Ông giáo già
Từ
ngày ra trại, sau khi đã "học tập cải tạo" ở cõi đời vô duyên, hôm
nay mới thấy ba tôi có một lần vui tươi ra mặt. Ba đi tới cái gọi là
"tiệm hớt tóc" của Chú Tám ở gốc me gần nhà để sửa sang sắc đẹp, với
một thái độ chăm chú đặc biệt. Ba vui là cả nhà cũng vui lây, vì
thái độ trầm lắng của ba, từ khi dứt nghiệp hành hạ của cộng sản, ai
ai trong gia đình cũng tôn trọng, không muốn quấy rầy, tâm tư của
ba. Vì ba đã bị người ta làm phiền khá nhiều rồi.
Ngày hôm đó, ba biểu tôi cùng với ba đi thăm một người quen ở xa,
bên ngoài thành phố. Sáng sớm tinh mơ, sau khi lót dạ bằng hai củ
khoai, hai cha con, hai chiếc xe đạp, còng lưng ngược gió mà giong
ruổi trên đường thiên lý, đổ về hướng đông của thành phố. Đến thị xã
Thủ Đức xong, rẻ phải đạp quanh co trên con hương lộ về miệt Tăng
Nhơn Phú, rồi đi xa hơn nữa đến tận Gò Công Trao Trảo.
Đến nơi, thăm dò, hỏi han một lúc thì cụ già, cũng ngoài tám mươi,
mở một nụ cười, khoe cái miệng móm xọm, chẳng còn cái răng nào, vui
vẻ cho biết:
- Ừa, ông giáo Trung hả, nhà ở đằng kia kìa.
Theo hướng ngón tay chỉ đường của ông lão, là một căn nhà lá nhỏ ọp
ẹp, gọi là cái chòi thì cũng không sai.
Ba tôi hụt hẫng và buồn lòng thấy rõ. Bao nhiêu bóng hình kỷ niệm đã
tan biến trong tâm tư ba tôi. Thì ra, ông giáo kính yêu và thần
tượng của ba, dẫu không phải "học tập cải tạo", cũng đã qua một cuộc
đổi đời bi thảm và đau thương.
* * *
Mấy mươi năm về trước, ông giáo Trung làm hiệu trưởng một trường
tiểu học nhà nước. Ngày xin cho ba vào học, bà nội có dẫn ba theo -
một chuyện làm không cần thiết - nhưng vì lý do đặc biệt nên bà nội
phải làm như thế. Mấy tháng trước ngày nhập học của trường nhà nước,
nội cho ba tôi vào một lớp vỡ lòng trường tư thục của thầy giáo Hòa
trong xóm. Ý nội muốn cho ba làm quen với lớp học.
Khổ nỗi, trường đó ba biết đã lâu vì những khi đi chợ, thỉnh thoảng
nội có dẫn ba đi theo. Chính cái trường đó đã làm cho ba khiếp sợ
thế giới học đường. Trường Thầy Hòa là một căn phố nhỏ nằm phía bên
kia đường dẫn đến chợ. Thầy là một con người thâm thấp, bụng phệ,
đầu sói, còn ít tóc, lúc nào cũng chải keo "brillantine". Suốt buổi
học, tay thầy phe phẩy cây roi mây dài cỡ hai mét, thỉnh thoảng đập
trên bàn, trên bảng đen kêu đôm đốp. Như vậy, thầy ra oai với lũ học
trò.
Thấy vậy và nghe vậy nên ba sợ run mỗi khi cùng bà nội đi ngang, dẫu
rằng ba đã kéo nội qua lề đường bên kia. Không nói ra, nhưng trong
tâm tư trẻ con của ba đã nhứt quyết sẽ không bao giờ đi học. Ấy vậy
mà ác nghiệt chưa, ghét của nào trời trao của nấy, nội cho ba vào
trường Thầy Hòa học để làm quen. Vậy là ba không khi nào đi học suôn
sẻ. Hôm thì phải có anh Tư Thành, người anh họ, đi theo ngồi cùng
trong lớp học. Hôm thì phải có bà ngoại của ba, dưới tỉnh lên chơi,
đi theo. Không khi nào ba dám đi học một mình.
Có một hôm ông nội vuốt ve ba, cho trái quít lột sẵn, với lời lẽ
nựng nịu yêu thương: "Đi học giỏi ba cưng, nha con!" Vốn sợ ông nội,
vì ít khi ông nội nói gì, ba vui vẻ ra đi, dĩ nhiên là được đưa đi,
mà không ở lại ngồi cùng. Nhưng, rốt cuộc, cũng phải đưa trở về vì
ba đâu chịu ở lại học một mình. Như vậy là bị một trận đòn nên thân,
trái quít lột rồi lăn lông lốc dưới đất.
