Chuyện kể đêm khuya
Thân gái dặm trường
Sáng chủ nhựt 20 tháng tư năm 1963, mười giờ hai mươi tám phút. Chợ
Trương Minh Giảng đang nhóm đông nghẹt. Bỗng nhiên ầm một tiếng.
Khói bay mù mịt.
-
Lựu đạn! Lựu đạn!
Thiên hạ đua nhau chạy tán loạn. Tiếng còi hụ, tiếng la, tiếng khóc,
tiếng kêu than in ỏi một góc trời. Cảnh sát, cứu thương, nhà báo
quýnh quáng, chàng ràng, lộn xộn, lăng xăng.
Trong khi người ta náo loạn như vậy thì có một bé gái chừng mười
tuổi sợ điếng người, đứng núp trong một góc tường, giữa hai quán
hàng. Em quýnh quýu chưa biết phải làm gì và làm sao thì một bàn tay
chộp lấy em, vừa lôi đi vừa nói:
- Em nhỏ, chạy khỏi chỗ nầy mau lên!
Một người Pháp. Ông bồng cô bé lên và đem đi.
Cô bé tên Tuyết, học chương trình Tây, trường các bà Soeurs Saint
Paul (Trường Bà Trắng). Ông là nhà báo viết cho tờ "Le
Monde"
của Pháp. Ông đưa cô bé về nhà. Tuyết sợ bị mẹ rầy la, vì đã cãi lời
dặn, dám đi với người lạ, mà người ngoại quốc nữa, nên không thể để
cho nhà báo đưa đến tận nhà, biểu ông đứng xa xa, dưới gốc cây điệp.
Như vậy là hai người chia tay nhau.
Tuyết là con gái duy nhứt của một cặp vợ chồng son trẻ ở Hà Nội. Mẹ
Tuyết tên Giáng-Kiều, sanh cô xong hai ông bà đưa nhau vô chiến khu.
Trẻ con, với tiếng khóc không kềm hãm được, gây nhiều khó khăn cho
kháng chiến quân, cần phải giữ bí mật. Cha cô bé đành để cho vợ đem
con gái về thành sanh sống. Cuộc chia ly tưởng đâu tạm thời, sẽ sum
họp khi kháng chiến thành công. Nào ngờ đâu... Về sau, có tin là
người chồng, hai mươi lăm cái xuân xanh, "đã thành liệt sĩ, trên
chiến trường Điện Biên Phủ!"
Hiệp Định Genève được ký kết, phong trào di cư người Bắc vô Nam ồ
ạt, lôi cả hai mẹ con đi về vùng đất mới, hoàn toàn xa lạ. Trước khi
chia tay, người chồng có dặn vợ phải thực tế và thực tiễn, tùy cơ
ứng biến, miễn sao cho con thành người tự do hữu ích, đừng khư khư
giữ truyền thống mà phải gò bó với chuyện tình nghĩa trăm năm.
Sau nầy, vì nhu cầu cuộc sống, nhứt là vì tương lai của cháu Tuyết,
bà phải đi bước nữa với một ông danh giá và quyền thế, một viên chức
của chánh phủ Bảo Đại. Kết quả của cuộc hôn nhơn thứ hai nầy là một
cậu con trai, rủi thay không qua được bốn tuổi, vì chứng ung thư
cuống họng. Hai vợ chồng vì đó chia tay.
Định mệnh quá nghiệt ngã với Giáng-Kiều, đời bà chưa được bao nhiêu
năm tuổi mà đã chịu ba cái tang. Cha bà bị cộng sản xử tử bỏ xác
trên đồi hoang, chính tay bà phải đem về chôn cất. Chồng bà sống
chết không rõ mà chỉ được miếng giấy nhỏ, tuồng chữ lạ hoắc, ghi gọn
vài hàng thay cho khai tử. Cái chết gần nhứt là của đứa con trai coi
như là thừa kế của gia đình.
Bây giờ, điều quan trọng nhứt còn lại của đời bà là tự do, một phẩm
chất vì đó cha bà bị người ta giết, vì đó chồng bà đã hy sinh. Cho
nên giờ đây bà phải tiếp tục tranh đấu cho tự do, vì có tự do là có
phẩm cách và không phẩm chất đó thì cuộc đời vứt đi, chẳng còn lý do
gì để sống.
Bà đưa cháu Tuyết vô nội trú để bà rảnh tay rảnh chưn đi đây đi đó
hoạt động cho lý tưởng của bà. Tới một lúc, cuộc khủng hoảng Phật
giáo đã đưa chánh phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào một thế bí,
có nguy cơ đi đến đường cùng. Hệ quả gián tiếp có thể là Mỹ sẽ nhảy
vô cuộc chiến và cộng sản sẽ có lý do "chống Mỹ cứu nước". Nên chi,
phong trào của bà phải tích cực hoạt động.
Cứ thắc mắc cũng như bị ám ảnh luôn bởi vụ nổ lựu đạn ở chợ Trương
Minh Giảng và về ông nhà báo kỳ lạ kia, Tuyết tự hỏi không biết ông
ta là người như thế nào? Tuyết chưa kịp cám ơn ông, vì quá vội vàng,
vì sợ mẹ rầy la. Tuyết bèn nảy sanh ra ý kiến viết thơ cho ông ấy,
để biểu lộ rằng cô chưa vội quên ân nhơn.
