Hận đời
Gần
đúng Ngọ là người dân xóm Sơn Quy bắt đầu nghe tiếng chửi đổng nổi
lên xa xa đằng phía cầu sắt, lối vào xóm từ hướng chợ Gò Công. Mà
ngày nào cũng vậy, bảy ngày trong tuần, vì con người bất mãn hận đời
đó đâu cần biết ngày của Chúa, phải nghỉ ngơi. Ông Bảy là một hiện
tượng hấp dẫn đối với tôi trong những dịp nghỉ hè, từ thời lớp nhì
tiểu học.
Trong năm học, tôi ở trên Sài Gòn, cứ tới lúc nghỉ hè là ba má tôi
cho về quê ngoại ở Tân Niên Trung nghỉ xả hơi. Nên chi, sinh hoạt kỳ
lạ của Ông Bảy cũng là một đoạn phim thời sự trong ngày của tôi,
trong kỳ nghỉ tháng bảy, tháng tám. Ngày nào không nghe tiếng Ông
Bảy chửi đổng dậy xóm, kể như cuộn phim ngày đó của tôi thiếu mất
một đoạn.
Tôi không rõ lý lịch của Ông Bảy vì ông có mặt trong xóm đã lâu,
chừng như từ khi tôi chưa ra đời. Lần đầu tiên tôi chạm trán với sự
hiện hữu của ông là khi tôi qua ngang nhà ông, trên bờ ruộng nối
liền nhà ngoại với nhà Dì Tám của tôi. Nhà ông là một căn chòi nhỏ,
cất trên một khu mã, nằm kế đường đi. Ông có nuôi một con chó vện
rất hung hăng, sủa to tiếng với bộ vó vô cùng áp đảo. Kỳ đó nếu
không có người lớn cùng đi thì chắc là nước tiểu đã thấm ướt quần
tôi! Vậy đó, Ông Bảy xuất hiện trong đầu tôi bằng một cung cách lạ
đời.
Năm đó, ông cũng phải vào lứa tuổi bốn mươi ngoài, nước da ngâm đen
vì bắt nắng, dáng người ôm ốm không cao, chẳng thấp, đầu cạo trọc.
Trên mép, ông để mọc bộ ria và dưới càm là một chòm râu, lún phún,
tiêu nhiều hơn muối, cho nên trông ông già hơn tuổi. Tướng đi của
ông thấy cũng bình thường không lộ vẻ bịnh hoạn. Trẻ con trong xóm
thường rủ nhau chạy theo ông vì hiếu kỳ, không mấy sợ sệt. Quanh năm
suốt tháng, nắng mưa gì ông cũng có chiếc áo cụt hai tay và cái quần
ngắn cũn cỡn. Đầu ông lúc nào cũng hai cái nón, một bằng vải kaki
bên trong, chồng thêm cái nón lá tả tơi bên ngoài.
Theo người lớn kể lại thì nguồn gốc của ông gắn liền với xóm làng từ
xửa từ xưa. Như một hiện tượng tự nhiên nên người dân quê chẳng ai
thắc mắc làm gì, thấy vậy thì hay vậy. Hằng ngày, nếu sức khỏe cho
phép thì từ tờ mờ sáng, khi đầu nậu thổi tù và tập trung nhơn công
nông nghiệp đi cấy hay đi gặt, Ông Bảy cũng chỏi gậy đi vô chợ Gò.
Mang kè kè bên hông là cái bị cói để đựng "chiến lợi phẩm" khi tan
chợ.
Rất tiếc là thời đó tôi còn nhỏ nên đâu được đi chợ một mình để tìm
hiểu xem ông vô chợ để làm gì. Từ nhà ngoại tôi đến chợ Gò cũng phải
trên ba cây số nên má tôi đâu có để cho tôi đi. Người ta xì xầm là
Ông Bảy vô chợ ngửa tay xin bà con cô bác làm ơn làm phước bố thí
đồng tiền bát gạo nuôi thân. Ngoài ra, ông còn lượm lặt những thứ gì
còn ăn được đem về nấu nướng. Và thỉnh thoảng ông có nhâm nhi chút
ít để đốt nóng bộ máy chửi đổng.
Suốt lộ trình từ chợ tới cầu sắt Sơn Quy, Ông Bảy cứ câm miệng hến,
chẳng nói lấy lời nào. Vậy mà qua cầu rồi là ông bắt đầu mở máy nói,
với âm thanh tối đa. Không hiểu ông ấm ức gì với dân cư xóm Sơn Quy
mà ông cứ chửi không đối tượng. Trên con đường liên tỉnh chạy ngang
qua xóm, người ta chỉ đếm được lối mươi căn nhà lá, trong số đó có
một ngôi nhà gạch khá đồ sộ, mà dân xóm kêu là "nhà thờ". Sở dĩ như
vậy là vì ở đó người ta lo thờ tự tam tứ đại dòng dõi họ Lê, mà
người đại diện cuối cùng là Đốc Phủ Sứ Lê Quang Liêm, được gọi một
cách cung kính đưới danh hiệu phổ biến "Ông Phủ Bảy".
