Trước đèn đọc sách:
Vịt Cà Mau
Olivier Todd - Nxb: J'ai lu (Tháng Hai 1975)
 
Olivier Todd (OT), người Pháp, gốc Hồng Mao
(mẹ người Anh, cha người Ba Lan) là nhà văn kiêm nhà báo thiên cộng
theo truyền thống gia đình - mẹ thân cộng và cha kế là thành viên
đảng cộng sản Pháp (PCF). Trong bối cảnh tinh thần và chánh trị như
vậy, OT chịu ảnh hưởng văn hóa xã hội của gia đình nên thế giới quan
của ông chủ trương rằng những gì "đỏ và hồng là tốt", còn những gì
"trắng và quân phiệt là khủng khiếp".
Là nhà báo, OT chuyên viết phóng sự về chiến cuộc Việt Nam (VN)
trong tinh thần của một chiến sĩ công khai thân Việt Minh (VM). OT
là nhà báo Pháp hiếm có, được Hà Nội hai lần (năm 1967 và năm 1972)
cấp chiếu khán cho vào miền Bắc làm phóng sự. Thậm chí, OT còn muốn
đăng những lời lẽ của tù binh Mỹ nguyền rủa Hoa Thạnh Đốn và ca ngợi
cộng sản VN. Nhưng, những người chủ biên của tờ báo không đồng ý.
Tháng Chín năm 1973, sau khi đi thăm một vùng do Chánh Phủ Lâm Thời
Miền Nam (CPLT) kiểm soát về, OT nhận thấy rõ ràng CPLT là con đẻ
của chánh phủ cộng sản Hà Nội (HN). Từ đó, OT có một bài viết nói
lên rõ ràng nỗi lo sợ của mình là rồi đây sẽ có một khuynh hướng
"thống nhứt" và sẽ có một phong trào "học tập cải tạo" và từ đó dân
thường sẽ phải hứng chịu những "bạo lực". OT đề nghị báo nói lên
điều đó, nhưng nên che đậy phần khó chấp nhận mà chỉ đưa ra đường
lối chung chung.
Nhưng, những người trong ban biên tập không đồng ý, cho rằng "còn
quá sớm để nói lên điều đó" vì độc giả chưa đủ trình độ chánh trị để
tiếp nhận. Bất bình với thái độ của ban biên tập, OT bày tỏ lập
trường của mình qua một bài đối thoại với tạp chí "Réalités". OT vẫn
kiên định giữ vững lập trường, bảo vệ quan điểm của mình. Vì vậy,
những tờ báo mà OT cộng tác đều ngán ngẩm cái tánh cương trực bất di
bất dịch của OT và mời ông "đi chỗ khác chơi", và từ đó OT bị loại
khỏi lãnh vực chiến cuộc VN.
Hai năm sau (1975), OT vẫn nhứt định bài tỏ quan điểm của mình về
chiến trường VN dưới một dạng khác. OT đưa những nhận xét của mình
về tình hình VN vào thể loại tiểu thuyết, có vẻ như giả tưởng, nhưng
từ những dữ kiện thật. OT viết ra một quyển chuyện, tựa đề "Les
Canards de Ca Mao" (Vịt Cà Mau), mà Phù Sa xin tóm lược để giới
thiệu cùng độc giả.
* * *
Ba nhà báo, hai trai một gái - Antoine (Pháp),
Morgan (Mỹ) và Charlotte (Anh, phóng viên ảnh) - thỏa thuận nhau
cùng đi Cà Mau để thừa dịp tiến vào mật khu giải phóng, hy vọng tận
mắt quan sát được thực tế. Cả ba ngồi xe đò đi Cà Mau, tiếng là đi
thăm Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (UHQT), rồi sau đó mướn
xuồng đuôi tôm đi vào bưng. [Trên phương diện sanh hoạt nghề nghiệp
thì năm 1973 OT đã rủ Chantal Charpentier, phóng viên ảnh và Ron
Moreau, ký giả tuần báo Newsweek, nói được tiếng Việt, cùng đi vào
vùng đất do CPLT kiểm soát]
Ba nhà báo biến khỏi cảnh quang Việt Nam Cộng Hòa làm chánh quyền
tỉnh bấn loạn lên, phải mở hành quân đi tìm họ lôi về. Không những
bên phía VN vừa lo ngại cho sự an toàn của họ, vừa sợ mất uy tín, mà
cả bên phía Hoa Kỳ, do mật báo của đường dây tin tức riêng, cũng băn
khoăn với sự biến mất của ký giả HK, Morgan T. Berstin. Ngoài ra
chánh quyền tỉnh còn có nhiệm vụ giải thích với thượng cấp là tại
sao sơ sót trong sự kiểm soát lãnh thổ.
