Những phi
vụ ớn xương sống
Trong cơn bão tuyết
Trong
buổi ban đầu, khoảng giữa thập niên 1950, Không Quân Việt Nam Cộng
Hòa (KQVN) còn ở lứa tuổi hoa niên nhưng cũng đã dấn thân vào những
chuyến bay hải ngoại, đi đây đi đó cho biết người biết ta với thiên
hạ. Chỉ với những "Con Hải Âu" (Gooney Bird) thời xửa thời xưa của
ngành hàng không Hoa Kỳ mà KQVN đã bạo dạn mang màu cờ sắc áo đi
trình làng khắp đó đây trên vòng cung phía Tây của Thái Bình Dương.
Những chiếc phi cơ vận tải quân sự hai động cơ dưới tên gọi C-47,
một biến thể nhà binh của chiếc Dakota DC-3, được đưa ra sử dụng từ
thập niên 1930, đã bị các không quân cường quốc liệt vào hàng phế
phẩm. Thế nhưng, đó là loại máy bay quan trọng nhất, vì tiên tiến và
to lớn nhất đối với các chiến sĩ KQVN, những con người mới bắt đầu
tập tễnh vào làng bay bổng. Nhưng có khó mới ló khôn, nên các phi
hành đoàn vận tải đã lớn mạnh và tinh khôn qua thử thách, kinh
nghiệm và hiểm nguy.
Trong một chuyến bay thao dượt đường dài trên đại dương, phi cơ đi
từ Sài Gòn đến Tokyo, qua những chặng dừng cánh kỹ thuật để tiếp tế
nhiên liệu dọc đường tại Hong Kong và Okinawa. Trong chuyến về, ở
chặn đầu Tokyo-Okinawa, phi cơ phải xuyên qua một tuyến khí tượng
lạnh khổng lồ, sừng sững cao hàng nghìn dặm và rộng lớn hàng mấy
nghìn dặm. Chui vào tuyến lạnh đó, chiếc C-47 bắt đầu lao mình vào
một vùng tuyết trắng dày đặt mà phi cơ lại không có hệ thống giải
băng để làm cho nước đá ở cánh và ở thân máy bay tan đi. Chỉ còn có
cách là cho hơi nóng thổi vào mặt kính buồng lái để có thể nhìn thấy
được bên ngoài.
Phi cơ không làm sao leo lên quá cao để bay bên trên cơn bão tuyết
được vì bị hạn chế về chiều cao, vả lại hệ thống dưỡng khí trên máy
bay chỉ có thể hữu hiệu tới mức 12.000 bộ. Thế là đành phải bay
xuống thấp, với hy vọng rằng xuống phía dưới, tuyết sẽ thành mưa và
như thế lớp tuyết, càng lúc càng dày ở cánh, sẽ tan đi.
Buồn thay, đã xuống tới chiều cao 1.000 bộ rồi mà quanh phi cơ cũng
vẫn là một khối tuyết trắng ngần! Máy vô tuyến trên phi cơ vẫn hoạt
động bình thường, thế nhưng vì cơn bão tuyết và do chỗ phi cơ bay
quá thấp nên máy thu nhận lúc được, lúc không. Máy vô tuyến lượng
giác của máy bay không còn đo được góc độ của mình so với vị trí của
một đài cố định dưới đất được nữa. Làn sóng điện bị nhiễu bởi thời
tiết xấu nên chẳng bắt được đài nào hết và cây kim ở mặt đồng hồ cứ
lắc qua lắc lại, lang thang.
Phi hành đoàn đành phải bay trong mây mù bằng cách đoán chừng, mò
mẫm dựa vào hướng bay và tốc độ chỉ trên đồng hồ. Không biết được lộ
trình chắc chắn so với mặt đất, vì không biết được tốc độ cụ thể của
phi cơ so với mặt đất và sức mạnh cũng như chiều hướng gió nên toán
bay không biết phi cơ đã bị trận bão đánh trôi giạt đến tận phương
trời nào.
