Mẹ và chị
-
PSN - 28.8.2010 |
Thanh Vân
Mùa Xuân
này là mùa Xuân đầu tiên tôi mất mẹ. Nằm một mình trong căn
phòng tối, nhìn chung quanh im vắng, tôi chợt cảm nhận được sự
mất mát lớn lao của đời mình. Mùa Đông năm Nhâm Ngọ tôi còn về
Việt Nam thăm mẹ, tôi còn ôm mẹ trong tay, tôi thầm thì hứa với
mẹ tôi rằng tôi sẽ lo cho mẹ, mẹ sẽ được về nằm cạnh bác, người
chồng mà mẹ yêu dấu nhưng mẹ bị mang tai tiếng rất nhiều khi lấy
bác và mẹ phải bỏ Huế đem chúng tôi vào Saigon vì dư luận Huế
quá nghiệt ngã. Mẹ là nhà giáo, mẹ không có quyền yêu, không có
quyền tìm nơi nương tựa và nuôi các con nên người dù người chồng
đã bỏ đi, nói rằng, theo kháng chiến không hẹn ngày về. Làm
người chinh phụ thì đẹp lắm nhưng nhà không có ở, ba đứa con
nheo nhóc đói, có người mẹ nào chịu được cho đành. Cha tôi đi
kháng chiến khi mẹ tôi còn xuân sắc, bao nhiêu người theo đuổi,
mắt mẹ ngày đó thật đen, má hồng, môi đỏ....
Khi mẹ kết duyên với bác
thì mẹ đành phải đem chúng tôi đi khỏi xứ Huế, người dân Huế thủ
cựu, họ ghét Cộng sản nhưng vẫn bắt buộc người đàn bà có chồng
đi kháng chiến phải chờ đợi mỏi mòn... Chờ đợi thì cũng được, ép
lòng cũng xong nhưng con đói, con lạnh thì làm sao đây? Ngày đó
tôi còn nhỏ lắm, chị và anh tôi đã lớn, đã biết đọc Tự Lực Văn
Đoàn, đã bị chuyện cô Loan mỏi mòn đợi chờ chú Dũng xông pha
ngoài mưa gió chống Pháp chiếm hết tâm tư, hình ảnh thật đẹp,
thật thơ mà sao mẹ tôi lại bỏ cha tôi để đi lấy chồng, để có nhà
lầu, xe hơi cho anh chị tôi hưởng thụ... Ngày đó tôi còn nhỏ
quá, tôi nghe chị tôi kể chuyện và tôi vẫn khóc thầm, oán ghét
mẹ tôi. Chị em tôi vào học nội trú những trường mắc nhất, tôi
vẫn chẳng thấy gì lạ, vẫn chẳng cám ơn mẹ, vẫn nghĩ rằng chuyện
đó là lẽ tất nhiên... và vẫn tiếp tục oán ghét mẹ tôi đã đi lấy
chồng không chờ đợi cha tôi.
Tuổi thơ qua mau... rồi
mẹ tôi cũng già, chị tôi lên đại học cũng đi lấy chồng. Ngày chị
tôi lên xe hoa tôi đi học xa không về được nhưng hình ảnh cho
tôi biết đám cưới chị thật rộn ràng, sang trọng. Anh rể tôi là
một người hiền lành, trí thức với cái nghề dược sĩ hái ra tiền ở
Việt Nam, xong đại học, chị tôi được bổ làm giáo sư đệ nhị cấp ở
trường Trung học Gia Long. Đối với tất cả mọi người, gia đình
chị tôi thật hạnh phúc lý tưởng. Chị không còn chống đối mẹ tôi,
trái lại, bố dượng tôi đã giúp cho anh chị thật nhiều trên con
đường công danh, sự nghiệp. Chị tôi là hình ảnh sáng chói nhất
trong tuổi thơ của tôi, đối với tôi, không ai đẹp và hiền bằng
chi. Trong tim tôi hình ảnh mảnh mai, nước da trắng hồng của chị
luôn luôn sáng chói.... Khi đó, kỷ niệm về cha tôi hình như
không còn được ai nhắc nhở, nâng niu...
Sau năm năm lập gia đình
chị tôi có ba con trai, đứa thứ nhất sinh ra bị tật nguyền, vừa
điếc vừa câm, hai đứa sau thông minh đĩnh ngộ. Không hiểu chị
tôi có buồn không, anh chị giàu có nên bề ngoài vẫn thấy họ hạnh
phúc. Tôi đi học xa, nghỉ hè mới về nhà nên trong tim tôi hình
ảnh người chị vẫn sáng ngời, thương mến. Mẹ tôi thì đã về hưu,
gia đình coi như êm đềm hạnh phúc. Rồi chồng chị tôi được đi du
học bốn năm. Chị ôm con đổi lên xứ Đà Lạt sương mù. Tôi có lên
thăm vài lần thấy chị vẫn đẹp, vẫn sống yên bình với ba đứa con
trai, đứa con lớn vẫn câm điếc, vẫn ngu ngơ và chị tôi như thêm
quyến rũ trong vai trò người vợ trẻ xa chồng, bằng lòng với số
phận. Tôi vẫn nhớ những lời cay đắng chị tôi dành để trách móc
mẹ tôi ngày chị chưa lập gia đình, theo chị người đàn bà chỉ nên
thờ một chồng, chồng đi xa thì làm chinh phụ nuôi con chờ chồng
về. Tôi nghĩ chị tôi đang hạnh phúc sống cho lý tưởng của chị
nên tôi không để ý đến sinh hoạt của chị, thấy chị ngày hai buổi
đi dạy học rồi về, ngày nghỉ ngồi đọc sách, tôi leo trèo mấy cây
ổi trong vườn hay leo lên xe "lam" đi chợ Hòa Bình mua cá về kho
khô cho hai chị em ăn vào buổi cơm chiều của một Đà Lạt vừa lạnh
vừa buồn. Lần nào tôi đi chợ chị cũng dặn dò tôi đừng quên mua
một món đặc biệt cho anh Cu, đứa con đầu khốn khổ của chị.
