chớ. Chồng nó cũng là người danh giá
và nhờ vậy mới bảo lãnh được ông...
Tuần tự theo giòng kể chuyện của bà vợ, Tân cảm thấy người anh càng
lúc càng nóng lên vì tức giận. Thì ra, Thu Thảo, sang Pháp du học
dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, đã tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản, một
loại á phiện tinh thần mà Hà Nội đã mưu mẹo mớm cho sinh viên học
sinh du học. Từ lâu, con gái của anh đã đứng vào hàng ngũ "Việt kiều
yêu nước", bất chấp và mâu thuẫn với thành phần xã hội của gia đình
ở quê nhà.
Sau
khi Sài Gòn sụp đổ và thấy rõ rằng hành động của mình sẽ không có
tác động tai hại nào đối với sự nghiệp của cha mình, cô leo thang
một bước nữa là gia nhập đảng cộng sản Pháp, dưới sự dẫn dắt và bảo
trợ của Jean-François, người bạn cùng khoa, nay là chồng cô.
Jean-François, một đảng viên cộng sản Pháp rất năng nổ, là người tín
cẩn của "đồng chí" tổng bí thư Georges Marchais và đang là giới chức
hàng đầu trong toà thị chính một khu quản hạt thuộc vùng ngoại ô xa
của Paris. Dựa vào uy tín và ảnh hưởng của chồng, Thu Thảo đã mấy
lần đi về giữa Paris và Hà Nội để can thiệp cho Tân nhưng không lần
nào ghé qua trại tù thăm cha.
Tiếp nhận những tin tức đó, tâm tư Tân đã chết đi một nửa. Bỗng dưng
anh thấy mình là một chấm đen vô duyên trong bối cảnh màu hồng của
niềm vui gia đình. Gắn bó với quân lực Việt Nam Cộng Hoà trên tuyến
chống cộng hai mươi năm có dư giờ đây lại vô tình đứng vào phe đối
nghịch anh cảm thấy trơ trọi bơ vơ!
Những người ở thế đứng mới hôm nay vô cùng xa lạ với anh còn bạn bè
ở chiến tuyến cũ thì nhất định là phải nhìn anh với một nhãn quan
hoài nghi, nếu chưa phải là thù nghịch. Buồn, Tân mang một nổi buồn
trọng đại, ngày này sang ngày khác anh cứ lầm lì chẳng nói năng gì
với ai, ngay cả với vợ anh, người mà anh cho là có phần nào hảnh
diện về Thu Thảo. Do đó không một lời khuyên bảo hay an ủi nào của
gia đình có ảnh hưởng đến anh, không trấn an được anh lại càng làm
cho anh thấy mình đã đi ra ngoài quỹ đạo gia đình.
Theo đà năm tháng, anh thấy mình vô cùng cô đơn giữa giòng sinh sống
của thành phố, đôi khi anh lại thấy nhớ nhung và hối tiếc nếp sống
tù đày nhưng ngập tràn tình nghĩa bằng hữu, chiến hữu và bạn tù.
Không phải tự do nào cũng làm cho con người thoải mái và không phải
tự do nào cũng đáng trân trọng.
Ðược tha về nhưng "Giấy Ra Trại" lại ghi chú rằng anh là thành phần
phải được địa phương theo dõi. Do đó, ngoài việc mỗi tuần anh phải
trình diện trụ sở công an phường trong vòng ba tháng và sau đó mỗi
tháng một lần, gã công an khu vực quấy rầy anh không ít. Thừa nước
đục thả câu, gã công an khu vực tìm cơ hội đến nhà "thăm" anh một
đôi lần trong tuần với lý do kiểm soát nhưng thực ra là để kiếm
chác.
Người dân trong chế độ công an trị dù chẳng ưa thích gì những người
trên lý thuyết là "bạn dân" đó nhưng cũng phải cố gắng làm đẹp lòng
gã công an khu phố vì đó là tai mắt của chế độ, lúc nào cũng rình
rập dân chúng thuộc "địa bàn hoạt động" của gã. Và, hơn ai hết,
những gia đình gốc "ngụy quân, ngụy quyền" được gã "chiếu cố" thật
đặc biệt.