"Thưa ông nhà báo,
"Cháu viết thơ cho ông vì sợ ông quên mất cháu. Ông còn nhớ đứa nhỏ
mà ông đưa về nhà, sau vụ lựu đạn nổ ở chợ không? Mẹ nói là nhờ Trời
Phật và Ông Bà che chở. Cháu thì cháu cho rằng nhờ ông, nhưng cháu
chẳng nói gì, chẳng nói với ai cả, thậm chí với Julie, người bạn
thân thiết nhứt của cháu. Đó là điều bí mật của riêng cháu. Bí mật
thật là trọng đại và nhứt định không khi nào cháu tiết lộ cho ai
hết, vì là bí mật thiệt tình.
"Từ khi xảy ra vụ lựu đạn, cháu không có ra khỏi nhà. Mẹ không có
ngày giờ rảnh rỗi. Mẹ nói trong thời buổi chiến tranh, không phải
muốn làm gì thì làm. Hai chiếc áo mặc ngày chủ nhựt cũng buồn hiu vì
cháu không đi ra ngoài thì chúng cũng không được ra. Hai chiếc áo
toàn màu trắng, quy định của nhà trường là như vậy.
"Cháu gọi một cái là Mây vì cháu thích chơi đùa với mây, khi có một
mình hay không muốn đọc sách hoặc chơi đùa với bạn bè. Vậy là cháu
nằm ngữa mặt lên trời, nhìn mây chuyển động trên không và bịa ra
nhiều chuyện. Phải kể thật nhanh vì mây có thể kéo dài ra, thay đổi
hình dáng nhanh chóng và trở thành những nhơn vật khác.
"Cái kia tên Gió vì gió thổi mây bay. Cháu rất thích hai tên gọi nầy
vì cháu bị giam hãm, còn hai cái áo đó không bị như vậy. Rồi thì mây
thường là màu trắng, còn gió thì không có màu. Gió như hơi từ trong
lỗ mũi khi mình thở, mình cảm biết mà không nhìn thấy. Gió là hơi
thở của Trời.
"Cháu phải ngừng bút vì Bề Trên đã chấm bài xong và sẽ đi qua các
bàn để xem tụi cháu làm gì. Bề Trên là tên gọi mà cháu sử dụng để
gọi những dì phước mượn kỷ luật để làm phiền cháu. Cháu không dám
hỏi danh tánh của ông vì người ta đã dạy cháu là không nên làm như
vậy với người lớn. Ông có phật ý không, nếu cháu đặt một cái tên gọi
cho ông?
"Tuyết
"Ghi
chú:
Cháu quên cho ông biết là cháu không bao giờ quên ông.
Thơ viết xong, nhưng gởi đi là cả một vấn đề. Không có bao thơ,
chẳng có cò. Đưa ai bỏ thơ đây? Nội trú trường dì phước, kỷ luật rất
khắt khe, đâu phải muốn làm gì cũng được. Nên chi, Tuyết cứ viết hai
ba lá, nhưng rồi xếp vào tập nhựt ký để đó. Cung cách riêng của cô
bé để khỏi quên ông nhà báo.
* * *
Ngày lên, đêm xuống. Mặt trời mọc rồi lặn. Trăng sáng, nguyệt tàn.
Cây phượng trổ bông, hoa phượng rụng. Dòng thời gian, cái trước, cái
sau, thay phiên nhau trôi qua. Cô bé Tuyết mười tuổi ngây thơ ngày
nào, nay đã mười tám xuân xanh. Bằng tú tài Tây trong tay, cô chưa
thấy mình trưởng thành như mẹ cô nghĩ.
Một hôm, hai mẹ con ngồi uống trà bàn chuyện tương lai. Một người
hoạt động đấu tranh như bà chẳng lẽ đợi con gái lớn khôn rồi lo việc
dựng vợ gả chồng. Vã lại, đó đâu phải là quan niệm sống của Tuyết.
Thảo luận gay go một hồi khá lâu, Tuyết mới thấy rõ chân tướng của
một người mẹ, tưởng đâu cứng rắn, thiệt ra cũng rất dịu hiền, yêu
con như thường tình. Đôi co mãi vì lý nầy, lẽ nọ, con không đành để
mẹ ở nhà một mình, mẹ không muốn tương lai của con mờ mịt, cuối cùng
chiều ý mẹ, Tuyết thuận lòng tiếp tục học nữa mà phải đi đến một
phương trời xa xăm hải ngoại, như ý muốn của người mẹ. Chớ ở quê
nhà, khói lửa, bom đạn ì ầm, học hành gì được. Tuyết lên đường du
học ở Bĩ, vì thời ấy chánh phủ của các tướng lãnh đã cấm sanh viên
đi Tây.
* * *
Phần kết
"Cháu Tuyết,
"Tôi muốn trở lại trường thăm cháu lần nữa, nhưng rất tiếc tôi lại
gặp sự từ chối quá quyết liệt. Có lẽ mẹ cháu biết được kỳ tôi đến
thăm lần trước nên bà đã yêu cầu trường không cho tôi thăm nữa. Bà
muốn bảo vệ cháu và cháu có thể hiểu điều đó.