Cả ba ngồi xuồng máy đi dọc con kinh Bà Bèo, tìm đường tiến vào
bưng, nhưng đến một cái đồn ven biên Cà Mau thì gặp trở ngại. Qua
tài điều đình của họ, trưởng đồn cho biết rằng phải có thỏa hiệp với
phía CPLT. Như vậy, chuẩn úy đồn trưởng nói phải chờ bên kia trả
lời. Trong khi chờ đợi, ba nhà báo nghĩ rằng nếu trở về Cà Mau đợi
thì chắc khó đi trở lại được.
Họ muốn ngủ nhờ ở nhà dân một đêm nhưng ai dám cho họ làm như vậy,
vì nếu bên phía VNCH biết được thì chủ nhà cho ngủ nhờ sẽ bị chánh
quyền làm tình làm tội. Bí nước, cùng đường cả ba lững thững, chán
chường lội ngược về Cà Mau. Thối chí và mệt nhoài, ba người dừng
chân ở một nhà lá rách bươm xin nước uống. Bất ngờ và vô tình, họ
chạm trán với một tiểu đội VC.
Chừng năm sáu người gì đó. Không có đồng phục gì ráo, ai có gì mặc
nấy, bà ba đen, sơ mi xanh, quần tây nâu,... chỉ có nón tai bèo là
như nhau. Võ khí thì tạp nhạp, kẻ súng dài, người lựu đạn,... Chỉ
một người mang súng ngắn. VC chăng? Người mang súng ngắn – tên Trần
Đình Đạo - nói chuyện với ba nhà báo thì mấy người kia bao bọc quanh
nhà, mặt nhìn ra ngoài, trong thế canh phòng.
- Được biết mấy người muốn đi tham quan vùng giải phóng. Cứ trở vô
thành phố chờ "Trên" trả lời.
Ba nhà báo lại ngán ngẫm trở về thành phố Cà Mau nhưng đi mà chẳng
muốn tới. Đang đi thì người dẫn đường gặp một kẻ đưa tin nói gì nho
nhỏ, rồi người dẫn đường trở lại cho ba nhà báo biết:
- Cà Mau loạn lên vì mấy ông bà mất tích. Họ đang hành quân tìm bắt
về. Họ cho quân càn quét hai bên bờ kinh.
Tình hình có vẻ nguy kịch cho ba nhà báo vì trên trời trực thăng bay
quần tìm kiếm. Đại tá tỉnh trưởng Cà Mau quyết tâm tìm bắt cho bằng
được ba nhà báo. Người dẫn đường chỉ bảo cho họ kỷ thuật di chuyển
tránh tầm quan sát của trực thăng, theo lối du kích. Người cán bộ
cộng sản súng ngắn lúc nảy xuất hiện trở lại và cho biết:
- Tình hình của ba người có vẻ căng. Tôi được "Trên" đề nghị với ba
người hai giải pháp. Một là trở lại thị trấn Cà Mau ngay. Hai là
theo tôi vào khu giải phóng.
Giải pháp thứ hai đúng ý ba người Tây phương lạc giữa đồng quê, vậy
là một chuyến "vạn lý trường chinh" bắt đầu. Ba người da trắng di
chuyển hàng dọc cùng với nhóm du kích quân, lúc ẩn khi lộ dưới tàn
cây, giống như dẫn độ tù binh. Họ cứ liên miên đi, xuyên qua những
xóm nhà xiêu vẹo, hoang phế, cháy dở không ai dọn dẹp, những bãi
chiến trường xưa cũ bị bỏ bê,... Đoàn người lúc đi, lúc dừng chân
nghỉ, lang thang, quanh qua quẹo lại, như không có điểm tới. Hình
như người của CPLT muốn đánh lạc hướng các nhà báo. Thỉnh thoảng họ
dừng chân dưới lùm cây, bụi cỏ, chân đi tránh những bải mìn, mà chỉ
có du kích mới biết.
Đoàn lữ hành đi tổng cộng cũng phải năm tiếng đồng hồ, trung bình
khoảng năm cây số giờ. Trừ thời gian nghỉ chân ăn uống, như vậy họ
đi lối hai mươi cây số. Nhưng họ đâu có đi thẳng đường chim bay, mà
vòng vo tam quốc, chẳng biết đâu mà rờ. Bây giờ muốn tìm lại lối ra
cũng đâu phải dễ. Ba nhà báo như lọt vào mê hồn trận, trao phận mình
cho toán du kích.
Đêm chụp xuống nhanh chóng, toán du kích như cá gặp nước, không còn
sợ máy bay quan sát nữa. Vũ trụ bây giờ là của họ, của đoàn quân ma.
