Trước đèn đọc sách:
Những
người Việt bơ vơ
Núp sau
tấm bình phong "khai hóa", chủ nghĩa thực dân đã một thời tự tung tự
tác trên vùng đất thuộc địa, trước thái độ im hơi lặng tiếng của dư
luận. Từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XX, phần lớn những nước Tây Âu
đều là đế quốc nên chẳng nước nào lên tiếng phản đối. Nhưng sau Đệ
Nhị Thế Chiến, trật tự và hệ thống cường quốc đã đổi thay, lần hồi
đường lối phi thuộc địa hoá đã bắt đầu rõ nét, và người ta bắt đầu
lên tiếng.
Nên chi,
những hành động xấu xa, bỉ ổi của thực dân có phần bị dư luận lên
án, nhưng cũng còn có phần được lờ đi, cho tiện việc. Phần bị bỏ
quên, liên hệ đến người Việt chúng ta, từ năm 1939, mãi đến năm
2009, mới được Pierre Daum – ký giả nhựt báo "Monde" và "Libération"
- phanh phui ra ánh sáng, qua tài liệu nghiên cứu và sưu tầm của
ông, "Immigrés de Force – Les Travailleurs Indochinois en France
(1939-1952)" - nxb Solin, Actes Sud, 2009 – 273 trang.
Khi Pháp tuyên chiến với Đức (3.9.1939), người ta bắt đầu có ý nghĩ
đưa người lao động thuộc địa sang làm việc, góp phần vào nỗ lực
chiến tranh, thay thế trai tráng của Tây đi lính. Khởi thủy, Pháp dự
định thiết lập trong thời chiến, một sở Main-d'Oeuvre Indigène (MOI,
Tay nghề thuộc địa), đặc biệt chú ý tới tiềm năng lao động của Bắc
Phi, Madagascar. Vì Đông Dương xa quá và không nói tiếng Tây một
cách phổ biến nên Pháp chưa nghĩ tới. Ngày 29.8.1939, trước khi
chiến tranh với Đức bùng nổ, mới có nghị định trưng thu người và tài
sản của Đông Dương.
Tháng 9 năm 1939, Toàn Quyền Đông Dương, Georges Catroux, tư giấy về
địa phương để bắt người. Gia đình nào có hai trai tuổi mười tám,
phải nộp một người cho "Mẫu Quốc". Nếu từ chối, gia trưởng phải đi
tù. Theo thông cáo thì chánh quốc cần 50.000 công nhơn Đông Dương,
phân chia ra như sau: Bắc Kỳ 25.000, Trung Kỳ 17.000, Nam Kỳ 5.000
và Cam Bốt 2.500. Con số phải trưng dụng không khi nào đầy đủ, vì lý
do nầy hay nguyên cớ nọ.
Thật ra việc trưng dụng không gặp khó khăn vì người dân thuộc địa
lúc đó rất sợ nhà cầm quyền, vì công chức nhà nước rất tích cực lập
thành tích để lấy điểm và vì lẽ có nhiều thanh niên thích đi Tây
chơi cho biết. Mức độ trưng dụng cưỡng bách và tình nguyện sai biệt
tùy theo trình độ học vấn. Nông dân mù chữ bị trưng thâu đến 96%,
còn thành phần có trình độ thì phần đông là tự nguyện ra đi với tư
cách thông ngôn hay trưởng toán.
Những người được chọn, phải qua cuộc khám sức khỏe rồi tập trung lại
những nơi gần điểm lên tàu như Hải Phòng, Đà Nẳng và Sài Gòn. Trong
thời gian chờ đợi đi Tây họ không được tiếp xúc với gia đình. Ngày
12.10.1939, tàu "Yang Tse", từ Nhựt Bổn ghé qua Hải Phòng, chở 1.396
lao động Đông Dương đi Pháp (cảng Marseille), ở khoang hạng tư.
Chiếc tàu nầy phải được chỉnh trang lại, sửa đổi khoang chứa hàng để
chuyên chở đủ số người đông đảo một cách bất ngờ đó. Nên chi tiện
nghi và điều kiện an toàn không được bảo đảm.