"Có lần cháu hỏi tôi tình hình đất nước của cháu đã tồi tệ phải
không? Tôi đã trả lời rằng đúng vậy. Nếu ngày nay, cháu hỏi như vậy
nữa thì tôi chẳng biết phải trả lời sao. Tôi đang ở Sài Gòn vì Tổng
Thống Diệm và em của ổng vừa bị ám sát. Quân nhơn đã nắm quyền. Tình
hình sẽ diễn biến ra sao? Tôi chẳng biết được tương lai sẽ ngã theo
màu sắc nào.
"Mảnh giấy nầy, tôi cứ bỏ vô thùng thơ nhà cháu. Tôi còn nhớ nhà
cháu nhờ cây điệp, cây thứ tư từ đầu đường đếm vào, nếu đi từ chợ
tới. Mánh lới nhà báo, cháu thấy chưa!
"Viết cho cháu nhưng không chắc gì cháu đọc được. Nếu đọc được, cháu
nên hiểu rằng tôi rất sung sướng được biết cháu. Giọng cười và những
câu hỏi cháu nêu ra, với đôi chưn mày nhíu lại, sẽ đeo đuổi tôi khá
lâu.
"Hy vọng sao cuộc sống còn cho tôi có cơ hội gặp lại cháu nữa. Nhứt
là hy vọng rằng cháu sẽ tươi tắn mãi như khi tôi gặp cháu, một sự
tươi tắn làm cho cặp mắt cháu ngời sáng, dẫu với cái nhìn thật
nghiêm trang, vào một ngày chủ nhựt tháng tư năm 1963.
"Thương mến,
"E.L."
Tôi để lá thơ lại trên bàn, gục đầu một hồi lâu, rồi cầm thơ lên,
đọc lại. Một lần, hai lần, và một lần nữa, rồi một lần khác, đến khi
lời lẽ trong thơ in sâu vào óc tôi, từng chữ một, từng dấu phẩy nhỏ.
Tôi ở trong phòng trọ đại học có một mình. Không, không phải một
mình. Với ông nhà báo. Và một tia nắng êm dịu xuyên qua cửa sổ đã
chiếu phơn phớt lên vai tôi.
Bruxelles đã vào hạ. Kế tiếp là mùa thu với cảnh sắc lộng lẫy, mùa
đông cho vũ trụ nghĩ ngơi và mùa xuân để nhựa sống vươn lên. Rồi hè
sẽ trở lại với những ánh nắng nung nóng. Bốn mùa rõ rệt, mỗi mùa một
hơi thở đặc biệt và một thích thú riêng tư.
Nước tôi chỉ có hai mùa, và...
Nước tôi? Tôi nói gì vậy? Còn đâu nữa mà nước tôi! Mất rồi! Tan biến
rồi! Rã rời rồi! Và cây điệp thứ tư đã chết. Chết.
Ông nhà báo có biết không?
Đêm xuống rồi.
Tôi cảm thấy đơn độc.
Tôi phải viết thơ cho ông ấy, phải nói với ông ấy. Tôi phải nói cho
ông ấy rõ Lịch Sử đã giết chết cây điệp thứ tư như thế nào. Tôi vẫn
còn quá đau khổ.
Tôi cầm cây bút bi lên. Không, tôi thích ngòi viết hơn vì nó lướt
chạy trên giấy, nó cào xé, nó vuốt ve mơn trớn. Nó nổi giận. Nó
tuyệt vọng. Nó hy vọng. Những con chữ có nhiệm vụ giải bày những cảm
nghĩ của mình.
Tôi viết để tự nhũ với lòng mình.
"Thưa
Ông Nhà Báo,
"Không biết ông còn nhớ tôi không?
"Tại Sài Gòn, một sáng chủ nhựt, một trái lựu đạn đã nổ tung trong
chợ. Một người đã bồng cô gái nhỏ trong tay và chạy đi. Vài tháng
sau, ông ấy đến thăm cô bé trong một ký túc xá. Từ đó đến nay hai
người không gặp nhau nữa.
"Người đó là ông, và cô bé là tôi.
"Bây giờ thì chắc là ông đã nhớ ra rồi chớ?
"Tôi không bao giờ biết tên ông. Ông gọi tôi là Neige.
"Hồi đó, tôi lên mười. Ngày nay, tôi đã hai mươi hai.
"Vậy là mười hai năm đã trôi qua. Tôi chẳng biết ông còn sống hay
không. Nếu còn thì ông phải biết. Bằng không thì dẫu ông ở đâu, tôi
xin báo cho ông là Sài Gòn không còn nữa. Xe tăng đã vào thành phố.
Đó là ngày ba mươi tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm.
"Có những ngày tháng gợi nhớ như hồi chuông báo tử. Với tôi ngày ấy
là của hàng triệu con người, hàng triệu niềm hy vọng. Mà cũng là
hàng triệu giấc chiêm bao.