Mỗi nhà báo có một du kích cầm đèn bấm hướng dẫn. Họ lần bước đi
theo người du kích dẫn đường, không dám rời nửa bước. Trong bóng đêm
hàng trăm hàng ngàn ánh lửa nổi lên, di chuyển đây đó như những ánh
lửa ma trơi. Đường ánh sáng mặt trời còn lại ở chân trời phía Tây
rồi cũng biến mất, xa xa tiếng trời gầm hoà lẫn với tiếng trọng pháo
75.
Toán du kích phụ trách ba nhà báo nằm tại một ấp nhỏ chờ lịnh "Trên"
cả tuần rồi mà không thấy gì hết. Lịnh lạc trong mật khu di chuyển
bằng giao liên nên phải lâu lắc. Hơn nữa chuyện báo chí đi tham quan
thì có gì khẩn cấp. Nói là nằm nhưng đâu phải họ cố định một nơi, mà
mỗi đêm di chuyển một nhà, ban ngày thì không ở lâu một chỗ quá hai
tiếng đồng hồ. Ông Đạo không tiết lộ địa điểm với ba nhà báo, nhưng
họ nghĩ là chẳng đi đâu xa. Chỉ quanh quẩn ven biên Cà Mau để thừa
hưởng vùng phi chiến giáp ranh quốc cộng.
Một buổi chiều, sau bữa cơm tối, bình tỉnh uống trà, đàm đạo bâng
quơ, bỗng dưng ông Đạo nói với ba nhà báo:
- Đã có quyết định của "Trên", chúng ta sẽ hành quân trong vòng một
tiếng nữa. Ba người chuẩn bị nghỉ ngơi, chuyến đi hơi xa.
Mỗi ký giả một chiếc xuồng tam bản, không có gắn máy mà di chuyển
bắng mái dầm hoặc bằng sào. Họ di chuyển ban đêm, không đèn đuốc gì
hết, trong khi những chiếc xuồng qua lại trên sông đều có đèn chong
hoặc đuốc. Một vài bến đậu có nhiều ánh sáng, có vẻ như xuồng buôn
tụ tập lại. Sinh hoạt ban đêm rất thịnh hành ở những vùng giải
phóng.
Bình minh đã ló dạng, màn đêm mỏng lần, trời đã bớt sao. Mấy chiếc
xuồng cập bến vào một cái cầu gỗ, trên đó có nhiều tiếng người.
Tiếng kêu của gà vịt xôn xao. Tiếng chó sủa rân. Ông Đạo cho biết đã
tới nơi. Thoắt cái, ông Đạo và những người du kích áp tải biến đâu
mất, không cần từ giả. Một nhơn vật khác, khá bảnh trai, đầu chải
tém, xuất hiện chào hỏi ba nhà báo và cho biết từ lúc này ông là
người chịu trách nhiệm về họ. Coi như thay thế ông Đạo.
Mấy ký giả nối gót đi theo ông ta trên con đường ngoằn ngoèo uốn
lượn, dưới tàn cây rậm rạp. Cứ trăm thước có một người lính canh,
với súng trường AK-46 lẫn M-16. Ba nhà báo được đưa vô một căn nhà
ngói khá to, nằm giữa nhiều nhà lá nhỏ. Những chị phụ nữ dọn cơm và
bày nước cho nhà báo. Là người duy nhứt nói được tiếng Việt, Antoine
định mở miệng nói chuyện thì bị ngăn cấm liền.
Mới giao tiếp đã bị khiển trách, ba nhà báo ăn trong yên lặng. Thậm
chí giữa họ với nhau cũng không ai nói năng gì. Họ có cảm tưởng như
là tù, không phải là khách, mặc dầu họ tình nguyện đi "tham quan".
Cảm tưởng đầu tiên không mấy đẹp. Họ như bị giam lỏng trên một cù
lao ba mặt có kinh đào, bị nước bao vây, đi đâu cũng gặp lính canh,
gọi là để bảo đảm an ninh.
Gian nhà họ tạm trú bày biện như nhà bình thường. Cũng ba gian hai
chái, giữa là bàn thờ tổ tiên, bàn dài tiếp khách với bộ ấm chén và
hai bên bốn cái giường. Morgan và Charlotte một phía và Antoine,
phía bên kia.
Hai ngày đầu, ba nhà báo được để yên, chẳng ai nói rằng gì tới, tùy
nghi sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí. Ngày thứ tư, con người
bảnh trai phụ trách ba nhà báo, đưa tới một nhơn vật khác hỏi han sơ
yếu lý lịch, họ, tên, tuổi tác, đến VN từ bao giờ, làm việc cho báo
nào,... Như điền vào tờ khai nhập cảnh mà khỏi phải viết.