Từ tháng 10 năm 1939 đến tháng 5 năm 1940, đã có 15 tàu bị trưng thu
để chở 19.362 lao động Đông Dương đi Marseille. Thời gian di chuyển
mất trung bình khoảng từ một tháng đến bốn mươi ngày. Người lao động
Đông Dương bị coi như thú vật trong khi đi tàu, ăn uống cực khổ, chỗ
nằm tù túng, không được lên từng trên để hít thở không khí,... Trên
tổng số 19.362 lính thợ được đưa lên tàu, 86 người không đến được
cảng Marseille vì bị chết, mất tích, đào ngũ và nằm nhà thương dọc
đường.
Đến Marseille, tất cả lính thợ đều được tập trung lại nhà tù
Baumettes, vừa mới cất xong, chưa hoạt động như nhà lao. Trung tâm
này nằm dưới quyền chỉ huy của ông Tướng Petit, cựu sĩ quan thuộc
địa, nói sành tiếng Việt, đã từng dẹp loạn bên Việt Nam hồi 1930.
Ông muốn lính thợ gọi ông bằng "Cụ Lớn" chớ không được gọi bằng cấp
bực "mon général".
Tại Baumettes, lực lượng lính thợ được phân chia thành đội ngũ, theo
thứ tự đến Pháp. Từ chuyến tàu đầu tiên cập bến Marseille ngày
21.11.1939 đến chuyến sau cùng ngày 6.6.1940, người ta phân chia ra
làm 73 đại đội. Một đại đội gồm có 250 lính thợ. Mỗi đại đội có một
hoặc hai thông ngôn, chia ra làm 10 nhóm gồm có 24 lính thợ, đứng
đầu là một thầy cai. Toàn bộ 73 đại đội chia ra làm 5 toán:
- Toán 1 đóng ở Agde, sau dời về Lodève (Hérault).
- Toán 2 đóng ở Bergerac (Dordogne).
- Toán 3 đóng ở Sorgues (Vaucluse).
- Toán 4 đóng ở Toulouse (Haute-Garonne).
- Toán 5 đóng ở Marseille (Bouche-du-Rhône).
Phân chia
như vậy chỉ là trên lý thuyết, chủ yếu những lính thợ được sử dụng
trực tiếp trong những xưởng làm thuốc súng. Công việc làm không có
gì nặng nhọc nhưng mùi thuốc súng làm cho con người ăn uống không
được và có ảnh hưởng đến đường hô hấp. Do đó lính thợ bị bịnh khá
nhiều. Cũng may là Tây đầu hàng Đức nhanh chóng nên chuyện làm thuốc
súng không kéo dài.
Chuyện Tây đầu hàng Đức làm cho lính thợ ngỡ ngàng không ít. Ở quê
nhà, nhìn thấy Tây thực dân sợ khiếp vía, họ tưởng đâu Tây là vô
địch, tại sao lại thua trận quá dễ dàng và nhanh chóng như vậy? Cảnh
chạy tán loạn của người Tây khi Đức kéo tới, không tác động gì tới
lính thợ, lại làm cho họ dửng dưng, vì cuộc chiến đâu phải của họ,
nếu không muốn nói mừng thầm là khác, vì hết giặc giả thì họ được
trả về quê quán.
Theo nguyên tắc thì hết giặc lính thợ sẽ được trả về nước, như đã
viết trong hợp đồng. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1941, Pháp hồi cư
4.400 lính thợ Việt Nam, ai đi trước thì về trước. Nhưng sau đó,
tình hình giữa Luân Đôn và Vichy (Chánh phủ Pétain) căng thẳng nên
Anh bế tỏa đường hàng hải với Viễn Đông. Do đó, từ mùa đông 1941 đến
mùa hè 1945, không có một chiếc tàu nào liên lạc được giữa Pháp với
Đông Dương hết. Vì vậy cho nên cả thảy 14.200 lính thợ Việt Nam bị
kẹt lại chánh quốc suốt thời kỳ Tây bị Đức chiếm đóng.
Với đà tiến của quân Đức, các trại lính thợ Việt Nam di tản lần
xuống phía Nam nước Pháp. Họ bị tập trung lại trong những trại, có
lính canh gác cẩn thận, phần đông là lính đã ở thuộc địa trước kia,
chớ không được tự do. Họ được nhà nước sử dụng vào nông nghiệp, lâm
nghiệp và công nghiệp, và cấm ngặt tự do làm thuê.