Vì tình hình học vỡ lòng của ba như vậy cho nên mới có chuyện khi
xin vô học trường nhà nước, bà nội phải đưa ba theo. Làm thủ tục
xong, nội đưa khai sanh cho ông hiệu trưởng trước mặt ba, và nói lớn
cho ba nghe:
- Má đưa khai sanh con cho ông đốc rồi đó nha. Con mà không chịu học
thì không còn con của ba má nữa.
Không biết vì bầu không khí trường nhà nước thích hợp hay là vì lời
lẽ đe dọa kia mà sau đó ba tôi học hành êm xuôi tốt đẹp. Nếu không
chắc là ba tôi nay đã thành cu li ban bù hay nông dân tay lấm chưn
bùn.
Năm lên ba lớp nhứt, Thầy Trung vừa đốc học kiêm luôn lớp nhứt của
ba tôi. Thầy là một nhà giáo tận tâm, hết mực yêu thương học trò,
coi như con cháu trong nhà. Lớp của Thầy năm nào sĩ số đậu bằng Tiểu
Học cũng cao hơn lớp khác và trúng tuyển vào trường trung học Pétrus
Ký cũng khá đông. Vì đức độ và tình cảm đối với học trò của Thầy như
vậy mà phần đông cha mẹ học trò đều quý trọng Thầy. Ông và bà nội
tôi cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
* * *
Hồi nào Thầy Trung ở trong một căn nhà đạm bạc, dẫu không hoa dạng
và hào nháng nhưng cũng còn gọi là. Ngày nay, Thầy ở trong một cái
chòi lá quá đổi thương tâm. Trước cảnh tình khổ hạnh của Thầy, ba
tôi mất đi cái vẻ hăng hái vui tươi của ngày hôm trước. Nét mặt ba
sầm xuống, lằm lũi, nặng nề đẩy xe đạp bước đi, thỉnh thoảng lắc
đầu.
Bỗng nhiên, ba ngừng lại, hất mặt về phía đầu đường trên ngọn đồi
con, nói với tôi:
- Thầy kia rồi! Không ai khác.
Nhìn về hướng ba chỉ, tôi thấy một lão già nhỏ người, râu bạc phơ,
tay run run chống cây gậy nhỏ đi quanh căn chòi. Đầu ông đội cái nón
nỉ đen, hơi tơi tả. Chưn đi không được vững lắm, đằng xa coi như đi
cà nhắc.
- Đúng là Thầy rồi!
Nói xong, ba tôi bước mau đi tới.
Chừng hai cha con tôi tới gần, ông già ngừng lại, đưa bàn tay trái
lên che ngang chưn mày, nhìn kỷ coi ai đến. Ông nhìn đăm đăm ba tôi,
nhưng cũng không rõ là ai.
- Thưa Thầy, con là Quân, học trò cũ của Thầy đây, Thầy còn nhớ con
không?
Với giọng run run, vẫn còn sang sảng của nhà giáo, ông lẩm bẩm:
- Quân à! Quân nào cà?
Ba tôi bỏ xe đạp xuống, nắm tay ông:
- Thầy cho phép con nắm tay Thầy để lấy lại chút hương tình ngày cũ.
Con ở Sài Gòn tìm lên thăm Thầy vì biết được Thầy còn mạnh và về ở
đây.
Ông lão ngạc nhiên nhìn ba tôi trân trân, rồi chẫm rãi hỏi lại:
- Em làm qua cảm kích quá... nhưng em học với qua hồi nào?
- Con học với Thầy hồi lớp nhứt, trường Cầu Kho năm 1940. Thầy không
nhớ con là phải, lâu quá rồi, mà Thầy thì bao nhiêu là học trò.
Nhưng con không làm sao quên Thầy được. Ngoài tình thầy trò, còn
tình nghĩa bạn bè của Thầy với ba má con nữa.
Ông giáo cúi mặt nhìn xuống đất, lập đi lập lại cái tên của ba tôi,
như bươi móc trong trí óc hình ảnh của cậu học trò tên Quân. Trong
khi đó, ba tôi cứ nhìn Thầy đăm đăm, miệng mĩm cười đầy ao ước, muốn
cho Thầy nhanh chóng nhớ ra mình. Ông giáo già bỗng tươi mặt, ngẩn
đầu lên, mắt ngời sáng, chầm chậm nói:
- Phải Phan Minh Quân, con của thầy Bảy Đẩu, nhà ở đường Nguyễn Tấn
Nghiệm không?