Gia
đình Tân không thoát khỏi quy luật thực tế đó, nhất là anh vừa mới
ra trại trong vòng quản chế địa phương chờ ngày được trả quyền công
dân. Theo phép lịch sự của người Việt Nam, khách đến nhà không trà
thì nước nhưng công an cộng sản đến nhà cựu tù cải tạo vừa ra trại
nhất định phải được tiếp rước chu đáo hơn. Cho mọi việc đều tốt đẹp
nên nước thì nước ngọt hoặc bia và kèm theo là thuốc lá ngoại hay ít
nhất thuốc nội nhưng phải "có cán và đeo nhẫn", hút tại chỗ và đôi
khi còn mang về! Ngoài ra, thỉnh thoảng một hai đêm trong tuần Tân
được gã công an đến mời đi làm nhiệm vụ với tổ dân phòng, canh gác
và tuần tiểu đường phố.
Anh
nhớ lại những ngày đêm trong tù, ngoài chuyện lao động do trại chỉ
định, anh được yên thân ngủ thẳng giấc trong đêm, có đâu mãi mãi hồi
hộp như bây giờ. Mỗi tiếng chuông gọi cửa là mỗi lần anh phải nhổm
dậy xem ai đến. Mỗi tiếng chó sủa trong đêm là mỗi lần tim anh phập
phồng lo sợ. Vốn đã yếu tim nên những biến động nho nhỏ ấy làm cho
anh mang thêm chứng bệnh tim có nguy cơ ngày thêm trầm trọng. Ðể
giảm thiểu khuynh hướng tai hại đó, anh quyết định cắt điện đuờng
dây chuông gọi cửa và cho con chó nhà anh uống thuốc an thần mỗi tối
để nó ngủ qua đêm.
Mất
ngủ thường xuyên, bực bội suốt ngày, Tân gần như loạn trí nên có
những phản ứng và hành động khác thường. Gia đình bắt đầu lo ngại,
mua cho anh một chiếc xe đạp và khuyên anh nên dạo chơi phố phường,
tiếp xúc bạn bè và đến thăm thân thuộc để tìm khuây khoả cho tâm tư.
Anh cũng thử đi đây đi đó thay đổi cái nhìn, thay đổi suy nghĩ.
Thế
nhưng, dường như sinh hoạt đó lại tạo cơ hội cho gia đình thấy rằng
mức độ quẫn trí của anh đã không giảm mà còn làm cho anh trở lại với
thói quen không đẹp của thời tù tội. Ngày nào đi rong chơi về, đàng
sau bọt-ba-ga của xe anh cũng có một cuộn bao ny-lon. Thì ra, trong
hành trình đạp xe ngang dọc thành phố, thỉnh thoảng anh dừng xe lại
để lượm những bao ny-lon rơi rớt trên đường, một thói quen của tù
cải tạo trong trại giam để gom góp chất đốt nấu nướng thức ăn.
Thói quen của nếp sống trong tù hằn sâu trong tư tưởng Tân làm anh
nhận thấy gia đình ăn tiêu quá mức so với tình hình thu nhập. Không
chấp nhận cung cách sinh hoạt của gia đình, anh tự nấu nướng lấy như
những ngày đi tù cải tạo. Gia đình giải thích và khuyên lơn mấy anh
cũng không nghe. Tinh thần kỷ luật nghiệt ngã và thái quá trong thời
tù đày cải tạo đã biến đổi tâm tính anh theo một chiều hướng xấu so
với xã hội bên ngoài và với sinh hoạt của gia đình. Thấy rằng anh đã
mang nặng dấu ấn của "học tập cải tạo", gia đình buồn rầu vô hạn
nhưng cũng đành bó tay để cho anh tùy ý hành động.
Một
thời gian sau, qua tiếp xúc với bạn bè cũ có lúc ở cùng trại, những
mối liên hệ đồng cảnh ngộ trong quá khứ tù đày cũng như trong hiện
tại lần hồi hé mở cho anh một lối thoát. Những câu chuyện trao đổi
nhau ở "xóm chợ trời tin tức" trước sở ngoại vụ thành phố, từng bước
một cho anh hiểu ra rằng xin đi đoàn tụ gia đình ở nước ngoài là một
điều khả dĩ đối với những người của chế độ cũ, chớ không phải là
trốn chạy như những "bài học" đã dồn vào đầu óc anh.
Cùng với đông đảo bạn bè, Tân mạnh dạn nộp đơn xin đi đoàn tụ và
định cư. Trái với ý muốn của vợ anh, đã được Thu Thảo hướng dẫn, anh
xin đi Hoa Kỳ đoàn tụ với người con trai của anh. Qua tin tức thu
lượm được, nhưng cũng trùng hợp với ý định của anh, Tân đã quyết
định chọn lấy hướng đi đó dù rằng vợ anh có cho biết là người con
trai không có nhiều phương tiện để lo cho gia đình bằng cô con gái
vốn đã ổn định cuộc sống ở Pháp từ lâu.