Đời sống lính thợ trong trại chẳng khác nào đời tù, bị Tây canh gác
hành hạ, đánh đập, chửi rủa, bỏ đói,... chẳng chút xót thương. Trời
lạnh mà ăn mặc chẳng có gì, hai ba năm mới phát quần áo thay thế, có
người còn mang guốc. Ban ngày xuất trại đi lao động, tối đến sau 10
giờ là giới nghiêm, về trể hơn là bị nhốt.
Họ phải ngủ hai người một giường, trên những cái nệm độn rơm. Nhà
thì nhà cây hay gạch, không có sưởi, nước nóng cũng không. Thức ăn
thì ngày nào cũng như ngày nấy, chỉ có cơm và "canh không người
lái", nghĩa là chẳng có rau cải gì hết.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí, cơ cực đã vậy lính thợ bị kẹt
lại Pháp còn gặp nạn quan trên ăn cắp thực phẩm đem bán. Số là thời
kỳ Đức chiếm đóng, nước Pháp có khó khăn trong vấn đề tiếp tế, nên
mới có nạn chợ đen nhu yếu phẩm. Trong tệ nạn nầy cũng có sự tiếp
tay của những lính thợ có chức có quyền người Việt, vì sợ quan trên
cũng có mà vì muốn ăn chia cũng có. Thậm chí thuốc men cũng bị ăn
cắp!
Theo giấy tờ thì con số 20.000 người Việt Nam được đưa qua Tây để
làm việc cho những cơ sở thuộc Bộ Quốc Phòng. Họ chỉ bị trưng dụng
trong thời gian chiến cuộc mà thôi. Vậy mà, sau khi chiến tranh
Pháp-Đức kết thúc, Tây không trả lính thợ về Việt Nam được vì đường
biển đi Viễn Đông bị bế tắc. Do đó, 14.200 người Việt Nam bị kẹt lại
Pháp, nên chánh phủ Vichy quyết định kiếm việc cho họ làm, chớ chẳng
lẽ để họ ăn không ngồi rồi.
Những lính thợ được đưa vào những công việc ngành nông (hái nho, hái
trái cây, nhổ rau, trồng lúa...), ngành công nghiệp (xưởng dệt, đốn
cây, cung cấp than chạy xe hơi,...), nghề rừng, v.v. Ngoài ra, họ
cũng được sắp xếp để làm việc cho nhà nước Tây, cho quân đội Đức,
cho cơ xưởng và xây cất. Nặng nhọc nhứt là công việc làm muối. Ban
đầu Sở MOI của chánh phủ Vichy lo sắp xếp công ăn việc làm cho lính
thợ Việt Nam. Lần hồi, có nhiều vụ bê bối trong nội bộ MOI, lính thợ
đào ngũ trốn đi, tự kiếm cách sống.
Lãnh vực mà
lính thợ thành công nhứt là việc trồng lúa trên cánh đồng Camargue.
Lúa Camargue bắt nguồn từ giữa thế kỷ thứ XIX. Nhưng giống lúa đó
năng xuất không cao, chất lượng không tốt, hơn nữa thuộc địa Đông
Dương và Madagascar của Tây thời đó thiếu gì gạo ngon. Đến khi đường
biển qua Viễn Đông bị cấm, người ta phải nghĩ đến vấn đề lương thực
cho 23.000 người Đông Dương (9.000 lính khố đỏ và 14.000 lính thợ).
Vì vậy, mới có ý kiến triển khai lúa Camargue.
Mùa lúa đầu tiên là vào tháng 9 năm 1942. Đó là một thành công đáng
kể. Năm 1942 gặt được 800 tấn, năm 1943 được 1.050 tấn, năm 1944
được 750 tấn và năm 1945 được 1.250 tấn. Đó là chưa kể số lúa nông
dân giấu riêng để bán ra chợ đen. Công việc trồng lúa ở Camargue từ
400 mẫu hồi 1944 nay đã lên đỉnh cao 32.000 mẫu hồi năm 1950.