- Đúng là con đó Thầy.
Ông giáo già mừng rỡ ôm chầm lấy ba tôi, đầu bạc trắng của ông cùng
với cái nón nỉ rách bươm nằm gọn trong vai ba tôi. Cặp mắt già của
ông sáng óng ánh, vì nước mắt của niềm vui đã quanh tròng.
- Thôi thì mời chú em bước vào nhà, chuyện trò đôi chút.
Căn nhà không rộng lắm, cũng đủ che nắng, chắn mưa, nền đất, vách
phên, nóc lợp lá dừa nước. Một chiếc ghế bố nhà binh làm giường, ba
cục gạch làm bếp và dầu hèn cũng thể, còn được cái bàn nhỏ làm bàn
viết. Gì thì gì, ông cũng còn giữ lại một ít sách. Ông giáo già ngồi
trên ghế bố, nhường hai cái ghế đẩu bằng nhựa xanh đỏ trong nhà cho
ba tôi và tôi.
Ông giáo già nhìn ba tôi im lặng hồi lâu, rồi bằng một giọng buồn
buồn, cảm động, lên tiếng:
- Em Quân nè, qua nhớ ra rồi. Ba má em thật là những người hiền đức,
lúc nào cũng muốn con thương bạn, kính thầy. Từ bấy đến nay cũng gần
nửa thế kỷ. Vậy mà em vẫn tốt bụng, tưởng nhớ tới thầy học cũ. Trước
đây cũng có nhiều học trò cũ ghé thăm, sĩ quan có, linh mục có,
những người có chức tước... Từ hồi ba mươi tháng tư đến giờ ít ai
đến thăm nữa rồi. Sợ rằng em là người cuối cùng.
- Sao Thầy nghĩ vậy? Con thấy thầy còn khỏe mà.
Qua chuyện kể, chúng tôi được biết rằng sau ngày ba mươi tháng tư
năm bảy mươi lăm, ông còn được lưu lại dạy vài ba năm, nhưng không
còn là hiệu trưởng nữa. Vì hiệu trưởng phải là đảng viên. Sau đó,
ban "giám hiệu bố trí" cho ông dạy thế đủ thứ lớp, rồi chưn chạy
việc phòng giám hiệu. Buồn tình đời, cũng gần tới tuổi về hưu và
mượn lý do sức khỏe, ông xin nghỉ việc.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí, nghỉ làm được vài ba năm sau
thì vợ ông vì đau bịnh đã mất và đứa con trai duy nhứt cũng bị tai
nạn xe cộ chết đi, để lại cho ông hai đứa cháu nội, chỉ làm ruộng
rẫy nuôi thân. Giờ đây, ông sống với lương hưu chết đói, suốt ngày
chẳng làm gì hết. Thời gian cứ vô tận.
Ông chỉ sống với kỷ niệm một thời qua, đọc lại sách cũ, nghiền ngẫm
sách xưa. Những sách còn lại đây là tất cả một dĩ vãng của ông. Trên
đời này, ông giáo già chẳng còn chi. Không phải đi học tập cải tạo,
nhưng con người ông chẳng còn lại gì. Một cái xác không quá khứ, một
con người mà tương lai đã vào ngõ cụt.
Bỗng nhiên, ông giáo già đứng phắt dậy:
- À, nhớ rồi, qua có một chút ngạc nhiên dành cho em.
Ông đi lại kéo ngăn bàn viết ra, lục lọi những bó giấy, bó nào cũng
có ghi ngày tháng năm cẩn thận. Ông lấy ra một bó, mở banh ra rồi
lật kiếm, lôi ra một tờ giấy đã bị thời gian nhuốm vàng. Đó là bài
làm của ba tôi hồi ngày 18 tháng 4 năm 1940. Ba tôi nhận biết ngay
nét chữ viết to tướng của mình, mĩm cười.
Thình lình, ba tôi rưng rưng nước mắt làm tôi hết hồn. Thì ra, một
vài chữ viết là của bà nội, sửa lại bài của ba vì ngày đó ba bịnh
nên không hoàn tất được. Thấy chữ, nhớ người, ba tôi nhớ tới mẹ già
đã trút hơi thở cuối cùng, vì mòn mỏi trông chờ con đi tù cải tạo.
Ông giáo nói tiếp:
- Những mảnh giấy đó là kỷ niệm quý báu của qua. Thỉnh thoảng, qua
đem ra đọc lại, khi bài nầy, lúc bài khác, cũng vui vui, nó làm cho
qua nhớ lại quảng đời nhà giáo. Có cái làm cho qua nhớ cả khuôn mặt
các em, tánh tình các em. Có em ngoan hiền, có em quá quắc, có em
làm qua hãnh diện, có em làm qua khổ tâm. Giờ đây, qua như đã ở cõi
trên rồi, qua thấy yêu thương tất cả, như nhau.