"Sài Gòn bị bắt chẹt, một cách vũ phu. Thành phố bị tước đoạt tên
gọi vì từ nay nó mang tên Thành Phố Hồ Chí Minh, theo kiểu
Stalingrad và Leningrad bên Nga. Hà Nội đã quyết định như vậy, ngay
sau một chiến thắng cướp được sau một cuộc chiến tranh kéo dài trên
hai mươi năm. Qua đó, Hà Nội muốn cho thành phố anh em thua cuộc
phải vào khuôn phép, phải tôn ti trật tự, phải tiêu tan. Nhưng, có
thể nào bắt mây ngừng bay không? Bắt gió ngừng thổi không? Bắt những
con tim đừng hy vọng không? Làm sao giết chết được linh hồn của một
thành phố?
"Có những trận đánh khủng khiếp. Là ký giả chiến trường, ông có nhìn
thấy "từ bên trong" chưa?
"Khe Sanh và đồi 881, Dak To và đồi 871. Thảm trạng Điện Biên Phủ
cũng bàng bạc trên cảnh trí rậm rạp sum suê đó. Tướng Giáp ước mơ
lập lại nơi đó chiến công hồi 1954. Hai trận đánh này sát phạt rất
nặng và kết thúc qua những trận giáp lá cà. Hai ngọn đồi nói trên đã
đi vào truyền thuyết. Thiên hạ đồn rằng B52 vẫn còn ầm ì bay ở đó,
pháo Trung Cộng vẫn còn nhả đạn ở đó, và ở đó linh hồn hàng triệu
người đã nằm xuống vì một lý tưởng mà họ đã tôn thờ hay bị gán ép,
dẫu cho ở phía bên nầy hay bên kia chiến tuyến, một chiến tuyến sát
hại quá mức đến đổi không ai nhìn thấy.
"Ông có ở Huế khi Bắc Việt tổng tiến công hồi Tết 1968 không? Sáng
sớm ngày đầu năm âm lịch đó, nhơn dân bị đánh thức vì những tiếng
nổ. Pháo! Họ reo mừng ngay, cho rằng pháo xua đuổi hồn ma bóng quế,
chào đón xuân về và báo tin tổ tiên trở lại gia đình thăm con cháu.
Nhơn dân đón Tết, ngày lễ thiêng liêng của đất nước, vì ngày lễ đó
đánh dấu một sự yên lặng của tâm thần, mà cũng là một lúc tạm ngưng
của những tấm lòng. Nhưng người ta đã lầm lẫn một cách tai hại, vì
đó là những tiếng súng. Miền Bắc vừa mở cuộc tiến công trên toàn
lãnh thổ miền Nam, vi phạm lần đầu tiên lịnh ngừng bắn lúc nào cũng
được những người anh em thù nghịch tôn trọng. Vùng đất của Vua Chúa
và của Tu Sĩ là nạn nhơn đau thương nhứt của cái mưu mẹo khủng khiếp
kia. Những trận đánh kéo dài hàng tháng và kết thúc bằng chém giết
nhau. Chín ngàn người chết. Sông Hương nhuộm đỏ. Hoàng thành chỉ còn
lại là những đống gạch vụn đổ nát, bốc khói.
"Khe Sanh, Dak To và Huế vẫn đứng vững, nhưng với một giá quá đắt!
Ông có chứng kiến được để tường thuật không? Ông có hiểu được gì
không? Ông có than van không?
"Ông có ở đó khi Sài Gòn mất không?
Đúng là trời long đất lở!
"Trên nóc tòa Đại Sứ Huê Kỳ, lúc bấy giờ đã biến thành chiến lũy,
trực thăng Skyhawks vần vũ bay tới lui để di tản những hành khách
cuối cùng ra những chiếc tàu ngược xuôi ngoài khơi. Trước hàng rào
sắt, một đám đông khổng lồ. Thiên hạ tập trung ở đó từ ngày nầy qua
ngày khác, đêm nầy qua đêm nọ, đứng trên cây hay bám vào trụ đèn,
càng lúc càng đông, la ó gào thét, người thì đưa thẻ xuất cảnh, kẻ
thì trưng giấy thông hành, hay bất cứ thứ gì có thể chứng minh được
chút liên hệ nào đó với những người sắp bỏ rơi mình, để hy vọng được
đi. Bên trong hàng rào, những người lính GI, lo sợ và bấn loạn, được
che chắn bằng nón sắt và áo giáp, lấy bán súng tiểu liên đẩy lui
những người định tháo chạy, bắn chỉ thiên để cảnh cáo và chỉa cả
súng vào đám đông. Chẳng ăn thua gì. Người ta vẫn bám chặt. Người ta
khóc than.
Người ta trao con qua song sắt với yêu cầu:"Take him, please, take
him!" (Đem nó đi, làm ơn đem nó đi). Vô lý, các người làm gì vậy?
Tại sao lại rời bỏ máu thịt của mình? Mấy người muốn cho chúng nó
thoát nạn gì? Tuyệt vọng rồi hóa điên, người ta bắn lên trực thăng
làm cho chong chóng quay tít lên, bên hông bị lủng phải chao đảo,
ném tung những người xấu số ra khoảng không. Thiên hạ vỗ tay! Khi
chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh, đưa ông đại sứ đi, tay ôm vào
ngực chiếc cờ sao sọc, như ôm một di vật của mảnh đất ôn dịch này,
cùng với những thành viên cuối cùng trong bộ tham mưu của ông, thì
ông cũng đem đi cả những ước vọng, những giấc mơ và những ảo ảnh của
những ai đã tin tưởng vào Việt Nam Cộng Hòa.