Sợ rằng gió đã đưa máy bay đi quá xa về hướng Tây, lang thang vào
vùng đất Trung Cộng, trưởng phi cơ quyết định lấy hướng Ðông để hy
vọng ra khơi Thái Bình Dương. Một lúc sau, phi hành đoàn liên lạc
được với Kadena, một căn cứ KQ Hoa Kỳ đóng tại Okinawa. Kadena nhìn
thấy phi cơ trên màn hình ra-đa. Theo ra-đa thì vị trí của máy bay
lúc bấy giờ lệch hẵn phía Tây đường bay dự trù hàng trăm dặm và như
thế chuyến bay có vẻ như từ đất liền Trung Quốc bay ra!
Phi hành đoàn bị bắt buộc phải cho biết chân tướng của mình và khi
được báo là một C-47 của KQVN bay từ Tokyo về Sài Gòn thì trạm kiểm
soát không lưu không nghĩ là chuyện thật do chỗ hướng bay kỳ quái
nên hỏi gặng:
- Tại sao anh lấy hướng bay lạ đời như vậy ?
Thế là qua đối thoại, người trưởng phi cơ phải dài dòng tâm sự, kể
lể quá trình chuyến bay qua cơn bão tuyết và yêu cầu đài dưới đất
hướng dẫn về hướng Kadena và xin phép được đáp xuống hòn đảo của đất
nước Phù-Tang.
Sau khi đáp và máy bay đang lăn bánh trên đường băng, chẳng còn bao
nhiêu nhiên liệu, thì đài kiểm soát lên tiếng yêu cầu trưởng phi cơ
đến gặp người phụ trách đài. Lại một phen giải thích để xác nhận
quốc tịch của phi cơ và phi hành đoàn và để chứng minh là phi hành
đoàn không có hành động gì sai quấy, chỉ mỗi một tội là bay lạc
đường thế thôi. Trong thời buổi đó, những biến cố như vậy thường xảy
ra cho KQVN. Nhưng qua thử thách, con người dễ thăng tiến và lớn
mạnh, dù là một cuộc rút kinh nghiệm khá đắt và quá đỗi nhức tim.
Những chuyến bay âm thầm
 Bước
vào thập niên 1960, sau khi cộng sản thấy không còn hy vọng gì thôn
tính được miền Nam Việt Nam qua "tổng tuyển cử", theo như quy ước đã
ghi ở Hiệp Định Genève, cuộc chiến tranh khuynh đảo do Hà Nội chủ
xướng bắt đầu chuyển hướng mạnh mẽ dưới hình thức một cuộc chiến mập
mờ đánh lận con đen. Ngoài mặt ra vẻ đứng ngoài vòng cương tỏa, để
cho Mặt Trận Giải Phóng mình ên làm một cuộc vùng dậy, nhưng Hà Nội
ngấm ngầm đưa mật vụ quân báo và cán bộ nồng cốt - chưa nói đến
chiến cụ làm gì - xâm nhập vào phía dưới vỹ tuyến 17, lợi dụng môi
trường tự do và dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó Sài Gòn
không có được bao nhiêu tin tức tình báo về miền Bắc.
Biết ta mà không hiểu địch, chẳng khác nào như một võ sĩ mù, là
chiến đấu nắm phần thua cuộc là cái chắc, nên chi Trung Ương Tình
Báo Mỹ (CIA) quyết định phải tìm cách thu thập tin tức cộng sản một
cách thực tế và cụ thể, bằng mắt thấy tai nghe, thay vì qua những dữ
kiện do vệ tinh cung cấp. Mà người Mỹ da trắng, mắt xanh, mũi lõ thì
không thế nào tiến hành hiệu quả công tác mật vụ trong lòng đất địch
miền Bắc được. Nên chi họ bèn nghĩ đến những người lính chiến Việt
Nam, máu đỏ da vàng, qua đó máy bay Việt Nam bắt buộc phải là phương
tiện hiệu quả nhất để đưa và cài đặt người vào miền Bắc.
Vậy là một tổ công tác mật bắt đầu hình thành bên trong KQVN. Mỹ đưa
một vài huấn luyện viên, dưới dạng dân thường, đến để đào tạo phi
hành đoàn đặc vụ. KQVN chỉ định một số người tín cẩn, đáng tin cậy
và kín miệng vào công tác liên hệ. Trưởng toán phi đội đặc vụ là
đương kim Chỉ Huy Trưởng Liên Phi Ðoàn Vận Tải (LPĐVT), có đủ uy tín
chỉ huy và có khả năng đưa phương tiện yểm trợ công tác mà không bị
lộ. May mắn thay, đó là một cấp lãnh đạo chịu chơi, dám lãnh phần
nguy hiểm, một điều kiện quá cần và thật đầy đủ để cho công tác có
thể thành công. Thực vậy, vì người và phương tiện để tiến hành công
tác thầm kín này đều lấy từ đơn vị của ông. Nhờ vậy mà công tác bảo
mật càng được trọn vẹn.