Tại sao đến Cà Mau? Có gặp chánh quyền Sài Gòn ở Cà Mau không? Có
gặp nhơn viên UHQT không? Có gặp Lãnh Sự Quán HK không? Như chừng ba
nhà báo là những tên gián điệp. Tự thấy chuyện điều tra lý lịch của
mình đi hơi xa, người điều tra đổi ngay thái độ, nhoẻn miệng cười
cởi mở, mời nhà báo uống trà. Sau đó, ông nói chuyện hàn huyên giả
lả.
Mấy ngày sau, ông ta trở lại, cũng hỏi bao nhiêu yếu tố đó, thêm bớt
đôi chút cho có lệ. Nhưng phen nầy thì có thêm câu mở đầu "Cấp Trên
muốn biết..." Sau hai giờ hạch hỏi, người điều tra để rơi mặt nạ
nghiêm túc khó chịu và mang lấy nét dịu dàng hiếu khách để lại mời
uống nước.
Sau đó mọi chuyện cứ im lặng như không, quyết định của "Trên" sao mà
lâu quá. Ba nhà báo phải ngụy trang lòng nôn nóng của họ qua những
sinh hoạt bình thường không giống ai hết. Trong khi chờ đợi quyết
định của "Trên", mỗi phóng viên tự xét mình qua những bài viết của
chính mình trong quá khứ. Không biết có bài nào xâm phạm đến tự ái
của những con nguời kháng chiến không, làm cho họ phải đắn đo, nên
chưa quyết định.
Khoảng ba tuần sau, vào lúc xế chiều, một toán người xuất hiện, đi
đầu là một ông nhỏ con, mặc toàn màu đen, đi dép râu, đầu đội nón
tai bèo, bên hông kè kè cây súng ngắn. Những người chiến sĩ súng dài
đi bao quanh, bảo vệ. Một người của "Trên" chăng? Người "bảnh trai"
giới thiệu:
- Đồng chí Trần Văn Chu sẽ đại diện "Trên" trả lời quý vị.
Người không cao, ốm xanh như qua cơn rét rừng, đôi mắt ngời sáng.
Ông xin lỗi đã để cho ba người phải chờ hơi lâu, vì họ xuất phát từ
rừng U Minh. Bao nhiêu cây số lội bộ và đi xuồng nên phải mất hai
ngày, ba đêm. Đúng nghi thức xã giao cách mạng, ông Chu hỏi thăm sức
khỏe nhà báo, nguyện vọng của họ, rồi cho biết là phải có một chương
trình tham quan. Y chang những gì Morgan đã nghe và thấy ở Hà Nội.
Antoine cho biết mục đích yêu cầu của chuyến tham quan:
- Chánh quyền SG nói rằng các ông không hiện hữu, không có thật. Các
ông chỉ kiểm soát những vùng đất chết không sản sinh được gì hết và
chỉ nắm được mấy ngàn dân chúng. Có đúng không?
Ông Chu ghi ghi chép chép, gục gặc đầu rồi mĩm cười.
Charlotte tiếp lời Antoine:
- Nhiều năm qua, chúng tôi chỉ nhìn thấy cảnh tàn phá của chiến
tranh. Bây giờ, chúng tôi muốn biết trong tương lai các ông sẽ làm
gì cho quần chúng.
- Tôi nghĩ thắc mắc của cô là điều hay.
Morgan cho biết:
- Chúng tôi chắc khó gặp quý vị bộ trưởng chánh phủ lâm thời. Xin
cho gặp ủy ban hành chánh tỉnh cũng được, để thảo luận về tình hình
chánh trị.
Không trả lời dứt khoát, ông Chu chỉ nói rằng sẽ trình lên "Trên".
Nguyện vọng cuối cùng và cấp thiết nhứt là các ký giả muốn được tự
do đi lại. Như gián tiếp ra lịnh, ông Chu tuyên bố là họ được hoàn
toàn tự do. Quân lính đi theo là để bảo vệ mà thôi. Tin hay không
tin, tùy ý mỗi người.
Chu được lịnh của "Trên" phụ trách đám nhà báo tham quan vùng giải
phóng với nhiệm vụ làm cho họ thấy thực tế của tình hình, chỉ rõ
những vi phạm của SG, làm nổi bật tội ác của SG và chứng minh cho họ
thấy thực chất của chánh phủ lâm thời. Đây là một cơ hội để tuyên
truyền cho tổ chức. Mỗi ngày Chu phải báo cáo cho tỉnh ủy hoạt động
của toán và hằng tuần một phúc trình chi tiết hơn. Toán gồm có hậu
cần, thầy thuốc và một số chiến sĩ.