"Những người thua cuộc cũng chọn lựa số phận của mình. Một số người
ra đầu hàng, số khác liều chết theo kiểu Samurai của Nhựt. Trước trụ
sở Quốc Hội, một vị trung tá lấy súng sáu bắn vào ngực, một vị thiếu
tá bắn vào đầu. Cách đó vài bước, các chiến sĩ dù tự mình gỡ chốt
lựu đạn nổ chết chớ chẳng liệng đi đâu hết. Những sĩ quan ra lịnh
cho binh sĩ đầu hàng, rồi tự vận. Trong một căn nhà, gia đình trộn
thuốc độc vào cơm cho bữa ăn cuối cùng. Vài ngày sau, năm tướng lãnh
dùng súng kết liễu đời mình...
"Tôi đã nói với ông là xe tăng đã vào thành phố.
"Bộ đội ngồi trên tháp tăng hoặc chạy lúp xúp hai bên hông hô lớn
trong loa, hay qua hai bàn tay che lại thay loa, những lời lẽ hòa
hợp, hòa giải, hòa bình và khoan hồng nhơn đạo, để trấn an. Chẳng
nhằm nhò gì. Vì sợ sệt, thành phố đã xóa bỏ mọi dấu tích của nền
cộng hòa đang giãy chết đã được viết trên tường. Người ta nổi lửa
lên, liệng lộn xộn vào đó nào cờ, nào huy chương, nào huy hiệu và
sẵn tay liệng luôn những bức thơ tình của người yêu gởi từ chiến
tuyến bên nầy, những hình ảnh người cha, người chồng, người con chết
trong bộ quân phục không còn hợp thời, hy sinh cho một Tổ Quốc chẳng
phải của phe đang thắng. Một vụ hỏa thiêu để cho những người còn lại
được sống sót. Những người đã khuất ắt cũng hiểu. Chiến xa chạy vô
Dinh Độc Lập. Qua Minh Lớn - vì béo tốt lớn con, đương kim Đại Tướng
tên Dương Văn Minh - phe thua cuộc lên tiếng: "Để tránh đổ máu vô
ích, chánh phủ tôi xin đầu hàng toàn vẹn và không điều kiện." Chìa
khóa thành phố được trao cho những người chủ mới. Sao vàng phất phới
tung bay theo gió, trên màu xanh da trời trong vắt. Vĩ Tuyến Mười
Bảy đã nối liền Lịch Sử. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã ra
đời.
"Tôi đã kể lại cho ông ngày tàn của Sài Gòn như thể là tôi có mặt
nơi đó. Không phải vậy. Bốn năm trước đó, một chiếc máy bay đã chở
tôi tới miền "Mai Sau" thường được người lớn nói với tôi, hồi tôi
còn bé, một nơi mà người ta hiểu được nhiều chuyện. Nhưng bây giờ
tôi chỉ cần mở một nút vặn là một màn hình hiện ra hồ lốn và hàng
loạt những điều tôi đã kể ra và còn nhiều hơn nữa. Chẳng hạn như
hình ảnh của những chiếc tàu mong manh vượt biển, chở đầy những
người xấu số và đầy hy vọng.
"Vì sao nên nổi? Tại sao họ phải bỏ đất nước ra đi, trong khi, nhờ
ơn Trời Phật, chiến tranh đã chấm dứt? Hòa bình đã trở lại? Đất nước
đã thống nhứt? Già trẻ, giàu nghèo, có học và thiếu trình độ, điên
dại hay tỉnh táo, các người chạy đi đâu? Tới miền đất hứa nào? Đất
nước của các người không hứa hẹn gì sao?
"Làm mồi cho cá mập, hay nạn nhơn của bọn dã man đang hoành hành
trên Biển Đông, nhiều người đã chết và còn chết nhiều nữa, bó thân
trong nước biển. Trầm lặng, biển chẳng có gì ngạc nhiên, chẳng có gì
thắc mắc trước cái điên rồ của thiên hạ. Biển chỉ biết ôm ấp những
con người đó trong điệu ru, trong những lời lẽ ngọt dịu cuối cùng.
Nhưng biển biết rằng đối với nhiều người, con đường "tự định lấy
phận mình", con đường "tự quyết" và cung cách để đạt được các chuyện
ấy thường là con đường biển. Trong lịch sử và mãi mãi về sau, biển
là đường hướng đi tới tự do, dù đôi khi biển chỉ đem tới hy vọng.
"Thiên hạ gọi họ là "thuyền nhơn". Một thuyền nhơn vừa đưa tới tôi
một bức thơ của mẹ tôi.
"Từ đất nước xa xôi, mẹ tôi viết rằng: "Con đừng trở về! Con đừng
trở về!" Từ chơn trời khói lửa đã tàn, nhưng than hồng vẫn còn âm ỉ,
mẹ tôi gởi trả lại tôi những gì thuộc về tôi. Trong cái bao thơ tan
tành vì vượt qua ngàn trùng hải lý, bên cạnh những giòng chữ viết
vội, mẹ tôi có kèm một tấm hình, hình của ba tôi (tôi nhớ đã có nói
với ông trong phòng tiếp khách của ký túc xá), và một lá thơ, thơ mà
ông đã gởi cho tôi, cách nay mười hai năm. Tôi không hay biết gì về
cái thơ đó. Mẹ tôi không đưa cho tôi bao giờ, cũng không nói gì đến.