Thế nhưng, việc Chỉ Huy Trưởng LPÐVT tình nguyện điều khiển toán đặc
vụ này cũng phải trải qua một phen giằng co khá gay gắt giữa Tư Lịnh
KQ và đương sự. Trong danh sách phi hành đoàn mật vụ do đơn vị đưa
lên Bộ Tư Lệnh KQ, tên của chỉ huy trưởng LPÐVT đứng hàng đầu, một
tình hình làm cho tư lệnh KQ thấy khó chịu vì ông cho rằng một chỉ
huy trưởng đơn vị không thể và không nên tình nguyện tiến hành những
phi vụ "chấp hết cả nhất sinh thập tử". Đó là chưa bàn đến chuyện uy
tín và nổi danh. Nhưng CHT/LPÐVT thì lại nghĩ rằng người cầm đầu thì
phải đứng đầu sóng ngọn gió, phải biết hết những nguy hiểm gian lao
thì người thừa hành mới liều thân và hăng say chấp nhận. Chung cuộc,
vì nhu cầu công tác, lý lẽ của ông CHT/LPÐVT đã nặng ký hơn.
Thế là, hai chiếc C-47 bị tẩy xóa trần trụi hết mọi dấu vết nói lên
đơn vị và quốc tịch, chỉ còn lại một màu nhôm trắng toát, được dành
riêng cho việc huấn luyện biệt vụ. Và hai phi hành đoàn được chỉ
định đặc biệt để bay tập trên hai con "Cò Trắng" này. Những chuyến
bay tập là những phi vụ về đêm, khởi hành từ Tân Sơn Nhứt bay lên
miệt núi rừng Ðà Lạt. Các huấn luyện viên Hoa Kỳ bay cùng với phi
hành đoàn Việt Nam một đôi ngày và sau khi đã biết được khả năng và
trình độ rồi thì để cho phi hành đoàn Việt Nam bay một mình.
Sau đó, người Việt Nam phải tự lo liệu thực tập, bay đêm trong mọi
thời tiết, bất chấp gió mưa, bay sà mặt đất, bay lượn uốn khúc theo
giòng sông, bay xuyên suốt thung lũng hẹp và xoay trở máy bay trong
vùng không gian hạn hẹp về đêm.
Chỉ tiêu của những phi vụ đặc công là thả những toán biệt kích, cũng
được CIA trang bị từ đầu đến chưn, để thu thập tin tức tình báo và
để phá hoại, nếu cần. Những toán biệt kích đầy chất Kinh Kha, có đi
mà không cần biết ngày về đó, được thả xuống đất địch, mà "mấy
anh không cần phải thắc mắc", như cấp chỉ huy của họ thường nói
khi giao cho phi hành đoàn.
Trên nguyên tắc, họ sẽ là "những con người của miền Bắc", hòa tan
trong quần chúng bên kia vỹ tuyến, để cung cấp tin tức qua một hệ
thống liên lạc viễn thông đặc biệt, có tính kỷ thuật cao. Những
người biệt kích này đến những năm tháng "học tập cải tạo" sau 1975,
người ta còn gặp lại trong lao tù cộng sản!
Vì nhu cầu thực tập cho phi vụ đột nhập miền Bắc, CIA có hình thành
một sa bàn của toàn bộ đường bay gồm đầy đủ chi tiết địa hình trên
tuyến bay, kể cả núi, sông, đường lộ, tuyến tải điện cao thế, cầu
cống và mọi chướng ngại vật có thể có ở chiều cao. Sau giai đoạn
thực tập tổng quát, hai phi hành đoàn đặc công được đưa lên căn cứ
KQ Biên Hòa để thao dượt thực tế trên sa bàn.
