Hồi ký Clostermann
Ánh lửa chiều tà
Pierre
Clostermann (1921-2006) là người Pháp, sanh ở Brésil, con của một
gia đình danh giá. Ông học lái máy bay ở Brésil qua một người thầy
người
Đức. Thế Chiến thứ II bùng nổ, theo lời khuyên của cha, ông đầu quân
vào FAFL (Force Aérienne Française Libre, Lực Lượng Không Quân Pháp
Tự Do). Ông được KQ Hoàng Gia Anh đào tạo chiến đấu, trước khi xung
vào KQ Pháp.
Ông lập được nhiều chiến công hiển hách với 33 chiến thắng trên
không, tiêu diệt 225 xe tải, 72 đầu máy xe lửa, 5 chiến xa, 2 ngư
lôi hạm. Ông thực hiện được 2.000 giờ bay trong đó có 600 giờ
chiến đấu. Ngoài ra ông có hoàn thành quyển "Le Grand Cirque" (Những
trận không chiến), một tác phẩm nổi tiếng, tường thuật lại những
thành tích chiến đấu trên không của ông, làm cho thế hệ trai trẻ
sanh trong những thập niên 50-60 say mê chuyện bay bổng.
* * *
Như thông lệ, lúc nào Bộ Chỉ Huy Không Chiến (BCHKC) cũng quấy rầy
chúng tôi. Hôm nay, vào lúc chập tối, họ đòi hỏi chúng tôi phải cho
một phi tuần lên bao vùng khu vực Brême-Hambourg (phía Bắc nước
Đức). Vì mấy ngày qua, Luftwaffe (KQ Đức Quốc Xã) hoạt động khá mạnh
dọc theo xa lộ. Các phi tuần SS đã bắn phá và oanh tạc các cánh quân
tiền tiêu của chúng ta, gây trở ngại đáng kể đà tiến quân và công
tác tiếp tế của họ.
Chúng
tôi đồng ý là phải bay tuần tiểu, nhưng BCHKC dường như quên rằng
phi trường Rheine Hopsten chỉ còn có một phi đạo khả dụng, quá ngắn
lại chẳng có một phương tiện gì trợ lực cho các chuyến bay đêm.
BCHKC cũng quên rằng bọn Đức thường hoạt động ngay sau khi mặt trời
lặn. Trong sương mù, từ những vùng đầm lầy Elbe bốc lên, và qua
những đám mây thấp, phản chiếu ánh sáng cuối cùng của chiều tà, nên
muốn bám được mấy chiếc Focke Wulfs bay từng nhóm nhỏ cũng chẳng
khác gì tìm kiếm cây kim trong đống rơm bãi rạ.
Vã lại, chúng tôi rất thiếu máy bay. Hỏi khéo lắm thì "Chieffy",
trưởng ban bảo trì, cũng cho biết là được khoảng chín chiếc khả dụng
và cố gắng lắm thì, vào lúc 20 giờ, cũng chỉ được mười chiếc. Thế là
tôi quyết định chọn giải pháp trung dung, giao cho Bruce Cole sáu
chiếc Tempest để bay không thám vũ trang bình thường, còn bao nhiêu
thì giữ lại... Được toàn quyền hành động, nhưng chưa hiểu rành nhân
viên, tôi chọn Mac Intyre và Gordon, những phi công mà tôi muốn trắc
nghiệm trong một phi vụ khó khăn.
Chúng tôi cất cánh lúc 19g36. Gordon gặp trở ngại khi nổ máy nên
chúng tôi phải mất mười phút quý báu khi trời đất chạng vạng vì phải
bay vòng vòng trên không để chờ. Lúc 19g45, tôi hướng về Brême, bay
sà mặt đất. Chẳng thấy gì, chỉ một vài tràng đạn lửa ở chân trời bị
ánh chớp cơn bảo khỏa lấp. Một vài ngôi nhà bốc cháy. Đây đó trong
khu rừng thông bạt ngàn, những cơn cháy rừng cứ âm ỉ. Một cơn mưa
rào chợt đến làm cho những đám mây trời xuống thấp hơn nữa.
Tôi chỉ lờ mờ trông thấy chiếc phi cơ của Gordon. Tầm nhìn càng lúc
càng tệ hơn. Thật đáng ngại! Quân Đức nhứt định sẽ bay lên và tôi
cũng không muốn cứ bay sà mặt đất trên vùng lãnh thổ địch. Tôi mở to
mắt nhìn xuyên qua màn mây mù. Hambourg chắc là ở một nơi nào đó
đàng trước tôi, cũng gần thôi trong đám mây mù kia, với những dàn
phòng không kinh khủng. Kệ xác, tôi quay lại!...