Nên tôi mới vừa đọc lần đầu tiên.
"Biết nói sao với ông đây?
"Được thơ sau bao nhiêu năm, và trong tình cảnh như vầy là một hạnh
phúc mà cũng là một nỗi đớn đau. Tôi đọc mà để thơ cách xa mắt vì sợ
muối mặn của buồn đau làm hoen ố, trong khi muối mặn của nước biển
đã không xóa nhòa nét chữ, để cho thời gian quý báu mà tôi vừa nắm
lại được, qua bao sóng gió, khỏi tan biến đi. Những hàng chữ viết
xiêng xiêng của ông, mà tôi tưởng tượng như được sóng biển đưa đi,
được mặt trời soi dọi, bị cái lạnh giày vò. Những giòng chữ đó được
người đem đi ấp ủ trên lồng ngực, với lòng giận dữ, với nỗi sợ sệt,
lòng lúc nào cũng dè chừng mọi nguy hiểm, tâm tư trông chờ chút hy
vọng, rồi cuối cùng, một sáng một chiều, nhảy lên reo mừng, sau khi
miệt mài dò xét biển cả, để rồi bỗng nhiên thấy xuất hiện từ xa một
đóm mờ mờ, là điều cuối cùng của mong chờ, là sự giải thoát, là lúc
cứu rỗi! Rồi người đó nhảy lên reo hò: "Tàu, bà con ơi! Tàu, bà con
ơi!", rồi quỳ gối xuống, hai tay dang ra, đôi mắt nhắm lại, ngữa mặt
lên trời, căn ngực hít đầy cơn gió mới và thì thầm tạ ơn.
"Tôi đọc bức thơ của ông và từng chữ trong thơ là một niềm an ủi mà
cũng là một mũi gai nhọn.
"Ông có phải kèn cựa với mấy người khó tánh đó lâu không? Ban đầu có
phải ông hỏi: "Tôi xin gặp cô Tuyết" không? Ông có lớn tiếng đòi:
"Cho tôi gặp Mẹ Bề Trên, bà ấy biết tôi!"? Chắc ông buồn, thật là
buồn vì phải ra về mà không gặp được tôi. Trong lúc đó tôi chỉ cách
ông chừng vài ba thước, chừng vài ba bực thang, khoảng một hơi thở.
"Thơ của ông nghe như một tờ di chúc, vì từ khi ông viết bao nhiêu
chuyện đã xảy ra, như tôi vừa nói. Một vũ trụ tan rã. Thì cũng thuận
lý, là chung cuộc sự mạo hiểm của lý trí, sự lang thang đi vào ảo
tưởng của những con người mưu cầu vừa độc lập cho Việt Nam và vừa tự
do cho dân tộc, chỉ đưa đến hoang tàn đổ vỡ.
"Ông nhắc đến cái nhìn nghiêm nghị của tôi. Tôi thì tôi lại nhớ đến
nụ cười dịu hiền của ông, gần như là buồn buồn. Có phải ông dự đoán
được chuyện sẽ xảy ra không? Tới mức độ nào? Và ông sẽ kể lại tới
mức nào? Ông có phải nằm xuống, máy ảnh cầm tay, như những người
lính chiến khác, súng vẫn trên tay hay không?
Ông còn sống không?
"Từ ngày đến Bĩ, và trái với lời hứa năm tôi mười tuổi, tôi không cố
gắng tìm ông, nhưng tôi mở nhựt ký ra mỗi ngày. Đó là cách tôi gặp
lại ông. Tôi không làm gì hơn nữa. Tôi đã xếp ông vào vùng kỷ niệm.
"Ông ngạc nhiên à? Ông chỉ cần biết rằng vì vậy mà có lời căn dặn
của mẹ tôi không để cho tôi gặp ông. Ông chưa hiểu mẹ tôi. Rồi ông
sẽ biết, mẹ tôi là một con người đã cho rằng người ta ở đời có Nghĩa
Vụ và những cái khác. Nghĩa vụ là phải được Tự Do. Mẹ tôi đã bảo
trong thơ là "Con đừng trở về! Con đừng trở về!"
"Đã lâu tôi không hiểu rõ mẹ tôi. Bà có cuộc đời của bà, tôi đời
tôi. Tôi thấy mẹ tôi là một người phụ nữ đầy nghị lực, vững vàng,
cứng rắn. Hình ảnh đó của bà làm tôi phải lánh xa. Qua một buổi uống
trà, tôi đã thấy mặt thật của bà khi bà để cho tôi thấy khía cạnh
rất phụ nữ của bà. Khi ấy tôi được mười tám tuổi và tôi đã hiểu. Tôi
đã hiểu là mẹ tôi muốn giữa bà và tôi có một khoảng cách, mà bà cần
có để theo đuổi con đường của bà, do chiến tranh tạo ra. Trung thành
với đường lối đó, mẹ tôi đã giấu lá thơ của ông. Bà đã muốn để cho
tôi chọn con đường của tôi.