Ngày nay ở Arles và trong vùng châu thổ sông Rhônes, lúa được coi
như là yếu tố chủ yếu trong nét đặc thù của Camargue, cũng như bò
mộng, ngựa kim và chim hồng hạc. Nhưng chẳng mấy ai nghĩ đến những
người Việt Nam lính thợ, đã từng có công làm giàu cho địa phương với
giống lúa đó.
Trên cả vùng Camargue, có một chỗ duy nhứt là vùng khỉ ho cò gáy
miệt Sambuc, còn nhắc nhở tới vai trò then chốt của người Việt Nam
trong vụ lúa Camargue. Đó là viện bảo tàng Lúa Gạo của tư nhơn, do
ông Robert Bon thành lập năm 2000, trong một nhà kho lớn trên thôn
trang của cha ông. Trên một bức ảnh có hình những người đang cấy
lúa, người ta thấy ghi rằng: "Những nông dân Việt Nam đã vui sướng
lập lại những cử chỉ truyền thống và mang lại kinh nghiệm thành công
do ông cha để lại cho ruộng lúa Camargue."
Những người lính thợ Việt Nam bị nhốt trong các trại nên phần lớn
không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với quân Đức chiếm đóng. Một vài
nhóm bị Đức bắt làm tù binh cho biết rằng Đức đối xử ít tàn nhẫn hơn
Tây, vì Tây quen coi người Việt là dân "bản xứ", thuộc địa.
Lính thợ Việt Nam cũng có góp phần vào công chuyện kháng chiến chống
Đức của nhơn dân Pháp. Tuy nhiên, không như lính khố đỏ, họ không
mấy tích cực vì chưa có thói quen về binh nghiệp. Hơn nữa, ý nghĩa
"giải phóng" của lính thợ nhằm vào những tên Tây cán bộ các trại
trước kia có đầu óc thực dân đã ăn hiếp họ, đã ăn chận lương thực
thực phẩm, thuốc men trong thời kỳ vừa qua. Đối tượng của họ không
phải là Đức mà là Tây ác độc với họ.
Lính thợ Việt Nam thừa cơ hội nầy để vươn mình lên, coi ngang hàng
với Tây, có người cưới vợ đầm, ai có đủ sức thì trốn bỏ tập thể lính
thợ để ra ngoài sống tự do. Hết giặc rồi, đường biển đi Viễn Đông
không còn bị cấm vận nữa, lẽ ra Pháp phải trả lính thợ về nguyên
quán. Vậy mà không, những con người bị Tây cưỡng bách lưu đày đi làm
công, vẫn còn phải chờ, có người phải bảy tám năm sau.
Lúc bấy giờ là vào khoảng mùa thu năm 1945, Pháp có ý đồ tái chiếm
Việt Nam với cuộc đổ bộ của quân đoàn Tướng Leclerc. Chiến sự
Việt-Pháp bùng nổ nên Tây không muốn đưa lính thợ về, vì như vậy sẽ
gián tiếp tăng quân cho Việt Minh, và còn phải dành chỗ trên tàu để
chở quân đội viễn chinh. Với lý do nhơn đạo, Tây chỉ cho một số ít
người bịnh hoạn được hồi hương. Đến năm 1948, phương thức tốt nhứt
để được Tây cho về nước là làm sao cho bị bắt về tội phá rối trị an
của Pháp.
Đầu năm 1948, ở Pháp còn 12.000 lính thợ. Trong khi chờ đợi lâu mà
không thấy có đợt hồi hương, nhiều người tìm được công ăn việc làm.
Nhưng, sau đó có nhiều đợt trả về Việt Nam. Bộ Thuộc Địa quyết định
đến cuối năm 1952, mọi lính thợ phải về nước hết. Ai về sau ngày đó
thì phải tự túc. Vì có kỳ hạn đó nên những người không thấy có tương
lai hứa hẹn khả quan đều trở về Việt Nam.
Vắng mặt ở đất nuớc từ tám năm cho đến mười ba năm biệt xứ, những
người lính thợ làm sao khỏi bị thiên hạ chín nghi mười ngờ khi trở
về nước. Nhứt là vì quan điểm chánh trị thân Tây, thân cộng nữa. Bà
con chòm xóm lớp thì dè bỉu là người của Tây, lớp cho rằng bị cộng
sản bắt hồn.