Tôi bám sát xa lộ thẳng băng, trên mặt ngụy trang bằng những đốm
nhựa đường loan lổ. Đó là điểm chuẩn duy nhứt trong mớ hổ lốn này.
Con đường đó là lằn ranh của cánh tiền tiêu quân bạn.
Cũng
phải vào khoảng 20g30. Mưa nặng hột hơn. Chúng tôi bay ào bên trên
các toán kỵ binh Anh và Mỹ làm cho họ hoãn sợ kinh khủng. Đúng là
mấy cha nội không chịu học cách nhận diện phi cơ ta và địch.
Chúng tôi bay bên trên một chi đoàn tăng "Churchill" rải rác trên
một cánh đồng, thế là binh lính bỏ chạy tứ tung, núp dưới chiến xa,
nhào xuống hố... Vì trong vùng này, họ đã bị máy bay Đức xạ kích mấy
đêm qua, cũng vào khoảng này, nên họ thận trọng. Vã lại đây là lần
đầu tiên phi cơ RAF (Royal Air Force, KQ Hoàng Gia) hoạt động muộn
trong khu vực.
Thời tiết tệ quá. Cách xa năm trăm thước, không trông thấy được một
trung đoàn Focke Wulf. Tôi vẫn canh chừng cẩn mật. Khoảng 20g35.
Liếc nhìn bên cạnh, tôi thoáng thấy phía sau đuôi có một hỏa tiễn đỏ
và xanh bắn lên từ tuyến bạn, sau đó nổ tung phát ra những lằn lửa
mất hút trong những đám mây. Trời, có chuyện gì đây, quân Đức chăng?
Tôi vừa quẹo trái vừa báo cho phi cơ đồng hành cảnh giác.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy một sự va chạm mạnh, ngay dưới chỗ ngồi,
đồng thời chân tôi thấy nóng bỏng. Đạn lửa bay rất gần chiếc Tempest
của tôi. Trời, thế này là hết chuyện rồi! Mấy thằng trời đánh đó bắn
mình và may mắn thay lại nhắm không trúng! Tôi quẹo gấp, vừa quẹo
vừa chưởi thề, nhưng bọn nó làm gì nghe thấy.
Hai đoàn viên của tôi cũng quẹo theo, bị mấy lằn đạn phòng không,
càng lúc càng dày đặc đuổi sát. Chúng tôi lắc cánh ra hiệu, đốt đèn
cánh lên, làm mọi cách để cho quân bạn nhận diện. Nhưng vô ích...
Chán quá, tôi định cho bánh đáp ra thì thình lình khoảng ba mươi
chiết Fock Wulf xuất hiện, như một bầy cá lội dưới lườn ghe. Chúng
bay thật sát đất, hình bóng thon dài và nhanh nhẹn luồn lách qua lùm
cây bụi cỏ, đàng sau là những ổ khói của bom nổ chậm mà chúng ném
xuống bãi xe tăng của quân bạn.
- "Filmstar", coi chừng, Focke Wulf ở hướng 2 giờ! Chúng nó đang tấn
công!
Tôi cho chiếc Tempest chao qua rồi tống ga nhào xuống quân Đức.
Nhưng ngay lúc tôi định bóp cò thì bản năng khiến tôi ngoái đầu nhìn
ra phía sau. Khoảng 12 chiếc Focke Wulf bay hợp đoàn sát cánh nhau
từ trong mây xuất hiện, cách hai đoàn viên của tôi chừng vài
thước... Trong lúc đó, phòng không nhả đạn tới tấp và mưa cũng ồ ạt.
Mấy chiếc Focke Wulf mũi dài bay tỏa ra mọi hướng. Tầm nhìn còn tệ
hơn lúc nãy. Ấy thế mà hai thằng Đức lại cả gan bay tạt qua trước
mũi tôi, gần kề đến đổi hồn vía tôi lên mây. Tôi cố tránh không để
máy bay đụng nhau trong bóng tối. Như vậy thì thật là cà chớn! Vã
lại tôi chưa có dịp thuận tiện để bóp cò.