"Ngày nay, bà đưa lại tôi bức thơ. Tại sao vậy?
"Tôi tưởng tượng ra một thành phố hấp hối, một người đàn bà ngồi
cạnh mâm trà tuyệt đẹp bằng sơn mài đen, cầm trên tay một cái tách
trà ngọc bích màu xám, tỏa hương thơm mùi hoa sen. Không biết mẹ tôi
còn nhớ như tôi không? Chiều xuống cũng như trước kia. Bà nói với
con gái: "Con nên đi, rồi con sẽ trở về". Bốn năm đã trôi qua. Ngày
nay, cũng mùi hoa sen đó, nhưng trà đã chát đắng rồi. Bà nhắm mắt
lại, thấy những xích sắt cuộn ra, tràn tới, nuốt từng thước một cái
mà bà đã dày công tranh đấu, sự tự do của bà. Bà đứng lên, bước tới
bàn viết, mở ngăn kéo, lấy ra một tấm hình và một lá thơ. Hình đó đã
chụp cách nay hai mươi hai năm và bức thơ kia đã được viết mười hai
năm qua. Bà đưa tay vuốt nhẹ lên cái miệng cười trên tấm ảnh và đọc
lại bức thơ. Bà không bao giờ cho con bà thấy bức thơ đó. Thời gian
đã không cho phép. Nhưng thời thế đã đổi thay. Bây giờ, con gái của
bà cần phải biết, nhứt là trong lúc nầy. Một tiếng gầm xa xa, rồi
đến gần. Xe tăng đã tới ngưỡng cửa thành phố. Bên cửa sổ, cây điệp
cũng rung rinh. Bà lấy một tờ giấy rồi viết: "Con đừng trở về." Gạch
dưới hai lần, viết thêm: "Mẹ thương con." Lại thêm: "Mẹ tin tưởng ở
con." Rồi bà xếp tờ giấy lại bọc tấm hình và bức thơ, cho vào bao
thơ, giữ mãi bên mình ngày đêm. Bà trở lại ngồi bên cạnh mâm trà sơn
mài đen tuyệt đẹp.
"Ngày nay, những gì còn lại không có lý do tồn tại nữa. Hình của ba
tôi và thơ của ông đã vượt không gian và thời gian để đến đây với
tôi. Cái gọi là "Mai Sau" đã trở thành "Quá Muộn", ngày ba mươi
tháng tư đã lôi cuốn đi tất cả, chẳng còn gì để hiểu nữa, chẳng làm
gì được hết, là cây điệp thứ tư đã chết rồi.
"Định mạng đã an bày. Từ nay, tôi được tự do, cái tự do của những
người nhứt định là không bị ràng buộc, của những chiếc lá lìa cành
giữa mùa xuân, đúng vậy, của những con tàu không bến, đồng ý. Nhưng
cũng là tự do!
"Tôi vạch cho tôi một con đường mới, và khi mà những Trang Sử ít khi
lật ngược lại, tôi dựng lấy lịch sử của riêng tôi. Bây giờ, tôi có
thì giờ, biết bao nhiêu là thì giờ.
"Một ngày kia, tôi lại ngồi uống trà với mẹ tôi.
"Một ngày kia, tôi sẽ biết sự thực về ba tôi.
"Và biết đâu một ngày kia, ông lại mời tôi uống ly bạc hà với nước
đá bào.
"Cây điệp thứ tư sẽ không khi nào chết thực sự
"Tôi tin tưởng như vậy.
Tuyết."
Tôi xếp thơ lại, lấy quyển nhựt ký trong hộc ra. Đúng ra là quyển
nhựt ký thứ năm, bắt đầu ghi cách nay mười năm, trên tập giấy học
trò, và từ bấy đến nay đã trở thành người bạn đường trung thành và
hữu ích của tôi. Tay tôi mơn trớn những trang giấy kẻ ô vuông, đầy
nét chữ li ti, và tìm trang mà cách đây không lâu, tôi đã ghi:
"Thành công kỳ thi đặc biệt. Học gạo cho những kỳ thi khác. Kết thúc
luận án để trình bày kỳ thi tốt nghiệp. Trong ba tháng nữa, sẽ trở
về nhà!" Tôi muốn xếp lá thơ đó bên cạnh những giòng chữ này.
Mười một giờ đêm sắp điểm. Tôi không thấy buồn ngủ. Ở Bruxelles
không có giới nghiêm. Tôi khoác áo ngoài lên vai, leo xuống hai từng
lầu để đến từng trệt, bước ra đường. Sải chưn tôi hơi dài, như thông
lệ. Năm phút sau, ngồi trên băng đá công viên của tu viện Cambre.
Tôi có thói quen đến đây để mơ tưởng viễn vông.
Đêm hè dịu dàng. Ngoại trừ một vài tiếng xì xèo của bánh xe cán lên
nhựa đường và một vài cửa sổ còn sáng ánh đèn, Bruxelles đã thiếp
ngủ.
Bên kia trái đất, bình minh đã ló dạng. Rồi đây, trời sẽ nhuộm xanh,
màu xanh mà tôi hằng ưa chuộng, màu xanh sẽ vĩnh viễn bao phủ lấy
những mái nhà của Sài Gòn.
