Cố hoàng hậu vẫn ngự
trong tim
Chabrignac
là một xã ấp nhỏ của Pháp trong quận hạt Corrèze, vùng Limousin gần
Thị Trấn Bordeaux. Vậy mà, cho tới hôm nay Chabrignac cứ còn lưu
luyến mãi với một con người Việt Nam đã qua đời từ ngày 16.12.1963.
Qua bài viết trên "lepopulaire.fr" ngày 14.6.2010 tựa đề "La belle
impératrice demeure dans les coeurs", người ta đưa tin:
Chabrignac và Việt Nam đã liên kết bởi một tình cảm không ai ngờ
được. Vì Nam Phương Hoàng Hậu đã chọn nơi nầy làm chốn dung thân từ
năm 1958 cho đến khi qua đời. Trong năm năm của cuộc sống trên cõi
đời "Corrézienne" ấy, Hoàng Hậu đã để lại bao nhiêu là dấu ấn, biết
bao là tình cảm cho người dân trong vùng.
Năm 1958, nguồn tin cho rằng Hoàng Hậu sẽ đến ở trên đất đai ở
"Perche" làm cho dân làng bán tín bán nghi. Vậy mà khi bóng dáng của
Bà đã trở nên quen thuộc thì người ta cứ tưởng như mơ. Những mối
giao dịch thân tình và thoải mái của Bà với dân chúng đã đưa sự hiện
diện của người quyền quý Việt Nam nơi miền thôn dã Pháp từ chỗ xa lạ
vào chốn bình thường.
Ông Lucien Boudy, cựu Xã Trưởng Chabrignac, nhắc lại rằng Bà là một
mệnh phụ phu nhơn hết sức lịch sự, nhứt là vô cùng hào phóng với dân
làng. Bà rất nhơn đạo và nhiều thiện cảm với nhơn viên của tòa nhà.
Khi Bà mua tòa nhà ở "Perche", Hoàng Hậu đã phần nào trở thành nhà
nông. Ai cũng nghĩ là Bà muốn tránh thành phố Cannes, nơi mà hoàng
gia đã có một lâu đài, mà cũng là nơi mà Bà thường bị quấy rầy.
Nhưng lý do chánh là tánh không chung thủy của cựu Hoàng Bảo Đại và
thái độ không tốt của bà mẹ chồng.
Ngôi mộ của Hoàng Hậu trong nghĩa trang bé nhỏ ở xã đã lưu giữ mãi
kỷ niệm của Bà trong lòng người dân. Dẫu vậy, sự kiện lịch sử ít
người biết nầy - hay đã lãng quên - vẫn còn làm cho Hiệp Hội
Pháp-Việt thị xã Bordeaux xúc động, nên cuối tuần nầy
(19-20.6.2010), Hội sẽ có một phái đoàn đến Chabrignac để viếng thăm
Hoàng Hậu.
* * *
(Trích Wikipédia)
Nam Phương Hoàng Hậu, tên thật Nguyễn Hữu Thị Lan là vợ của Hoàng Đế
Bảo Đại.
Bà là vị
hoàng hậu
duy nhất được phong khi còn sống của
nhà Nguyễn,
cũng là hoàng hậu cuối cùng của chế độ
phong
kiến Việt Nam.
Bà khuê danh là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày
4 tháng 12,
1914
tại
Gò Công,
Tiền Giang,
xuất thân trong một gia đình
Công giáo
giàu có bậc nhất
miền Nam
thời bấy giờ, do đó bà còn có tên thánh là Marie Thérèse. Bà là con
gái của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát
Đạt, tức
Huyện Sỹ.
Lê Phát Đạt là người bỏ tiền xây dựng Nhà Thờ ở đường Bùi Chu cũ,
hiện nay là
nhà thờ Huyện Sỹ,
đường
Tôn Thất Tùng,
Quận 1,
Thành phố Hồ Chí
Minh và
nhà thờ Hạnh Thông
Tây ở
Gò Vấp
(nhà thờ Chí Hòa đường Cách mạng tháng 8 - Q. Tân Bình được xây dựng
với số tiền dư khi xây dựng xong nhà thờ Huyện Sỹ)
Năm
1926,
Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, khi đó 12 tuổi, được gia đình cho
sang
Pháp
học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng ở
Paris
do các
nữ tu
điều hành.
Tháng 9
năm
1932,
sau khi thi đậu
Tú tài,
Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng
Messagerie Maritime. Vua
Bảo Đại
hồi loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau.
Gần một năm sau đó, trong một buổi dạ tiệc tại
khách sạn
La Palace
tại
Đà Lạt
do
Toàn quyền Đông
Dương và viên Đốc lí thành phố sắp
đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt
Nam:
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng
chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường
nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích
thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng
có vẻ đẹp dịu dàng của người
miền Nam
pha một chút
Tây phương.
Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng.
"Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về
người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam
Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng
thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và
tôi đều nghĩ rằng trước kia đức
Thế Tổ Cao Hoàng
đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn.
Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân
miền Nam".
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:
"Hôm đó ông Darle, Đốc Lí thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát
An tôi và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng
cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái
chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi
cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi.
"Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế
định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào
chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa
nói:
- "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được".
"Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên
chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi
nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
"-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie
Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái,
cô Marie Thérèse)
"Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi
biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy
tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi
đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi
mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo
nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng
tôi bắt đầu nói chuyện.
"Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó
Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được
nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là
người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng
cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".
Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ
đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm
tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị
Lan ra điều kiện:
-
Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay
trong ngày cưới.
-
Được giữ nguyên đạo
Công Giáo,
và các con khi sinh ra phải được
rửa tội
theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
-
Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là
Phật giáo.
-
Phải được
Tòa Thánh
cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác
nhau.
Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh
đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu
Đông Dương,
nhưng bà mang quốc tịch
Pháp
và theo
Công giáo.
Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất
nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại đã nói:
"Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ
Tôn Thất Hân
và Triều đình."
Hôn lễ được tổ chức ngày
20 tháng 3
1934
ở
Huế.
Khi đó Bảo Đại đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Ngay
ngày hôm sau, lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở
điện Dưỡng Tâm.
Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu. Sự kiện Nguyễn
Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt
lệ đối với các vợ vua triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn
trước, các bà vợ vua chỉ được phong tước
Vương phi,
đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi đã
chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có
nghĩa là hương thơm của miền Nam và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt
cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế".
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam
Phương dọn về ở tại
điện Kiến Trung
thuộc khu vực
cấm thành.
Điện này xây cất từ thời vua
Khải Định
nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu
triều vua Bảo Đại.
Đêm ngày
4 tháng 1
năm
1936,
người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã
hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm
lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Hoàng hậu Nam phương đã sinh một
hoàng tử. Người đó chính là Đông cung Thái tử Bảo Long.
Hoàng hậu Nam Phương cùng Bảo Đại có tất cả 5 người con.
Khi đó công việc hàng ngày của hoàng hậu Nam
Phương là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng
các quan ở
Bộ Lễ
bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các
Tiên đế
và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu
Từ Cung,
tức mẹ vua Bảo Đại. Hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã
hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng
cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng
Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu Nam
Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh
vào học đường.
Hoàng hậu Nam Phương cũng xuất hiện thường
xuyên bên cạnh Bảo Đại trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp
Thống chế
Tưởng Giới Thạch
của
Đài Loan,
Quốc Vương Soupha Vangvong nước
Lào
hoặc Quốc vương
Sihanouk
của
Cao Miên...
Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm
Nam Vang
cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu Nam
Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam
với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng
kéo dài.
Năm
1945,
Cách mạng tháng Tám
thành công. Ngày
25 tháng 8,
Chính phủ lâm thời
Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu
cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày
30 tháng 8
1945,
Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở
Ngọ Môn,
Huế, trao
quốc ấn
Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính
phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là ông
Trần Huy Liệu.
Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức "Cố vấn tối
cao" trong chính phủ. Ngày
16 tháng 3
1946,
ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng
Trung Hoa,
nhưng không trở về nước. Sau ngày toàn quốc kháng chiến
19 tháng 12
1946,
thực dân Pháp trở lại chiếm đóng
Huế.
Hoàng hậu Nam Phương cùng các con sang Pháp.
Tuy vậy, Nam Phương hoàng hậu được nhiều người
đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của sử gia
Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm
1949:
Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân
Anh
quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam.
Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại
An Định cung
bên bờ sông
An Cựu.
Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang
trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp
cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng
của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
"Kể từ tháng 3 năm
1945,
nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng
tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội
Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục
chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của
thực dân Pháp là trái với chủ trương của
Đồng Minh
mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những
ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để
giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước
tôi.
"Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả
bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do.
Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền
hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng
biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi"
Hoàng hậu Nam Phương cũng là người tiêu biểu
trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với “Tuần
lễ Vàng” do
Việt Minh
phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày
17 tháng 9
1945,
bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo
hết số hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người. Sau đó bà được
gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng.
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm
1947.
Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một
làng cổ ở
Chabrignac,
tỉnh
Corrèze,
vùng
Limousin
nước
Pháp.
Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5
phòng khách... Bảo Đại có đến thăm bà vài lần.
Tháng 1
năm
1962,
công chúa Phương Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain.
Bảo Đại cũng đến dự và đám cưới đó là một sự kiện của vùng.
Bà mất ngày
16 tháng 9
năm
1963.
Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt
nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà
đang đi học hoặc làm ở
Paris,
còn Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của bà được tổ chức một cách sơ sài
lặng lẽ. Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên
cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía
quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của
Brive la Gaillarde
và
Chabrignac.
Trong suốt thời gian tang lễ Cựu hoàng Bảo Đại cũng không có mặt.
Hoàng Hậu Nam Phương được chôn cất tại nghĩa
địa Chabrignac. Ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng
chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết
chữ Hán,
mặt sau viết
chữ Pháp:
Bia
chữ Hán:
ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ
(Mộ phần của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam)
Bia
chữ Pháp:
ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI
LAN
(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu An Nam nhũ danh Maria Têrêsa
Nguyễn Hữu Thị Lan)
|