Qua máy thâu thanh, Antoine nghe được Đài Giải Phóng đưa tin về ba
nhà báo. Bản tin cho biết là ba nhà báo ca ngợi vùng mật khu, khác
biệt với SG như "ban đêm với ban ngày", theo cách nói của người đọc
tin. "Họ được dân chúng nhiệt liệt chào mừng". Cứ theo luận điệu
tuyên truyền vô căn cứ như vậy, ba nhà báo sợ rằng khi trở về SG họ
sẽ gặp khó khăn.
E ngại và đắn đo, ba nhà báo tìm cách khéo léo nêu vấn đề với ông
Chu. Ông nầy ghi ghi chép chép vào sổ tay, cam kết sẽ nêu vấn đề với
"Trên". Nhưng trong vùng giải phóng tất nhiên công văn công điện gì
cũng phải có thời gian di chuyển của nó. Ông Chu khôn khéo cất máy
thâu thanh đi, không nghe đài trước mặt nhà báo nữa.
Chương trình đã thiết lập bắt đầu áp dụng. Sinh hoạt bắt đầu khi đêm
vừa xuống. Ngày nào cũng có một giấc ngủ trưa. Không khi nào cố định
một chỗ quá hai đêm. Thường xuyên di chuyển. Đi đến đâu, nông dân
cũng kể lại những hành động xấu xa của "ngụy quân" SG, nào cướp bốc,
hảm hiếp, những hành vi man ri mọi rợ, vi phạm hiệp định,... Đâu
đâu, ba nhà báo cũng nghe nói hai chữ hòa bình.
Đàm đạo với ông Chu rất là khó. Thay vì trao đổi hiểu biết, trao đổi
tình hình thì họ chỉ gặp những luận điệu rập khuôn như bài học cộng
sản chủ nghĩa. Cái gì cũng dựa trên Đảng nói hay căn cứ theo những
gì "Bác dạy". Với sự nhồi nhét của cán bộ, người nông dân nào cũng
nói như trả bài, cùng một luận điệu. Nhơn viên UHKS đều là những tên
đóng kịch ăn lương Mỹ vì toàn ở doanh trại của Mỹ, sử dụng tàu bay
Mỹ.
Ba nhà báo tiếc rằng chánh phủ lâm thời không có loại tiền giấy hay
tiền đồng riêng, không có tem thơ riêng, là những thứ họ có thể đem
về làm kỷ niệm. Cứ hô hào là vùng giải phóng mà mãi mãi sử dụng tiền
bạc, tem thơ SG. Thậm chí trà, cà phê, đường, nước mắm cũng mua của
SG. Chỉ có gạo, gà, vịt, thịt heo và rau cải là sản phẩm địa phương
thôi.
Một buổi nọ, ông Chu trịnh trọng tuyên bố:
- "Trên" thuận cho ba ông bà gặp những chức việc của ủy ban hành
chánh tỉnh và có thể là viên chức cấp cao hơn. Để xem. Quý vị nghỉ
cho khỏe để chuẩn bị chuyến đi. Cũng phải hai ngày đường.
Antoine bị trặc chưn không đi được, còn cô Charlotte thì cũng viện
cớ này nọ ở lại luôn. Chỉ có mình ký giả Mỹ, Morgan đi cùng với năm
người của CPLT. Sau ba tiếng đồng hồ di chuyển, họ tới điểm hẹn, một
vùng rừng trống, cây cối xung quanh rậm rạp, ở giữa là một gian nhà
lá, không vách. Giữa nhà là một bàn dài, hai bên hai băng, đàng xa
có một lô băng song song như trong một lớp học.
Ở bàn họp, đã ngồi sẵn hai ông, một bà. Ông Chu giới thiệu chức vụ
mà không nói tên, người mang súng lục là ủy viên hành chánh tỉnh Cà
Mau. Người đàn bà kia, ăn mặc chải chuốt, vòng vàng son phấn, được
biết là "tư sản sáng suốt và tiến bộ của thành phố Cà Mau". Còn ông
sư cao tuổi, với áo cà sa ủi thẳng tấp, là Thượng Tọa Trí Vạng, cũng
là nhà tu "sáng suốt và tiến bộ".
Sau phần nghi lễ trà bánh để tiếp khách Mỹ "tiến bộ" là hai ngày dài
"đối thoại". Cũng những nghi thức mà Morgan đã từng thấy ở miền Bắc,
trong chuyến đi Bắc Việt trước kia. Biết bao nhiêu là thắc mắc
Morgan muốn được giải đáp. Nhưng ông gọi là nhơn viên cấp cao kia
toàn nói và chỉ trả bài mà không trả lời gì hết. Còn ông sư cứ lim
dim hai mắt và bà "tư sản sáng suốt và tiến bộ" của Cà Mau cứ tiếp
tục gật gù, không phát biểu gì ráo trọi.