* * *
Trên
đây là tóm lược quyển sách tựa đề "Le
Journaliste Français"
(Ông nhà báo người Pháp) của Tuyết-Nga Nguyễn, một cây viết người
Bĩ, gốc Việt, do nxb. Luc Pire/Le Grand Miroir (Belgique) phát hành.
Quyển sách dày 255 trang, xuất bản ngày 15 tháng 2 năm 2007, thuộc
loại được ghi là tiểu thuyết.
Quyển sách đã được giải thưởng "Prix des Soroptimist" 2008 và "Prix
des Lycéens de Littérature" 2009. Giải
thưởng "Prix des Soroptimist" dành cho những cây viết Pháp ngữ của
những người gốc từ các nước nói và viết tiếng Pháp, còn "Prix des
Lycéens de Littérature" của Bĩ, do học sinh trung học cấp 2, năm
cuối cùng điểm sách và quyết định.
Có thể nói đây là một loại tự truyện tiểu thuyết hóa, lồng vào biến
cố chung của đất nước Việt Nam. Những biến cố mà tác giả đã biết
gián tiếp qua nghe, xem và đọc, ngoại trừ lần nổ lựu đạn ngoài chợ
Trương Minh Giảng.
Nên chi, mình không biết được là nó thật đến mấy mươi phần trăm. Tuy
nhiên, cốt chuyện có phần thương tâm của một cô bé Hà Nội, thuộc một
gia đình bị xé đôi vì tình cảnh phía ta, phe tề, vì đất nước chia
đôi, rồi chung cuộc, vì miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm.
Câu
chuyện được Tuyết-Nga - một cây viết cũng bị phân hai, vừa là đầm,
vừa là Việt - viết ra với một bút pháp đặc biệt. Một bối cảnh nửa
hư, nửa thực, trong đó những nhơn vật đuợc cô bé thường đặt cho một
bí danh riêng tư. Một cốt chuyện, qua đó nhiều câu hỏi nổi cộm lên,
một cách ồn ào hay thâm trầm, như tiếng bom đạn nổ ầm hay như những
đau khổ mà người ta phải âm thầm chịu đựng. Một câu chuyện vừa dịu
dàng vừa cay đắng, được kể lại dưới ngòi bút thắm thiết và lạ lùng
của Tuyết-Nga, một "cô bé thích cười, thích ăn kem sầu riêng và háo
dùng ẩn dụ".
"Cô bé" rất hiếu kỳ, có vẻ như trưởng thành trước tuổi tác, cái gì
cũng thắc mắc, cũng hỏi tại sao. Nhưng vì cô còn bé nên người lớn
đều trả lời cho được việc là "Mai Sau con sẽ hiểu". Nhưng cái "Mai
Sau" đó biết đến bao giờ? Phải chờ thôi, vì nó đã được viết sẵn trên
Trời và Trời Đất thì lúc nào chẳng có. Nhưng rồi cái "Mai Sau" đó bị
ngày 30 tháng 4 năm 1975 đưa vào quên lãng của lịch sử. Từ đó về
sau, "cô bé" quyết định viết lấy lịch sử của chính mình.
* * *
Hơn
hai năm sau, ngày 15.10.2009, Tuyết-Nga Nguyễn cho ra mắt quyển
truyện thứ nhì, coi như là hồi kế tiếp của "Le
Journaliste Français".
Quyển sách đó mang tên "Soleil
Fané"
(Nắng Úa), nxb.
Luc Pire/Le Grand Miroir (Belgique), 219 trang.
Qua quyển tiểu thuyết nầy, Giáng-Kiều, bà mẹ của Tuyết, vượt biên
được và đoàn tụ với Tuyết. Trường hợp vượt biên của Giáng-Kiều có vẻ
đặc biệt và hơi tiểu thuyết hóa. Sau ngày ba mươi tháng tư năm bảy
mươi lăm, bà bị bắt đi học tập cải tạo, có lẽ với tư cách người của
đảng phái.
Trong trại cải tạo có một cán bộ, trước kia ở Hà Nội có biết và si
mê bà qua sắc đẹp và tài nghệ đánh dương cầm. Người cán bộ đó kêu bà
lên lán riêng của ông "làm việc" và ngày một ngày hai, nhắc lại
chuyện cũ tích xưa, đề nghị tạo điều kiện cho bà "trốn trại" để vượt
biên.
Chuyện vượt ngục và vượt biên của Giáng-Kiều mang màu sắc phim gián
điệp trinh thám. Và, độc đáo hơn hết là lại có sự nhúng tay của "Ông
nhà báo người Tây", đã từng giải thoát cô bé Tuyết trong vụ ném lựu
đạn chợ Trương Minh Giảng.
Tuy nhiên, với quyển "Nắng Úa", Tuyết–Nga Nguyễn cũng nói lên được
tâm trạng của một người con gái mất nước, thất lạc gia đình, thì mọi
dự án đều rỗng không, còn lại gì đâu? Từ cách mạng đẫm máu và tình
yêu đất nước cao cả thiêng liêng, "Nắng Úa" nói lên được nỗi khổ của
những ảo ảnh mất đi và niềm đau của chiến tranh, rốt cuộc lại cái
gọi là không tưởng "xã hội chủ nghĩa" kia để làm gì?
Phan Quân
|