Có thể Ông Bảy đố kỵ "nhà thờ" mà chửi bông lông chăng, nhưng cũng
lạ là những khi có mặt quan phủ ở nhà thì những lời chửi mây mắng
gió chẳng có nội dung gì đích thực. Chỉ khơi khơi căm ghét bọn có
của ăn của để, mà không đoái thương phường khố rách áo ôm. Nói chung
thì những gia đình có nhà cao cửa rộng trong xóm đều là kẻ thù của
Ông Bảy.
Cả xóm ghi nhận hiện tượng "Ông Bảy" như là cái lẽ đương nhiên,
không ai than phiền, mà cũng chẳng ai bực mình, cứ coi như chuyện
qua đường, nghe qua, thấy đó rồi bỏ. Nhưng hôm nào vắng tiếng chửi
của ông, thiên hạ đâm ra thắc mắc, không biết đương sự có mệnh hệ gì
không. Như vậy bà con chòm xóm cũng gián tiếp quan tâm đến sức khỏe
của ông.
* * *
Có hôm, con vện nhà Ông Bảy sút dây rượt theo một em bé táp rách
quần. May mà Ông Bảy kịp phản ứng, nếu không thì có thể con vện đã
đớp phải bấp chuối em bé rồi. Buồn thay em bé kia là con của Dượng
Tám tôi. Em bé sợ điếng hồn, khóc la inh ỏi, chạy về nhà mét ba má.
Dượng Tám, cựu tài xế của quan chánh tham biện tỉnh, một con người
nóng tánh, sòng sộc dắt đứa con tới nhà Ông Bảy mắng vốn. Yêu cầu
Ông Bảy buộc con chó lại đừng để nó bắt nạt người qua kẻ lại trước
nhà ông.
Nóng mũi vì con mình phải một phen kinh hồn khiếp vía, Dượng Tám hơi
lớn tiếng, trách cứ Ông Bảy. Vốn là con người xưa nay thường hay lớn
tiếng chửi đổng trên trời dưới đất, coi thiên hạ như pha, giờ lại có
người dám lớn tiếng với mình, Ông Bảy thấy hơi lạ, bắt đầu nộ khí
xung thiên. Ông bắt đầu cự lại, vậy là hai người lời qua tiếng lại,
con nít trong xóm tủa ra xem. Lời nói không chưa đủ, Ông Bảy bắt đầu
xô đẩy, rủi cho ông trợt chưn té trên đường vào nhà ông. Thế là sẵn
đà, ông nằm vạ la lớn lên:
- Bà con, làng nước ơi, nó đánh tui!
Nhưng chức việc trong xóm còn lạ gì Ông Bảy nên chẳng ai thèm can
thiệp. Rồi biến cố cũng êm đi cùng với màn đêm đang từ từ kéo xuống.
Từ đó trở đi cái chòi Ông Bảy là cái gai cho lủ trẻ con, phải tránh
né. Con nít di chuyển một mình đều phải tránh mặt đi vòng bờ con,
hơi xa một chút nhưng chắc ăn hơn, khỏi phải lôi thôi. Tránh voi
chẳng xấu mặt nào! Thành thử ra Ông Bảy là một hiện tượng nghịch lý
mà người dân Sơn Quy cứ phải chấp nhận như một lẽ sống trên đời.
* * *
Rồi một ngày mùa thu nọ, cả một dân tộc xôn xao, người cho là dậy
giặc, kẻ gọi là cộng sản nổi lên, dư luận bảo là cách mạng về...
không biết đâu mà rờ. Thôi thì dân xóm Sơn Quy trai, gái, lớn, nhỏ
rộn ràng. Chỉ có những bực trưởng thượng cứ bình chưn như vại, như
chẳng có chuyện gì xảy ra. Kẻ thì đem tầm vông vạc nhọn, người thì
tới lò rèn, gom sắt vụn đúc ba-nha (poignard). Trai tráng trong xóm
đều trang bị hẳn hòi, tầm vông vạc nhọn cầm tay, ba-nha vắt lưng,
cuộn dây treo tòn ten ở thắt lưng. Bộ mã đó tạo ra cho họ một hình
ảnh hào hùng của người chiến sĩ can trường hết mình bảo vệ đất nước.
Hàng hàng lớp lớp thiếu nữ, trẻ con, cũng phải bắt chước những người
trai tráng đứng vào hàng ngũ đội đoàn mà tập đi đều bước, đếm rõ một
hai, nhịp nhàng ca hát vang trời. Công chuyện đồng áng phó mặc, học
hành cũng lơ là. Không biết để làm gì cái ngữ ấy, có chống được gã
ngoại xâm nào không, có làm rách da trầy trán được tên việt gian nào
hay không.