Bỗng dưng có tiếng thét trên tần số. Hoảng sợ, Gordon la hét liên tu
và nói liền miệng những câu không đâu vào đâu. Anh ta vừa bị trúng
đạn phòng không của quân bạn và vừa bị một chiếc Focke Wukf bắn
trúng. Một chiếc Tempest, chắc là chiếc của Gordon, vượt thẳng lên
cao, kéo theo một cái đuôi khói màu xám dài thòn, bị bốn chiếc Focke
Wulf đuổi theo... Tội nghiệp cho Gordon!
- Pierre, coi chừng! Tách đi! Tách đi!
Chưa kịp hiểu là người ta gọi tôi trên tần số, tôi kéo cần lái vào
bụng, nhưng đã muộn rồi. Tôi bị trúng đạn bên dưới bình xăng. Đạn
chạm mạnh quá làm cho chân tôi bật ra khỏi bàn đạp. Buồng lái tràn
ngập một làn khói khó ngưởi, sặc mùi thuốc súng. Trong thoáng mắt,
tôi nhìn thấy cái cánh vuông cạnh, có hình chữ thập đen xẹt qua
trước mặt chừng vài ba thước. Sức thổi của chiếc Focke Wulf mạnh đến
đổi cần lái vuột khỏi tay tôi... Tự động, tôi cho phi cơ làm một
vòng xoáy nhào xuống đến đầu ngọn cây, tôi kéo lên, miệng tôi muốn
nôn vì sợ thì một ngọn lửa liếm lấy hai chân tôi.
Tôi cảm thấy sức nóng xuyên qua đôi ủng, làm đau nhói thêm vết
thương ở chân phải. Tôi cúi người xuống và mò mẩm xem ngọn lửa xuất
phát từ đâu. Bỗng nhiên, băng! băng! tôi lãnh thêm hai quả đạn nữa.
Phen này thì động cơ của máy bay tôi tịt hẵn và tim tôi cũng thế.
Cho phi cơ trợt hẵn qua một bên thật táo bạo làm cho người tôi như
dán vào thành máy bay, giảm tay ga rồi từ từ tăng ga tối đa. Động cơ
nổ trở lại, thế là bình thường... Cần lái vào bụng, tôi leo lên cao
tận chóp mây. Quanh tôi là một thứ hỗn tạp kinh người, bọn phi cơ
Đức thi nhau bắn vào tôi, chiếc vọt lên, chiếc nhào xuống, chiếc bay
quanh. Như một bầy ong vây lấy tôi.
Trong bóng mờ, tôi thấy một tên quẹo về hướng tôi, lắc nhanh đôi
cánh và nhào vào tôi. Tôi bật ngược lại ngay, đối đầu với nó, nhả ra
một tràng đạn, dĩ nhiên là hụt, tôi đâm ngay xuống bên dưới nó vài
ba thước. Tôi bay ngược trở lên ngay, chân trái tống mạnh vào bàn
đạp. Chiếc Tempest của tôi rung chuyển, bắt đầu rơi rụng nhưng cũng
quay vòng thật gắt, hai đầu cánh vẻ vào không trung hai đường trắng.
Bị bất ngờ, chiếc Focke Wulf bối rối bèn quẹo sang phải, hơi quá lố
rồi chấn chỉnh lại, sau đó quẹo sang trái... Như vậy là tầm bậy rồi!
Bây giờ, tôi ở trong thế thuận lợi, cách mục tiêu không đầy hai trăm
thước. Chốp thời cơ, tôi không để cho nó chuẩn bị tư thế, điều chỉnh
đường bắn và lập tức cho bốn cây cà-nông của tôi nhả đạn cùng một
lúc. Tia chớp rọi sáng thân và đôi cánh chiếc máy bay Đức. Mảnh vụn
tung tóe trong đám khói đen mù mịt. Cửa kiếng buồng lái bung ra,
quay cuồng và tôi trông thấy thằng Đức, hai tay dính chặt thân phi
cơ vì tốc độ rơi xuống quá nhanh, đang tìm cách nhảy dù.
Thế là chiếc Focke Wulf quay cuồng, đâm xuống đất, nẩy lên, chặt đứt
cây thông, tia sáng bay tứ tung và lửa bắt đầu cháy lên và cuối cùng
thân phi cơ rơi xuống hố sâu. Một tiếng nổ kinh khủng và ngọn lửa
soi sáng cả một vùng rừng núi rộng hàng trăm thước bao quanh! Thêm
một tên nữa bị hạ!