Ðến giai đoạn này, vì nhu cầu bảo mật công tác, phi hành đoàn bị cấm
trại trăm phần trăm, không được rời hiện trường với bất cứ lý do gì.
Hai phi hành đoàn "Cò Trắng" luyện tập ngày đêm trong phòng lái của
một chiếc C-47, đậu trong một nhà chứa máy bay khóa kín, để tránh
những cặp mắt tò mò. Nhiệm vụ của phi hành đoàn là đưa máy bay đến
đúng chỗ và đúng thời điểm trên đất địch.
Những chuyến bay dự phóng sẽ được thực hiện ban đêm và trên tuyến
bay sẽ không có nhiều chỉ dấu có thể nhìn thấy được để làm chuẩn.
Một khi đã vào đất liền, phi hành đoàn chỉ còn biết dựa vào những
yếu tố lý thuyết, tính toán trên giấy tờ, để điều hành máy bay. Như
thế phi hành đoàn phải chia lộ trình bay ra làm nhiều đoạn ngắn, mỗi
đoạn khoảng năm phút bay, phải quan sát kỹ tốc độ trên đồng hồ và cứ
đúng mấy phút là phải đổi hướng bay đúng theo dự tính. Ngoài trời
tối đen, trong phòng lái cũng đen như mực Tàu, thế nhưng không được
quyền đốt đèn, dù là để đọc bản đồ, vì sợ phòng không phát hiện. Thế
là phi công phải thuộc nằm lòng toàn bộ hành trình phi vụ.
Xuyên suốt mười hai tiếng trong ngày, phi hành đoàn phải dượt đi
dượt lại đến thuộc làu phi trình và mọi công tác khác của chuyến
bay. Trong quá trình tập dượt cũng như trong phi vụ, hoa tiêu phụ và
điều hành viên phải đứng kề bên phi công trưởng, đếm từng phút một
và nhắc cho người cầm cần lái những động tác phải làm như:"Còn 3
phút, còn 2 phút, tốp, đây là khúc quẹo của con sông, quẹo trái 30
độ, còn 1 phút nữa,..." Người điều khiển máy bay phải nhớ từng chi
tiết một của chuyến bay, không phải bận tâm đến bản đồ cũng như
không cần biết lộ trình thực tế bên ngoài của chuyến bay.
Ðể cho phi vụ được hoàn hảo, phi công phụ và điều hành viên cũng
phải thuộc nằm lòng các chi tiết của chuyến bay. Dượt đi dượt lại
mãi, phi hành đoàn gần như bị ám ảnh, thậm chí trong giấc ngủ họ
cũng còn thấy hành trình chuyến bay, thấy bản đồ vùng bay qua, thấy
lộ trình như con đường học trò thuở nhỏ, thấy cảnh quang núi đồi bao
quanh, thấy khúc quanh của con sông, thấy cây cầu bắt ngang, thấy
đường dây tải điện,...
Trước ngày N một ngày, phi hành đoàn bay ra căn cứ KQ Ðà Nẳng làm
trạm dừng chân để rút ngắn đoạn đường phải bay qua. Và cũng là một
ngày nghỉ lấy sức, nhưng không một ai còn đủ khả năng để ngủ hay
nghỉ ngơi nữa. Chiều ngày N, những người đặc công và phi hành đoàn
cùng nhau dùng cơm tối, một bữa ăn không ai nói với ai nhưng đều cảm
thấy như bữa ăn cuối cùng.
Thức ăn thừa mứa và ngon miệng nhưng nào ai nuốt được. Trời sụp tối,
phi hành đoàn kiểm điểm lại phi cơ một cách tỉ mỉ. Phi hành đoàn
cũng như chiến sĩ biệt kích đều mặc bà ba đen, trông như những nông
dân. Dàn cảnh đúng mức, CIA phát cho phi hành đoàn tiền, thuốc lá và
thậm chí cả hộp diêm Bắc Việt, dự phòng trường hợp máy bay lâm nạn
trên đất địch, phi hành đoàn sẽ có cơ may trà trộn được vào quần
chúng địa phương!