Có một số người ở lại Pháp luôn, nhưng không đông lắm. Trên con số
20.000 người thì chỉ có khoảng một ngàn người. Những người này phần
lớn vì họ trót kết hôn với phụ nữ Pháp. Có vợ đầm thì làm sao mà
sống được ở Việt Nam. Một số ít lính thợ thành công lớn, tên tuổi
vang lừng trên thế giới, như trường hợp nghệ sĩ tạo hình Lê Bá Đảng
và nhà làm phim Phạm Văn Nhân.
Bị cưỡng bức lưu đày như vậy, người lính thợ Việt Nam còn bị bốc lột
đến xương tủy về mặt tài chánh. Họ được trả lương rẻ mạt chỉ vì họ
là người công nhơn "bổn xứ", đồng nghĩa với "người không có quyền
lợi như người Pháp". Qua bài toán chi ly lương bổng của lính thợ
Việt Nam, người ta thấy rõ ý đồ bốc lột dân thuộc địa của Tây thực
dân.
Đồng lương tháng của lính thợ là tổng hợp của nhiều tính toán linh
tinh nhiêu khê, mà con số tổng hợp lại cũng không bằng một phần mười
lương của người thợ Pháp lúc bấy giờ. Người ta chẻ làm tư sợi tóc
lương bổng của lính thợ như vậy cốt để che đậy tình trạng lao động
khổ sai gần như miễn phí của nước Pháp trong những năm 1940.
Sau 1945, tình hình bên nhà cũng bắt đầu có ảnh hưởng đến tập thể
lính thợ, từ bấy đến giờ không quan tâm đến chánh trị. Phong trào ý
thức như vậy bắt nguồn từ tin tức quê nhà làm cho họ nuôi hy vọng
độc lập tự do cho xứ sở và từ chủ trương đấu tranh của nhóm cán bộ
cộng sản, chủ yếu là những người Trostkyst.
Nhơn Hội Nghị Fontainebleau (6.7.1946), trên đường đi Toulon để lấy
tàu trở lại Việt Nam, ngày 17.9, Hồ Chí Minh có tạt ngang trại lính
thợ Mazargues (gần Marseille) để tâm lý chiến với họ. Ông khuyên
lính thợ nên "thỏa hiệp với Pháp. Chúng ta là một nước nghèo, liên
kết với Pháp là một nước giàu thì chúng ta sẽ giàu." Nói xong, ông
hỏi: "Anh em có hiểu tôi không?" Im lặng một lúc lâu mới có người
đáp với giọng mỉa mai:
- Thưa có ạ, chúng tôi hiểu rõ.
Hồ Chí Minh lên tiếng quở trách cử tọa: "Mấy người hãy để chánh trị
cho chúng tôi lo. Chúng tôi là những người chuyên viên. Là công nhơn
lao động, mấy người chỉ có bổn phận lo làm giàu đất nước." Điều đó
làm phật lòng những thành phần cấp tiến vì họ cho là Hồ Chí Minh coi
lính thợ như trẻ con.
Lính thợ phần lớn gồm những người phe Trotskyste nên ủng hộ Hồ Chí
Minh có điều kiện. Họ ủng hộ Hồ Chí Minh trên lập trường chống Tây
ngoại xâm nhưng vẫn còn phê phán chánh sách của Hồ Chí Minh. Cho
nên, về sau trong nội bộ lính thợ hai phe cộng sản và Trotskyste
choảng nhau chí cốt. Nổi cộm nhứt là trận thảm sát ở trại Mazargues
giữa hai phe trong đêm 15.5.1948, mà báo chí Pháp thời đó gọi là
"Saint-Barthélemy Indochinoise".
Về đến Việt Nam đâu phải được tự do, muốn làm gì thì làm đâu, mà còn
phải bị tù tội hay bị cưỡng chế lao động nữa! Ở Việt Nam, lính thợ
đổ bộ xuống Base de Débarquement des Travailleurs Indochinois (BDTI,
Căn cứ hồi hương lính thợ Đông Dương). Căn cứ này được canh gác cẩn
thận như nhà tù, có hàng rào kẽm gai.