Bây giờ, thời tiết quang đảng hơn. Dải sương mù như đã tan đi, để lộ
về phía chân trời một vùng không gian ẩm ướt và vàng úa, soi sáng
một khu rừng thông chạy hút xuống vùng đầm lầy... Bên trái, một đám
cháy dữ dội, thiêu rụi bãi đậu chiến xa cùng với những xe bồn chở
xăng và xe tải chở đạn dược. Như những cánh bướm đêm đen, bốn chiếc
Focke Wulf bay quanh ngọn lửa và thỉnh thoảng nhả vài ba loạt đạn
vào đám cháy. Tôi không dám tấn công vì tôi biết còn có những chiếc
khác đang lảng vảng trong bóng đêm.
Ô
kìa, một chiếc phi cơ đơn độc lướt trên đầu ngọn cây bay về Brême,
với những cột ống khói cao nghệu. Nhiệt độ động cơ máy bay của tôi
lên đến 125° và áp lực dầu xuống còn có 55. Tôi đành mở hệ thống làm
nguội động cơ và giảm ga, vòng quay chong chóng xuống còn 3500. Tuy
vậy, tôi vẫn đuổi theo kịp chiếc Focke Wulf đang bay về hậu cứ sau
khi bắn hết đạn.
Chúng tôi đang bay trên thành phố Brême, chiếc máy bay Đức bay trước
mặt tôi chừng ngàn thước. Chuyện này có thể đưa tôi đi khá xa. Tôi
đóng hệ thống làm nguội động cơ lại và tống ga. Máy bay "Grand
Charles" của tôi có phản ứng thuận lợi ngay.
Chúng tôi bay bên trên con sông Weser, lối vào bến tàu. Chúng tôi
bay ào qua những mảnh vụn của cây cầu chuyển hàng. Hai bên là sườn
nhà cháy đen, một vài cây cần cẩu còn đứng trơ như những bộ xương
đen ngòm. Đột nhiên, một chùm đạn phòng không xuất hiện trước mặt
tôi, những đốm lửa bên phải, bên trái, đâu đâu cũng có. Phòng không
tự động nhảy vào cuộc, những lằn đạn lửa xẹt lên tứ tung, soi mình
trên dòng sông đen ngòm và đầy dầu, với những xác tàu chìm như các
con cá ông to xác nằm chết.
Tôi cố gắng theo dõi chiếc Focke Wulf và may mắn thay nó xuất hiện
rõ rệt trên nền trời chạng vạng tối. Phòng không tăng cường nhịp
bắn. Sau lưng tôi một tiếng ầm to lớn, rồi bỗng dưng những lằn đạn
bay tắt lịm. Thì ra, sáu chiếc Focke Wulf đang rượt đuổi tôi, tốc
lực tối đa.
Bằng một quả đấm, tôi chặt đứt sợi dây chì giữ chặt thiết bị phát
động hệ thóng tăng lực "cấp cứu" và tìm cách tăng tốc tối đa. Rất
may là có phản ứng thuận lợi ngay, máy bay vọt lên ngay với một
tiếng động kinh thiên động địa, dưới sức đẩy của ba nghìn mã lực.
Trong vài giây đồng hồ, kim chỉ tốc độ của tôi lên tới 780cs/giờ,
tôi bắt kịp tên Đức đang chạy trốn và bỏ xa mấy tên Đức đang đuổi
theo. Tôi thu ngắn được khoảng cách với chiếc máy bay Đức, chỉ còn
cách xa vài trăm thước. Tôi cố gắng tìm cách đưa chiếc Focke Wulf
vào máy ngắm cho chỉnh, xong tặng cho nó hai tràng đạn dài.
Chiếc máy bay Đức chao đão và rơi ngay, nằm sải cánh trong vũng lầy
trước mặt, làm bùng đất văng tung tóe. Cũng may là nó không lật
nhào. Cấp tốc, tôi vọt thẳng đứng lên cao và quày xuống để đương đầu
với mấy tên rượt đuổi tôi. Nhưng chúng nó biến đâu mất, có lẽ đã bay
về căn cứ, bỏ lại tên đồng bọn đã nằm lại hiện trường.
Tôi đánh một vòng bên trên chiếc Focke Wulf vừa bị bắn rơi thì thấy
tên phi công khập khiễng lôi chiếc dù bước đi. Tôi cho một phát ân
huệ xuống chiếc máy bay tan tành kia làm cho nó bốc cháy, dâng cao
nỗi hân hoan trong lòng tôi. Thế là chiếc thứ hai trong lần xuất
kích chiều hôm nay.
Phan Quân
Phỏng dịch "Flammes au Crépuscule", trích đoạn từ tác phẩm "Le
Grand Cirque" của Pierre Clostermann. |