Ba tôi vui miệng hỏi Thầy:
- Còn con, Thầy nhớ ra làm sao?
- Em hả...? Em thì đứng đắn hơn, nhưng có khi cũng quá lắm! Tuổi trẻ
mà.
Hai thầy trò trao đổi nhau nhiều câu chuyện đời, chuyện xã hội,
chuyện đất nước. Gần nửa thế kỷ làm nghề gõ đầu trẻ, đến ngày gần
mãn cuộc đời mà ông giáo già phải sanh sống như vầy! Một túp lều
nhỏ, một cái ghế bố làm giường, nấu cơm với ông táo làm bằng ba cục
đất... Phần thưởng giành cho một người công chức cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư là như vậy sao? Vậy mà ông giáo già vẫn hồn
nhiên và vui vẻ nói chuyện với người học trò cũ của mình. Người học
trò cũ, với sự nghiệp nửa đường gãy gánh, trôi theo vận mạng đất
nước, cũng không giúp đỡ gì được cho thầy cũ của mình!
Để đánh tan bầu không khí ảm đạm của cảnh thầy trò hội ngộ buồn hiu,
ba tôi mời ông giáo già đến quán dùng cơm trưa. Ông giáo hết lời cám
ơn, có vẻ ngại ngùng. Ba tôi nắm lấy tay Thầy khẩn khoản. Ông giáo
thiệt thà nói trắng ra:
- Qua nói thiệt, qua chí tình cảm ơn em, nhưng tay chưn qua như vầy
làm sao ăn được trước mắt mọi người?
- Không sao đâu Thầy, con sẽ giúp đỡ Thầy mà.
- Thôi cũng được. Hôm nay, thiệt là một ngày đặc biệt của đời qua.
Qua sẽ nhớ hoài, không quên.
Ba tôi đưa cánh tay cho ông giáo già để dìu đi. Chúng tôi đổ xuống
dốc theo con đường mòn. Quán ăn thị xã nhỏ nên cũng không đông
khách. Chỉ vài ba bàn của khách đi buôn lỡ đường. Ông giáo có vẻ vui
mừng và xúc động làm cho hai tay ông run rẫy nhiều hơn.
Nhưng ông giáo cười nói huyên thiên, vui tươi, nhắc chuyện xưa tích
củ, chuyện trường học, chuyện đời nhà giáo, chuyện tình cảm người
đời. Ông không nói gì về cung cách đối xử của những người gọi là
"cách mạng" đối với ông. Có thể ông coi đó như là những chuyện làm
phù hợp với bản chất của con người, xã hội ra sao, con người là vậy,
có nói cũng bằng thừa.
Còn ba tôi thì không màng chuyện ăn uống mà cứ lo gắp miếng nầy
miếng nọ đưa cho Thầy của mình và cứ nhìn Thầy một cách trìu mến,
thân thương. Gần hết bữa ăn, ba tôi nâng ly lên chúc Thầy:
- Con mừng cuộc hội ngộ bữa nay? Con chúc Thầy mạnh khỏe hoài.
- Thiệt tình, qua không biết nói sao? Mừng em, mừng gia đình và các
con em. Qua cũng không quên được ba má em dẫu nay đã xa xôi!
Giây phút sum họp vui vầy rồi cũng qua đi. Trời đã xế trưa, nắng bắt
đầu gay gắt. Hai cha con tôi đưa ông giáo già đến tận nhà. Giờ phút
chia tay không muốn dứt, ba tôi đứng tần ngần, chưa chịu dứt khoát
ra về. Ba tôi tiên đoán rằng đây là lần cuối đời hai thầy trò gặp
nhau. Vì sau đó, gia đình tôi đi định cư bên Pháp, còn ông giáo già
chắc cũng sẽ định cư nơi cõi vĩnh hằng, có nhạc thiều thiên sứ vang
vang.
Trên con đường liên tỉnh phản chiếu nhựa đường hừng hực nóng, hai
chiếc xe đạp từ từ quay lại Sài Gòn. Ba tôi trầm ngâm suy tưởng,
không nói một tiếng nào. Có lẽ trong đầu óc ba tôi cứ vương vấn hình
ảnh của ông giáo học già nua, hòa lẫn với hình bóng của ông bà nội
tôi, giờ đây viễn du nơi chốn nào, ngàn trùng xa cách.
Phan Quân
|