Hồ
sơ được chấp nhận và chuyển đi nhanh chóng vì với hai nguồn "kiều
hối" vợ anh đã thức thời dọn đường sẵn cho hồ sơ. Khoảng mười tháng
sau, hai ông bà được mời đến gặp phái đoàn phỏng vấn của Mỹ. Ðến
hẹn, lòng hân hoan thơ thới, hai ông bà dẫn nhau đến sở ngoại vụ
thật sớm, ông thì âu phục chỉnh tề, cà-vạt áo vết cẩn thận, bà thì
đã đi làm tóc ngày hôm trước và áo dài tha thướt, đẹp dáng mệnh phụ
phu nhân.
Sau
mấy tiếng đồng hồ ngồi đợi và được gọi tên mời vào, lòng anh rộn rã
vui mừng ra mặt và phát ra thành tiếng, khi nhìn thấy phái đoàn Hoa
Kỳ anh vội vàng chào hỏi ngay bằng tiếng Mỹ. Một trong những nhân
viên của phái đoàn phỏng vấn là ông cố vấn cũ của anh trước năm 75,
nay đã chuyển ngành. Nhưng, viên chức Việt Nam của sở ngoại vụ đã
lên tiếng chỉnh ngay làm cho anh phải chui trở vào cái vỏ ốc nhút
nhát cố hữu :
-
Ðừng quên rằng anh vẫn còn là người Việt Nam đấy nhé!
Thế
nhưng, người Mỹ kia cũng không vồn vã gì lắm đối với anh và chỉ chào
hỏi đáp lễ chiếu lệ. Từ đó, xuyên suốt qua buổi phỏng vấn, những
trao đổi và đối đáp giữa vợ chồng anh và phái đoàn đều phải qua sự
thông dịch của viên chức kia. Thất vọng đầu tiên lót đường cho nỗi
bất hạnh khác nặng nề hơn vì vợ chồng anh bị Mỹ từ chối nhập cảnh
với lý do là anh đã được con gái ở Pháp bảo lãnh ra trại.
Mỹ
không viện dẫn thêm những yếu tố khác dù họ không xa lạ gì khuynh
hướng chính trị của Thu Thảo. Ra khỏi sở ngoại vụ, bộ y phục tươm
tất buổi sáng giờ đây lại nặng nghìn cân, mồ hôi Tân nhễ nhại dưới
ánh nắng Sài Gòn trong khi tâm tư anh rối bời. Ðối với anh, thành
ngữ "Mỹ bốc" đã là một ảo ảnh đang lần hồi tan biến!
* *
*
Sau
hơn một năm định cư ở Pháp và qua hoạt động trong một hội đoàn tranh
đấu hải ngoại, Tân lần hồi cảm thấy mình hội nhập trở lại với môi
truờng chiến đấu xưa cũ. Mặc cảm về tư thế đối kháng lại bạn bè và
chiến hữu ngày xưa cũng lần hồi tan biến trong tâm tư anh.
Không thấu hiểu được nguyên do sản sinh ra thái độ vui tươi, hăng
hái và yêu đời của Tân, vợ và con gái anh cảm thấy khích lệ vô cùng.
Những người phụ nữ đó nghĩ rằng chồng và cha họ đã hoà mình được với
nếp sống mới nên rất yên tâm. Từ đó, họ thấy không còn nhu cầu theo
dõi anh nữa để nếu cần thì giải cứu cho anh như từ trước đến nay. Về
phần mình, Tân cũng giấu kín sinh hoạt của anh, không những đối với
Thu Thảo mà cả đối với chị Tân vì, theo anh thì đó là một điều bí
mật không phải của riêng anh mà còn của tổ chức nữa.
Nhờ
ở chút tài sản riêng tư đã được chuyển ra ngoại quốc trước kia và
qua cung cấp của hai người con, hai vợ chồng Tân không cần phải xuôi
ngược đi tìm công ăn việc làm như những người định cư khác dù hai
ông bà chưa đến tuổi về hưu. Nhờ vậy và nhất là nhờ vợ con anh nới
lỏng mức độ quan tâm, anh có được cơ hội dành hết thời gian, công
sức và trí tuệ cho công cuộc đấu tranh vì dân tộc và đất nước.
Một
hành động được Tân coi như là một ngọn đèn dầu, trước khi tắt hẳn
còn loé lên một lần cuối trước khi đi vào cõi mịt mù. Không phải
đương đầu với nỗi ám ảnh xuất phát từ gã công an khu phố và hết mặc
cảm dị ứng truớc bộ đồng phục màu vàng da bò khó thương, Tân cảm
thấy thơ thới nhẹ nhàng nên rất hăng say và tích cực hoạt động.