Biết bao nhiêu vấn đề Morgan muốn được sáng tỏ về ngừng bắn, về tổng
tuyển cử, về thống nhứt, nói chung là về hòa bình,... nhưng viên
chức "cấp cao" kia chỉ vòng vo tam quốc, kiếm cớ thối thoát, không
khi nào trực tiếp vấn đề. Lúc nào cũng bắt đầu bằng "thực chất của
vấn đề là..", "thực tế là..." hay đổ lỗi cho Sài Gòn vi phạm.
Một hôm nọ, "Trên" lịnh cho địa phương tổ chức đêm liên hoan cho
phái đoàn nhà báo tham quan. Quận ủy địa phương có nhiệm vụ tổ chức.
Trời nhá nhem tối, quần chúng, không biết từ đâu tới mà tập họp cở
ba bốn ngàn người. Ban tổ chức chắc phải vận dụng ghe xuồng chở dân
từ khắp nơi đến, chớ tại địa phương thì làm gì có số dân đó.
"Ngàn năm, một thuở" được dịp tụ tập lại, đám đông tha hồ trò
chuyện, nói nói cười cười như hội chợ. Hàng quán tha hồ buôn bán
thức ăn, nước uống. Riêng đoàn khách ngoại quốc được ông Chu lo cho
thật chu đáo, với phí tổn do huyện ủy đài thọ. Cứ nước trà và kẹo
bánh hậu hỷ, tiếp tục chào mời.
Mở đầu bằng lời khai mạc của ban tổ chức, dài vòng văn tự, những lời
nói của lãnh tụ được lập đi lập lại, kết thúc bằng những tiếng vỗ
tay ỏm tỏi. Kế tiếp là bài nói dài gấp đôi của Bí Thư Huyện, cũng
lang thang những câu nói sẵn có của lãnh tụ và nhứt định không bao
giờ thiếu câu nói để đời của "Bác" là :"Không có gì quý hơn độc lập
tự do". Ông Bí Thư dứt lời là một đợt vỗ tay rầm rộ nổi lên vang vậy
cả cánh đồng.
Sau đó là một đợt đơn ca, tốp ca, mấy màn vũ, một lớp cải lương và
sau cùng là một cái kịch yêu nước chủ chốt, nói lên cái chết hào
hùng của một người trẻ hy sinh cho lý tưởng. Ngần ấy sinh hoạt mà
cũng mất gấn năm tiếng đồng hồ. Phái đoàn khách ngồi mỏi cả bàn tọa,
phải đứng lên, ngồi xuống luôn.
Chuyện đương nhiên là thế nào cũng phải có nhận xét của các nhà báo.
Những nhận xét thật tình, nhưng chạm tự ái cách mạng không ít. Cái
vui thật thà chất phác của cách mạng nhà quê làm sao người Tây
phương thưởng thức được. Từ nhận thức kỷ thuật cấp cao của Tây
phương đem áp dụng cho kỷ thuật nhà quê thì biết nói sao bây giờ?
Ông Chu đành kết luận:
- Chúng tôi trong hoàn cảnh khó khăn. Đúng như ông Morgan đã nói với
tôi hôm nọ là nên "nghệ thuật hóa" chánh trị hơn là "chánh trị hóa"
nghệ thuật.
Nhóm VC đang thuyết trình cho ba nhà báo chương trình nông nghiệp
của CPLT thì đạn pháo bay vèo vèo gần căn nhà. Báo động đỏ, ông Chu
cho ba nhà báo di tản xuống hầm và cấm cửa không ai được di chuyển
ra ngoài. Tiếng súng lớn nghe thật gần, có cả tiếng súng phòng
không. Một hồi sau, ông Chu giải tỏa báo động, nét mặt đầy kiêu hảnh
cho biết:
- Ta hạ được một máy bay lên thẳng!
Dĩ nhiên là ba nhà báo được hướng dẫn tới quan sát chiếc trực thăng
bị hạ. Trời ơi, quân CPLT bắn hạ trực thăng sơn trắng của UBKS.
Những người chết trong trực thăng không ai khác hơn những sĩ quan
Gia Nã Đại, Balan quen thuộc với họ. Nhưng ông Chu cho rằng đó là
những nhơn viên giả do Mỹ ngụy tạo, vì VC tuyên truyền rằng UHKS Cà
Mau là do Hoa Kỳ dựng lên để binh vực chánh phủ SG.