Ngoài ra, mỗi đoàn viên phi hành cũng được phát cho một trăm Mỹ kim
để, nếu cần thì "mua chuộc" một người nào đó mà thoát hiểm?! Một lối
suy nghĩ rất ư là ngây thơ kiểu Hoa Kỳ vì nếu có sống sót qua tai
nạn phi cơ, phi hành đoàn phải may mắn lắm mới sử dụng được "tiền
Bác" hoặc phì phà được điếu thuốc lá Hà Nội, chưa chắc gì hấp dẫn
hơn thuốc lá "chân co, chân duỗi" của quân tiếp vụ nhà binh VNCH.
Mọi chuyện xong xuôi, con "Cò Trắng" rời sân bay Ðà Nẳng, lên cao
rồi lấy hướng ra biển, tiến ra miền Bắc cho đến khi hết thấy đất
liền thì bắt đầu xuống thấp. Vì bay trong không phận Bắc Việt và xâm
nhập lén lút nên phi cơ chẳng cần phải theo một kế hoạch bay nào
định trước. Máy bay xuống thấp và xuống thấp tới chừng nhìn thấy bọt
biển nhấp nhô trên đầu sóng thì chuyển sang thế bình phi.
Bấy giờ phi cơ bay sà mặt biển, chỉ còn cách những ngọn sóng khoảng
từ 3 đến 4 bộ với tốc độ khoảng 200 hải lý/giờ, hay càng nhanh nữa
càng tốt, để trốn ra-đa cộng sản. Ðến điểm dự tính, máy bay lấy
hướng 330 độ bay thẳng vào cửa Sông Hồng, tới ngang Thanh Hóa là "Cò
Trắng" bắt đầu vào vùng đất thù địch.
Máy bay lên cao một tí để tránh những cây cầu và đường dây điện, lần
mò theo giòng Sông Hồng bay thẳng tới vùng thả dù. Ðịa thế lần lần
lên cao, lòng sông thu hẹp lần hồi và núi non sừng sững bao quanh.
Hoa tiêu phụ cùng với điều hành viên đọc chương trình chi li từng
phút một và từng góc độ đổi hướng để cho phi công trưởng có thể vào
vùng thả dù một cách chính xác.
Một chiếc dù bọc gió, rồi hai chiếc, rồi... tất cả những chiếc dù lơ
lửng xuống nhẹ, sau đó máy bay lấy hướng thẳng qua Lào và luồn lách
địa thế cho đến khi ước đoán ra khỏi vùng trời Bắc Việt là vọt lên
cao 12.000 bộ bay về hướng Nam cho đến khi có thể đổi qua hướng Ðông
để về vùng trời quê hương.
Một phi vụ toát mồ hôi lạnh đã hoàn thành, sau bao nhiêu là công lao
khổ luyện! Thông thường, các phi vụ đặc công này được tiến hành vào
lúc trăng tròn để nhờ ánh trăng mà phần nào trông thấy được vùng mục
tiêu.
Cùng với thời gian và nhu cầu công tác, những toán phi hành đặc công
cũng gia tăng số lượng lên khoảng năm hoặc sáu. Mấy tháng kế tiếp,
số công tác thực hiện gia tăng, mỗi lần qua một phi trình khác và
thả biệt kích xuống một địa điểm khác. Càng thêm chuyến bay, thủ tục
điều hành càng được hoàn chỉnh thêm. Chẳng hạn như thay vì đến trạm
dừng cánh bay ở Ðà Nẳng trước một ngày thì cất cánh Tân Sơn Nhứt rồi
dừng lại Ðà Nẳng để lấy nhiên liệu và kiểm điểm thời tiết lần cuối
rồi cất cánh ngay. Mỗi chuyến bay là một kinh nghiệm sống nhưng dù
sao cũng không thấy trước được những chuyện bất ngờ.
Trong những phi vụ đặc biệt này, KQVN chịu thiệt hại chiến cụ và tổn
thất nhơn mạng khá nhiều. Lần lần về sau, khi có quyết định đưa
chiến đấu cơ yểm trợ "Cò Trắng", số những chiến sĩ KQ nằm lại núi
rừng Bắc Việt lại càng gia tăng. Đó là chưa nói đến những anh biệt
kích được thả xuống đất địch, như đem con bỏ chợ. Ngày về rất bấp
bênh!
Hết hồn vì phe ta
Có
một phi vụ được hoàn thành tốt đẹp, tròn trịa, không chút sơ suất.