Mùa
hè năm đó, Tân đi Mỹ để thăm Thanh, người con trai đã vượt biển định
cư tại đây từ lúc anh còn trong thời "học tập cải tạo". Vợ Tân cũng
muốn cùng đi với anh nhưng không được vì phải ở lại Pháp để săn sóc
Thu Thảo chuẩn bị sanh lần đầu tiên, một lần sanh mà bác sĩ dự kiến
sẽ có khó khăn.
Theo dự định thì anh chỉ ở bên đó trong dịp hè nhưng mãi đến gần Tết
âm lịch cũng không thấy anh trở về Pháp mà cũng chẳng thấy có tin
tức gì hết. Nóng lòng chờ đợi, gia đình phải điện thoại hỏi Thanh.
Bấy giờ mới vỡ lẽ ra là Tân có sang Mỹ nhưng chỉ ở chơi với Thanh có
hai tuần lễ rồi cho Thanh biết là phải sang Cali để thăm gặp bạn bè.
Tân cũng không cho Thanh biết là đến nhà ai và bao giờ sẽ kết thúc
thời gian ở Mỹ. Cho nên Thanh cứ yên chí là Tân đã về Pháp trong lúc
gia đình bên Pháp lại nghĩ rằng Tân đang ở Hoa Kỳ.
Như
vậy là anh bặt tin cũng khá lâu truớc khi gia đình bắt đầu tìm cách
xác định vị trí của anh. Thế là chín nghi, mười ngờ, hết giả thuyết
này đến nghi vấn nọ. Gia đình cho rằng Tân lại bị chứng rối trí, lạc
mất lối về. Ðiện thoại và điện tín đi khắp nơi, thậm chí nhắn tin
trên các báo Việt Nam hải ngoại để cố tìm ra vết chân anh nhưng tất
cả đều hoài công. Gia đình buồn rầu vô hạn, gần như chịu một cái
tang. Thời gian rồi cũng qua mau, nỗi tuyệt vọng trăm đắng nghìn cay
rồi cũng từng bước một rơi vào quên lãng, khi mà trong cuộc sống bận
rộn và bon chen giữa cõi trần ai không để cho con người cứ ngày đêm
tiếc thương dỉ vãng mà xao lãng hiện tại.
* *
*
Tân
đã âm thầm biệt tích trong lúc tưởng đâu cuộc đời anh đã tai qua nạn
khỏi, tận hưởng được niềm vui hạnh phúc của thuở cuối đời. Nếp sống
thoải mái của con người trong bối cảnh công bằng bác ái của chế độ
tự do biết tôn trọng nhân quyền đã đánh thức lương tâm anh và thôi
thúc anh đi theo một hành trình mới.
Từ
lúc mới lớn vào đời, hoàn cảnh đã gò bó anh vào một bối cảnh chỉ
biết có chấp nhận và phục tùng, không dám mạnh dạn sửa đổi để hoàn
chỉnh mà chỉ muốn yên thân đến trở thành đồng lõa dẫn đến thất bại
chung của dân tộc. Sau hơn mười mấy năm gọi là "học tập cải tạo"
kia, cộng sản muốn gột rửa tư tưởng anh nhưng lại vô tình hé mở cánh
cửa cho anh nhìn thấy một vùng trời khác, lẽ ra anh phải thấy từ
những ngày xa xưa.
Hối
tiếc về một thời kỳ bị đánh mất, anh muốn có cơ hội đền tội một cách
tích cực. Một bộ óc đã tiếp thu nhiều dữ kiện từ những ý thức hệ đối
địch nhau, biết tự do suy nghĩ và biết phân biệt, gạn lọc những tri
thức, đương nhiên phải đưa anh đến chỗ có hành động thuận lý với
chính mình.
Thời thế đã trả người chiến sĩ giác ngộ kia về lại chiến trường xưa,
cho anh sống lại một thời ngang dọc, không chút mặc cảm. Một ngày
nào đó, cảnh thiên đường mà anh đã một lần lỡ tay góp phần đánh mất,
sẽ được tạo dựng trở lại với bàn tay đầy ý thức của anh. Bấy giờ
niềm vui của gia đình sẽ đồng điệu hoà nhịp cùng với niềm vui đích
thực, lồng vào nỗi hân hoan rộng lớn của quê hương và dân tộc.
Phan Quân
|