Tuyên truyền CS đã ăn sâu vào đầu óc cán bộ của họ rồi không sao tẩy
rửa được. "Trên" đã cho là như vậy rồi thì nó là vậy thôi, không còn
chân lý nào khác. Và chân lý đó không bao giờ thay đổi. Cán bộ đã
tin như thế rồi thử hỏi dân quê làm sao nghĩ khác hơn được. Với kinh
nghiệm của mình trong chuyến tham quan miền Bắc, ký giả Mỹ Morgan
thấy rõ người chiến binh CPLT cũng ít cỡi mở, nặng tánh bè phái và
đầu óc cùn mằn, chẳng khác gì anh dân quân Bắc Việt.
Sau biến cố, ông Chu nghĩ rằng chánh quyền Tỉnh Cà Mau để ý đến làng
đó nên di chuyển ba khách tham quan đến địa điểm khác, xa tỉnh lỵ
hơn về phía Nam, cho an toàn. Đi bằng xuồng cũng gần hết đêm. Ba nhà
báo cứ thao thức, bàn tán, nghĩ rằng những người hữu trách – Toà
Lãnh Sự Mỹ và UBKS – đang rộn rã đi tìm họ.
Toà tỉnh cũng rộn ràng không ít về an ninh của ba ký giả, bây giờ
câu chuyện đã đến tai của SG, qua hệ thống của Hoa Kỳ. Theo tình báo
tiểu khu thì CPLT đã đưa ba nhà báo đi ngang đi dọc, khi giáp Cà
Mau, lúc xa ra xuống miệt rừng tràm Năm Căn, cứ di chuyển lung
tung,...
Thi hành lịnh "Trên", ông Chu tổ chức nhiều tiệc tiễn đưa, sau thời
gian dài đón tiếp ba ký giả Tây phương. Liên hoan với cán bộ của
những xã đã đi qua, liên hoan với chiến sĩ đã có công trong việc bảo
vệ an ninh, liên hoan với thầy cô của trường trung học đã ghé
thăm,... Phần chánh của liên hoan được nhà báo hoan nghinh hơn hết
là thức ăn được "cải thiện" thấy rõ, mà phần lớn là món thịt vịt,
chế biến đủ kiểu: vịt luộc chấm nước mắm gừng, vịt nướng, vịt nấu
cháo,... Thế nhưng, ngày lên đường là điều mong chờ nhứt thì không
thấy ông Chu nói đến.
Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường, ông Chu tiết lộ rằng "Trên"
quyết định "hành quân từ mật khu ra vùng tề qua hai toán". Antoine,
nhà báo Pháp, hành quân đường bộ, cùng với toán giao liên độ mươi
người, "tập kết" phía Bắc Cà Mau. Cô nhiếp ảnh, Charlotte và ký giả
Mỹ Morgan thì sử dụng đường thủy, ra phía Đông Cà Mau, giữa Bạc Liêu
và Cà Mau.
Toán của Antoine cứ lầm lũi đi, người này cách xa người kia, không
ai nói với ai. Đêm đi ngày nghỉ. Cũng phải đi được hai mươi cây số.
Một sáng nọ, sau giấc ngủ yên lành, Antoine thức giấc thì toán giao
liên giải thích hành trình sắp tới cho ông, với những gì ông phải
làm. Sau đó, Antoine tự do và độc lập hành động vì đã được trả về
môi trường sinh sống của ông.
Khi đoàn người vừa qua khỏi bìa rừng thì một loạt súng nổ trước mặt.
Đoàn người hộ tống Antoine bị phục kích, bắn trả để tháo lui. Mạnh
ai nấy lo thân, Antoine không quen với súng đạn, chưa kịp trở bước
thì một trái lựu đạn nổ tung, làm ông banh xác.
Chiếc ghe máy chở toán hộ tống Charlotte và Morgan ngừng tại cầu tàu
của một nhà có treo cờ Mặt Trận. Người ta giao hai nhà báo cho hai
người phụ nữ, có nhiệm vụ đưa hai ký giả ra vùng "tề". Từ đây trở
đi, ghe xuồng nào cũng có cắm cờ vàng, ba sọc đỏ.
Chiếc ghe qua ngang đồn, bên phía bờ sông đối diện, người lính canh
kêu lại vì thấy có người da trắng trên ghe. Người ta giải thích là
xuồng của mấy người Tây bị nạn nên hai bà người Việt ra tay tế độ.
Trung sĩ đồn trưởng hỏi:
- Còn người thứ ba đâu?
Thì ra, người ta đã từng theo dõi ba nhà báo từ lâu. Ông trưởng đồn
liên lạc vô tuyến với chi khu và cho biết sẽ có người đến rước đi.