Ở đây, nhà cầm quyền Tây có hai thắc mắc. Một là, tiếp tục coi họ
như lính thợ bên chánh quốc, đưa họ đi làm nhơn công rẻ mạt cho
những nơi nào cần ở Đông Dương. Hai là, để cho họ tự do trở về nơi
sanh quán. Giải pháp thứ hai này hơi khó vì làm sao đưa họ về làng
mạc của họ với tình hình an ninh lúc bấy giờ? Về sau bắt đầu có
những phong trào chánh trị trong căn cứ, mà chủ chốt là cộng sản nên
xảy ra những chuyện rắc rối.
* * *
Rốt cuộc
lại, thời kỳ từ năm 1939 đến những tháng trước khi Tây thua Đức hồi
năm 1940, trong đó có trên 20.000 người lính thợ Việt Nam, tự nguyện
thì ít mà bị bức bách qua Tây làm việc thì nhiều hơn, đã bị người ta
cố tình quên đi. Khi đình chiến, một số ít, bịnh hoạn được trả về,
nhưng còn 14.000 bị giữ lại suốt thời kỳ chiến tranh, bị ép buộc làm
việc cho nhà nước Vichy của Ngài Thống Chế Tây, cho Quốc Xã Đức và
cho những xí nghiệp tư nhơn Tây.
Bị kiểm soát gắt gao như lính tráng, bị tập trung trong những căn
trại như tù, nuôi ăn kém và thiếu thốn, bị bốc lột thẳng tay, bị
hành hạ, vệ sinh thuốc men chẳng có gì, phần đông những lính thợ mắc
bịnh lao phổi, lao xương, cả trăm người chết trước khi nước Pháp
được giải phóng. Dựa trên chủ nghĩa thực dân đế quốc, chánh quốc tự
coi như đương nhiên có quyền hưởng theo nhu cầu những tài sản của
thuộc địa, như cao su, khoáng sản và kể cả con người!
Cuộc giải phóng nước Pháp khỏi sự lệ thuộc Đức đã gián tiếp mở mắt
người dân thuộc địa Đông Dương và kích thích tinh thần yêu nước. Cho
nên, bắt đầu có những cuộc phản kháng, sơ khởi là đòi hỏi công lý
cho những sai quấy của người cai quản các trại trước đây. Rồi lần
hồi bước sang lãnh vực chống thực dân và biểu lộ lòng yêu nước. Thấy
có mầm móng nổi loạn, Tây khởi sự cưỡng bách hồi hương lính thợ.
Nhưng về tới Việt Nam cũng vẫn còn bị nhốt lại trong những trại tập
trung lao động không lương, vì sợ họ gia nhập hàng ngũ Việt Minh.
Nghĩ thương cho dân mình! Là nông dân bị Tây bắt ép gom góp lại đem
liệng qua chánh quốc để lao động trong công nghiệp quốc phòng (làm
thuốc súng và đạn dược). Đã vậy còn thiếu sót và tàn nhẫn trong
chuyện nuôi ăn, nuôi mặc, lại thêm chuyện ăn xén ăn bớt lương thực
thực phẩm thuốc men. Chỉ có một số người có ăn học, biết chút ít
tiếng Tây, mới tình nguyện làm lính thợ cao cấp và thấy được đường
đi nước bước của riêng mình. Đa số những người "nhà quê" còn lại
chịu số phận hẩm hiu và cảnh đời bơ vơ đến khi tóc bạc răng long!
Sau mười hai năm lưu lạc trên đất "Mẫu Quốc", những người lính thợ
kia hồi cố quận
với hai bàn tay trắng, vì trót bị "một nước cộng hòa Đại Pháp, một
quốc gia của Ngài Thống Chế và một nước Pháp Giải Phóng" bốc lột tận
xương tủy.
Ngày 10.12.2009, lần đầu tiên, Tòa Thị Chánh Arles tổ chức một buổi
lễ long trọng để gắn huy chương tưởng nhớ công lao của mười lão ông
lính thợ còn lại. Trễ còn hơn không, mười cụ già đó, đại diện cho
gần 20.000 lính thợ, rất hân hạnh thấy niềm đau nỗi nhục, thấy công
trình và cuộc đời nổi trôi bơ vơ của họ cuối cùng cũng được công
nhận.
Phan Quân
|