Máy bay tới vùng thả dù đúng hướng, đúng giờ, đúng địa điểm, trời
quang, mây tạnh. Tất cả toán biệt kích xuống dù hoàn hảo, xong phi
cơ vọt lên cao độ lấy hướng vào vùng trời vương quốc Ai Lao. Người
phi công trưởng thấy công việc còn lại chỉ là thông lệ bèn giao cho
phi hành đoàn để ngủ nghê một tí lấy lại sức, may ra còn "là la lý",
khi hạ cánh đáp Tân Sơn Nhứt.
Khoảng hai giờ sau, trưởng phi cơ bị lôi ra khỏi giấc mộng đẹp vì
hoa tiêu phụ và điều hành viên cảm thấy phi cơ bay lạc tận đâu đâu,
thay vì đến Ðà Nẳng. Phi cơ đang ở cao độ 13.000 bộ và bên dưới là
một vùng biển mây trắng mênh mông và vô tận. Phước bất trùng lai,
họa vô đơn chí, tất cả phương tiện vô tuyến trên máy bay đều như câm
như điếc! Bấy giờ chỉ còn có cách đoán mò mà bay.
Phỏng đoán phi cơ đang bay lạc về hướng Tây-Bắc, lang thang trong
vùng trời Miến Ðiện hay Trung Quốc gì đó, người phi công trưởng lấy
đại hướng Ðông-Nam và ước chừng khoảng một tiếng rưởi nữa thì phải
đến miền duyên hải Việt Nam, miệt Ðà Nẳng.
Bờ biển Trung Việt núi đồi sừng sững, thế nhưng sau khi bay theo
dụng cụ khoảng 90 phút, theo lý thuyết đã trải qua 300 hải lý, mà
phi hành đoàn chỉ thấy mây là mây. Nếu đúng như dự đoán thì giờ đó
máy bay phải về gần đến Ðà Nẳng và không chừng ra ngoài khơi biển
Nam Hải. Bình xăng đã gần cạn, kim đồng hồ nhiên liệu chỉ mức báo
động, chỉ còn có nước phải xuống thấp, hy vọng rằng khi qua khỏi lớp
mây thì sẽ nhìn thấy đất liền. Bằng không thì đâm vào núi, thế thôi!
Năm ăn năm thua, nhứt sống nhì chết, chớ biết sao bây giờ?!
Phi cơ xuống đến 7.000 bộ cũng còn nằm trong lớp mây dày đặc, trong
khi kim đồng hồ xăng nằm ở mức cuối cùng, thời gian bay không còn
bao lâu nữa. Lịnh chuẩn bị sẵn sàng nai nịt để đáp xuống biển đã
được ban ra. Phi hành đoàn như nín thở để chờ biến cố quan trọng cho
đời mình. Người thì xin Chúa, kẻ cầu Trời khẩn Phật, làm dấu Thánh
Giá, chấp tay niệm Phật cứ lung tung!
Ðồng hồ cao độ chỉ 2.000 bộ thì bỗng nhiên một cây mưa xối xả đổ lên
phi cơ. Bấy giờ là vào lối 3 giờ sáng, đèn hai bên cánh được bật
sáng nhưng chỉ thấy toàn những sợi mưa rơi, nhưng tắt đèn đi thì bên
ngoài trời tối đen như mực Tàu. Cũng phải tiếp tục xuống thấp và khi
đến cao độ 300 bộ thì bắt đầu thấy sóng bạc đầu.
Máy bay chỉ còn ở độ cao 200 bộ và trưởng phi cơ đang chuẩn bị đáp
xuống biển thì ông thoáng thấy một ánh đèn bên phía trái. Cho máy
bay lên cao trở lại và đổi hướng về phía ánh đèn thì y như rằng đó
là Ðà Nẳng! Thời đó sân bay Ðà Nẳng không hoạt động về đêm nên chẳng
có đèn đóm gì hết mà cũng chẳng có đài kiểm soát để liên lạc. "Cò
Trắng" bay dọc theo bờ biển để tìm đường phi đạo sân bay, rồi đáp
với ánh sáng của hai ngọn đèn pha bên cánh và sau khi lăn bánh được
khoảng 300 thước thì hai động cơ ngừng hẳn vì hết xăng.