Người ta áp tải hai nhà báo về tiểu khu để trình với đại tá tỉnh
trưởng. Qua can thiệp của đại diện Hoa Kỳ, tòa tỉnh đồng ý đưa cô
phóng viên ảnh đến trụ sở Mỹ, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhứt là
Charlotte có vẻ không được khỏe lắm. Đại tá tỉnh trưởng tạm giữ
Morgan lại để trao đổi ba điều, bốn chuyện.
Qua đối thoại, Morgan biết được cái chết của Antoine và sẵn đó, tiểu
khu cũng khoe khoan là họ biết được ba nhà báo đã làm gì và đi những
đâu trong mật khu, dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng trăm phần trăm.
Sở dĩ Antoine bị chết là do "trục trặc chiến thuật" ngoài ý muốn của
Tỉnh.
Sau đó, Charlotte và Morgan được đưa đi Cần Thơ và lên SG, qua một
vài thủ tục tra hỏi lấy lệ. Vì họ, thứ nhứt là nhà báo và thứ hai là
Mỹ và Anh, nên dù từ vùng VC ra nên quan chức VN cũng phiên phiến
lấy lệ, nghe được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Vì bị mệt nên cô phóng
viên ảnh được đưa ngay đến nhà thương Đồn Đất, còn nhà báo Mỹ thì
sau khi hỏi chuyện qua loa, được đưa về trụ sở cơ quan thông tấn
liên hệ ở khách sạn Continental.
Vì tế nhị ngoại giao nên Charlotte và Morgan không bị tống xuất khỏi
VN. Thế nhưng cả hai bắt đầu thấy chán chường với chiến cuộc VN, nên
lần hồi cũng tìm cách hồi hương và thay đổi nhiệm sở. Chặng đầu
tiên, Charlotte bay về Luân Đôn còn Morgan thì ghé qua Tokyo trước
khi đi Nữu Ước.
Sau thời gian tĩnh dưỡng, Charlotte nhận nhiệm sở mới ở Luân Đôn còn
Morgan bị hậu quả của cơn rét rừng hành hạ phải nằm nhà thương. Trên
giường bịnh, Morgan suy ngẫm câu chuyện đời mình, nhứt là giai đoạn
vào mật khu CPLT vừa qua.
* * *
Có phải chăng trong số những người giao liên trong toán hộ tống ba
nhà báo có người làm điềm chỉ viên cho Đại Tá Tỉnh Trưởng? Có phải
họ đã bán đứng mạng sống của Antoine? Có quá nhiều ẩn số mà Morgan
không tài nào giải thích được.
Trong vấn đề VN này, có quá nhiều người vô tội, nên không thể nào
quả quyết được ai là kẻ có tội. Bọn chóp bu thì khác. Như ông Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng, cứ cam kết là không phi công Mỹ nào bị tra
khảo. Thực tế thì khác. Morgan cho là mình cứ ngây thơ, cứ tin tưởng
rằng CPLT, chủ yếu là khác biệt với HN.
Xưa kia, đầu thế kỷ thứ XV, dưới đời Nhà Hồ, để lấy lòng Trung Hoa,
vua chúa VN, trên thực chất chịu cảnh chư hầu Tàu, để có độc lập
thực sự. Cón bây giờ giữa HN và CPLT, tương quan cũng giống vậy
nhưng lại đảo ngược, nghĩa là chư hầu thật mà độc lập trá hình. Rồi
đây nước đỏ sông ngòi HN sẽ hòa lẫn với nước đen của sông rạch Cà
Mau.
Cộng sản chủ nghĩa đâu phải là tuổi thanh xuân của thế giới. Nó là
một trong những căn bịnh trầm trọng nhứt của hoàn vũ. Người ta đã
phát hiện ra những trại tập trung ở Liên Xô, rồi ở Trung Cộng. Chừng
nào tới VN đây? (Lúc bấy giờ - 1973 - chưa có). Trước cổng nhà tù
Đức Quốc Xã có khẩu hiệu:"Lao động là giải phóng". Trại tập trung
Liên Xô thì hô hào:"Lao động là vinh quang, là dũng cảm và anh
hùng". Chẳng khác tí nào hết. Khi thần thánh tự cho mình linh thiêng
rồi thì họ trở thành những quan tòa hắc ám nhứt.
* * *
Từ Cambridge, Charlotte gởi tặng Morgan một bức ảnh to bằng thật,
trong đó có ba con vịt, một nâu đốm đen còn hai con kia trắng, mõ và
chân màu vàng cam – ba con vịt trên bờ kinh Cà Mau.
Phan Quân
|