Người ta họp hành, toan tính, vẽ mưu bày kế, cắt cử toán canh phòng
đầu xóm cuối làng, đốn cây chận đường, xẻ hương lộ hảm xe, đấp ụ đất
cản trở lưu thông... Công tác nào cũng quan trọng được thực thi hăm
hở với nét mặt căm thù. Nhìn họ thao tác người ta có cảm tưởng phen
này giặc có mà tiêu tan. Phải thử lửa mới biết giá vàng.
Một sáng tinh sương, đội canh phòng báo động vì có tin "tình báo" là
Tây đổ bộ Cầu Nổi, một bến đò ngang trên sông Vàm Cỏ - Bắc Mỹ Lợi -
cách xa tỉnh lỵ khoảng hai mươi cây số và cách Sơn Quy mười bảy cây.
Như vậy là đội ngũ dân quân sẵn sàng, trong tư thế chiến đấu. Dân
trong xóm gồng gánh nhau di tản vào trong sâu nương rẫy, cách lộ
liên tỉnh hằng mấy cây số.
Ban đầu gia đình tôi, vì không kịp tính trước, ba tôi quyết định tạm
lánh tại nhà Cô Ba tôi, cách xa lộ cái mấy cây số và khuất sau đám
rừng lá dừa nước của con sông Sơn Quy. Nhưng sau khi suy đi tính
lại, ngày hôm sau, ba tôi cho là không được ổn vì ở phía Bắc con lộ
thiếu chiều sâu chạy loạn. Ba tôi đổi ý, đem trọn gia đình băng qua
con đường liên tỉnh, chạy về phía Nam con đường, như vậy rộng đường
đất để, nếu cần, thì di tản về phía bên nội tôi ở Láng Chim.
Trong giờ phút đó mà di chuyển băng qua con lộ là cả một vấn đề.
Toàn thể gia đình, gồm có ba má và ba anh em tôi phải bò trường trên
ruộng lúa đã trổ đồng đồng để cho Tây khỏi thấy. Sau một buổi sáng,
cả nhà tôi băng qua được con lộ, chạy xuống nhà người bà con ở Xóm
Ngã Ba trú đỡ qua đêm. Trong khi đó, đạn trọng pháo, từ tàu Tây ở
bến bắc Cầu Nổi, cứ liên tục bay vun vút qua đầu chúng tôi mà hướng
vào tỉnh lỵ.
Sau gần một ngày tiền pháo, quân Tây bắt đầu đổ bộ, với những loạt
súng "cắc bùm" và loạt tiểu liên, thỉnh thoảng pha những tràng đại
liên. Chiến sĩ nhơn dân hào hùng mấy hôm trước, với tầm vong vạt
nhọn, ba-nha và cuộn dây đã tan biến đâu mất. Thiết giáp Tây dọn cây
ngả bẹp trên đường và lấp mương rãnh, tiến tới như vào chỗ không
người. Hai ngày sau, tỉnh lỵ chào thua, kháng chiến quân rút vô bí
mật, cái gì của Tây trả lại cho Tây.
Rồi thì bố ráp ngày một, ngày hai. Cây cầu Sơn Quy bị dân quân gỡ
ván để gây khó khăn cho đà tiến của quân Pháp, nay đã được lót trở
lại bằng thứ gỗ quý hơn, là những tấm ván gõ bóng láng của nhà dân
trong xóm. Trong mạng lưới bình định, quân Tây mở rộng diện tích an
ninh, đem quân đóng đồn tại ngôi "nhà thờ" của ông Đốc Phủ họ Lê,
một gian nhà gạch duy nhứt trong xóm. Như vậy là nếp sống của Sơn
Quy lần hồi trở lại bình thường, dẫu cho vết thương vẫn còn rướm
máu.
Ông Bảy vẫn ngày ngày vào chợ kiếm sống, nhưng phước đức cho dân
trong xóm là không còn nghe ông chửi đổng nữa. Qua chiến dịch tâm lý
chiến, ông trưởng đồn, một thượng sĩ Tây lai, thỉnh thoảng kêu Ông
Bảy ghé lại để tặng chút thức ăn quân tiếp vụ, gọi là để lấy lòng
dân chúng. Vậy là nếp sống Sơn Quy cứ êm trôi, gần như những ngày
xưa thân ái. Nếu không có hoạt động âm thầm của Ủy Ban Nhơn Dân
(UBND).
Một ngày đẹp trời nhưng chẳng phải ngày lành cho Ông Bảy. Đêm hôm
trước, ban trinh sát đã ghé thăm căn chòi của Ông Bảy và bắt ông đem
đi vô khu rừng lá ở Xóm Ngã Ba. Xét vì Ông Bảy thường liên hệ với
tên đồn trưởng nên UBND cho rằng ông đã cung cấp những chi tiết mật
kín của phong trào cho Tây. Do đó mà những hoạt động mật kín đều hư
hỏng nát bét. Từ đó trở đi người ta không còn thấy Ông Bảy đâu nữa!
Một kẻ hận đời lại bị đời hại lảng nhách!!!
Phan Quân
|