Phật giáo và Quyền lực
Ở
Việt Nam, cùng với thời gian, lúc vầy lúc khác, Phật Giáo đã lớn
mạnh, bị hoài nghi, rồi bị gạt bỏ. Vậy mà Phật Giáo vẫn sống dậy...
Sau đây là câu chuyện ngắn gọn của một thế lực đáng kể.
Những nẽo đuờng giác ngộ.
Kể từ Thế Kỷ thứ II, Phật Giáo đã xuất hiện ở đất Giao Chỉ (vùng Bắc
Việt ngày nay). Theo đường biển của những nhà kinh doanh gia vị,
những nhà hàng hải và những nhà buôn người Ấn, cùng những nhà truyền
giáo đạo Phật, đã du nhập vào Việt Nam những giáo lý Theravada (Tiểu
Thừa). Còn các nhà sư Trung Quốc, đào thoát những cuộc đàn áp ở xứ
sở họ, đã du nhập Mahayana (Đại Thừa), giáo pháp chủ yếu ngày nay ở
Việt Nam.
Thế Kỷ thứ XI đến Thế Kỷ thứ XIV là thời đại vàng son của Phật Giáo
Việt Nam. Cùng với Khổng Giáo - bị Trung Quốc nhồi nhét tong thời kỳ
Bắc thuộc đến Thế Kỷ thứ X - Phật Giáo được coi như là học thuyết
giải thoát cho nhơn dân Việt Nam. Còn những nhà cầm quyền coi đó như
là lợi thế chánh trị. Thế Kỷ thứ XII, nhiều vị vua Việt Nam đã theo
Phật Giáo.
Đời nhà Lý, kế đó đời nhà Trần, đã đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát huy Phật Giáo, rồi đưa tôn giáo này lên đến đỉnh cao.
Những nhà sư trở thành những nhơn vật thiết yếu cho đời sống. Những
vị cao tăng là những ngọn hải đăng của tri thức, thảo ra những văn
bản, thông hiểu chữ Phạn và chữ Tàu.
Triều đại Phật Giáo
Năm 1300, sau khi đánh đuổi được quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tôn bèn
thoái vị nhường ngôi lại cho con, để khoát áo nhà tu. Ngài lập ra
Trường Phật học Trúc Lâm. Với tư cách triết gia và thi sĩ, ngài là
một trong những nhơn vật hàng đầu của Phật Giáo Việt Nam.
Từ đó Phật Giáo đã trở thành tôn giáo chánh thức của Việt Nam. Thế
kỷ này sang thế kỷ khác, giáo thuyết đó đã hằn sâu trong dân chúng
Việt Nam, biến thành một thể hòa hợp đặc biệt. Thiên hạ vừa suy tôn
những bực thần hoàng, những linh hồn vừa thờ cúng tổ tiên.
Hà Nội là thủ đô đầu tiên của một triều đại Phật Giáo Việt Nam. Vua
Lý Thái Tổ, nghĩa tử của một nhà sư và được nuôi dưỡng trong một
ngôi chùa, đã chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo. Sau khi lên ngôi,
ngài ra lịnh cho làng mạc phải trùng tu lại đình chùa. Vua chúa đời
Lý kế nghiệp nhau, tiếp tục làm cho giáo hội Phật Giáo ngày càng
hưng thịnh.
Trong chiến tranh và thời độc lập
Ở Bắc Việt từ những năm 1940, trong thời kỳ đánh Pháp, các nhà sư là
thành phần ủng hộ kháng chiến quân Việt Minh mạnh mẽ nhứt.
Sau Thế Chiến II, Phật Giáo Việt Nam bước
vào một phong trào canh tân đạo giáo, dẫn tới một thế đoàn kết dân
tộc rộng lớn.
Ở Nam Việt Nam, trong những năm 1960,
Phật Giáo chống đối lại chế độ chuyên chế của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Năm 1964, ở miền Nam các bực tu hành chánh thức thành lập Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt (GHPGVNTN). Lúc đó Thiền Sư Thích
Nhất Hạnh thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội để giúp đỡ dân
chúng nạn nhơn chiến tranh. Sau khóa tu học bên Mỹ, Thiền Sư bị cấm
không cho trở về nước. Năm 1972, tỵ nạn tại Pháp, Thiền Sư thành lập
cộng đồng Làng Mai (Dordogne).
Hồi gần đây, khi trở về Việt Nam,
Thiền Sư được nghinh đón như một "người hùng". Sau khi Sài Gòn mất
đi hồi 1975, đất nước Việt Nam đã được thống nhứt dưới chế độ cộng
sản. Cuối những năm 1970, đảng cộng sản Việt Nam thi hành đường lối
cứng rắn đối với Phật Giáo và năm 1981 chánh phủ cấm đoán GHPGVNTN
và ra lịnh cho những người Phật Giáo độc lập phải gia nhập giáo hội
nhà nước.
Ở hải ngoại, Phật Giáo vẫn tiến mạnh và ủng hộ GHPGVNTN
Từ mười lăm năm qua, trong khi áp
dụng đường lối cởi mở tôn giáo một cách dè dặt, chánh phủ Hà Nội cứ
lúc vầy lúc khác với Phật Giáo. Tháng 9 năm 2009, Hà Nội lại gây sự
với Phật Giáo. Sau một cuộc tranh chấp ở địa phương, những thành
viên của môn phái Thiền Sư Thích Nhất Hạnh bị trục xuất một cách thô
bạo ra khỏi một ngôi chùa ở tỉnh Lâm Đồng (gần Dà Lạt). Ở Việt Nam,
ngành giáo dục nói chung, và tôn giáo nói riêng, đều phải qua sự
kiểm soát của thế lực chánh trị và phải được phép.
Phan Quân
(Lược dịch theo "Bouddhisme et
pouvoir au Vietnam" của Nguyễn Xuân Lập, đăng trên
Ulyssemag.com, 01 tháng 3 năm 2010)
[http://www.ulyssemag.com/article/2010/03/01/bouddhisme-et-pouvoir-au-vietnam]
|