"Cò Trắng" nằm chình ình giữa phi đạo, phi hành đoàn kẻ tạ ơn Chúa,
người cám ơn Trời Phật, thở phào ngồi đờ người ở vị trí của mình,
chờ "ủy ban tiếp đón" của phi trường. Một cuộc chào mừng chắc sẽ có
phần gay go vì toàn bộ phi hành đoàn đều ăn mặc bà ba đen, như Việt
Cộng. Không thấy ai đến hỏi han, toán bay lững thững đi đến hàng rào
kẽm gai thì có tiếng lên cò súng và la to :
- Ai đó? Ðứng lại!
- Quân bạn mà.
- Mật khẩu?
- Chúng tôi không biết mật khẩu. Cho gặp chỉ huy trưởng căn cứ đi.
Khi chỉ huy trưởng căn cứ đến thì ông hết sức ngạc nhiên, nhận ra
quân bạn nhưng không biết tại sao lại có mặt ở đây trong giờ phút
đó. May mắn thay, không chết vì đạn địch, không tịt vì tai nạn máy
bay mà cũng không phải nằm xuống, vì lính canh quân bạn sợ hãi mà nổ
súng!
Tổ Quốc ghi công
Cái
may mắn trên đây của phi hành đoàn chuyến bay đêm đó chỉ là muôn
một, vì xuyên suốt công tác đã có khá nhiều bạn bè, "viên hạc sa
trùng", cánh sắt bọc thây, nằm lại trên đường hành quân, "nằm
xuống, không bạn bè, không có ai, từng ngày, không có ai đời đời..."
nằm xuống để đi vào cõi vĩnh hằng. Có kẻ đã phơi thây trên vùng
lửa đạn, có người đã lấy xác phi cơ làm "da ngựa" bọc thây! Có anh
sống sót sau tai nạn phi cơ nhưng bị cộng sản cầm tù cải tạo, hành
hạ, quản chế rồi, may mắn thay, được bay bổng đến vùng đất tự do.
Về phần những chiến sĩ biệt kích, những người mà "các anh cứ thả
xuống, không phải thắc mắc" năm nào đó, thì tổn thất không phải
nhỏ! Không có tinh thần đem con bỏ chợ, phi hành đoàn đặc vụ cũng
theo dõi số phận của những chiến hữu mà họ đã thả xuống miền đất
địch.
Hầu hết đã bị cộng sản bắt trong vòng vài ba ngày sau khi họ đặt
chân xuống đất. Có người bị bắn chết, có kẻ bị cầm tù, gần 30 năm
sau mới được tha. Khi mở chiến dịch, CIA cứ suy nghĩ ngay tình một
cách đơn giản và ngây ngô, mà quên đi những điều kiện thực tế.
Chẳng hạn như người dân miền Bắc thường đi chân đất hay nhiều lắm là
mang dép râu trong lúc biệt kích nhảy xuống đều đi giày da. Nông dân
miền Bắc thường thường có gì mặc nấy hay mặc quần áo nâu trong khi
đó CIA cho biệt kích mặc quần áo đen. Còn nhiều điều khác biệt về
ngôn ngữ, về cung cách xử sự, về thói ăn cách uống. Hơn nữa xã hội
cộng sản miền Bắc được kiểm soát và đội ngũ hóa gắt gao đến độ một
người lạ xuất hiện là bị lộ ngay. Cho nên, vào năm 1961 chiến dịch
đó đã chấm dứt vì không hữu hiệu, vì thu không bù chi.
Do đó, nổ lực đi tìm tin tức quân báo trong lòng địch của CIA coi
như hoàn toàn thất bại. Ðể bù đắp lại, chính phủ Hoa Kỳ có tặng cho
mỗi người đã sang Mỹ 50.000 đô-la gọi là tiền trợ cấp để tạo dựng cơ
ngơi. Thế nhưng, sinh mệnh và tự do của một con người là vô giá.
Những đau khổ và hy sinh mà họ dành cho đất nước và dân tộc Việt Nam
đáng được đời đời Tổ Quốc ghi công. Giờ thì chỉ còn biết cầu mong
cho những chiến hữu huynh đệ, đã nằm xuống cũng như còn hiện diện
trên cõi đời này, thấy được "bóng thiên đường, cuối trời thênh
thang"!
Phan Quân
ù
|