Bẵng đi vài tháng, tôi
chợt nghe mẹ tôi và bác thầm thì về việc chị tôi mới sinh một
đứa con gái trong khi anh rể tôi đi du học sắp về. Mẹ tôi có vẻ
buồn, suy tư, tóc mẹ lốm đốm bạc. Không nói ra nhưng mẹ tôi vẫn
nghĩ thầm rằng chị tôi buồn vì có đứa con tật nguyền, kết quả
của một cuộc hôn nhân mẹ tôi nghĩ là không có tình yêu vì chị
tôi đã yêu tha thiết một người từ năm mười lăm tuổi... nhưng
không hiểu sao yêu nhau vậy mà chị tôi lại đi lấy chồng. Vài
tháng sau, tôi gặp lại chị tôi ở Sài Gòn khi chị về chấm thi Tú
Tài hai. Lần này chị không còn mảnh mai vì chị đang có thai gần
ngày sanh. Không nghe chị nói gì về đứa con gái sanh trước đó.
Chấm thi xong chị ở lại Sài Gòn không lên Đà Lạt, ba đứa con
trai chị gửi về Huế cho bà mẹ chồng chăm sóc, ông anh rể đi du
học đã về nhưng đi ra thẳng Huế ở với mẹ và ba con. Chị tôi về
nhà ở với mẹ. Khi chị sanh đứa con gái thứ hai, có tôi và mẹ tôi
bên cạnh. Mẹ tôi không hỏi han trách móc gì chị tôi, chỉ lo cho
đứa cháu ngoại và có vẻ buồn khi có một người đàn ông thua anh
rể tôi về mọi mặt thỉnh thoảng đến thăm chị tôi và nựng đứa con
gái. Sau mới biết rằng anh chàng mồ côi cha mẹ, ở với người anh,
ngày trước cùng học Đại Học Văn Khoa với chị tôi, sau cũng đi
dạy. Hai năm trước đó anh lên Đà Lạt chấm thi trong khi chị tôi
làm Chánh Chủ Khảo, anh thả lời ong bướm, chị tôi ... không hiểu
sao đã ngã lòng, có một đứa con gái đưa anh đem về cho bà chị
dâu nuôi, rồi có thêm đứa nữa.
Rồi anh chị tôi ly dị,
anh rể tôi giữ hai đứa con đầu, chị tôi giữ đứa con trai thứ ba.
Chị và người chồng mới giờ sống giản dị trong một căn chung cư
dành cho công chức nghèo. Không còn nhà ở ngay đại lộ Nguyễn
Huệ, không còn mỗi đứa con mỗi bà vú, không còn xe hơi chạy khắp
phố phường. Tôi vẫn thương chị tôi nhưng lòng cảm thấy phân vân,
sao những lời chị chỉ trích mẹ tôi ngày chúng tôi còn bé không
giống gì cuộc sống thật hằng ngày của chị, ngày xưa mẹ tôi
nghèo, cha tôi đi xa không hẹn ngày về, mẹ ở nhà thuê, lương cô
giáo tiểu học vậy mà có người đàn ông có địa vị thương mẹ tôi,
cưới hỏi đàng hoàng thì chị giận hờn, chê trách, ngày nay, anh
rể tôi giàu, đi du học để lại tiền cho chị mua nhà trên đồi Đà
Lạt, chị lại có đứa con tật nguyền, sao chị lại bỏ anh, bỏ con
để đi theo người khác? Tôi biết mẹ tôi thắc mắc thật nhiều nhưng
không dám hỏi thẳng chị... hình như dưới vẻ mặt thiên thần kia
có nét gì độc ác.
Rồi ngày tháng qua mau,
năm 1975 tôi phải rời bỏ quê hương ra đi như cả triệu dân miền
Nam khác. Gia đình mẹ và chị tôi ở lại. Bố dượng tôi đi cải tạo
chết sau năm năm, anh tôi cũng bỏ mình sau sáu năm nhục nhằn đói
khổ. Tôi đón được mẹ tôi và gia đình chị qua Mỹ theo diện đoàn
tụ. Ba năm mẹ tôi ở Mỹ với tôi, chị tôi chẳng ngó ngàng chi tới
mẹ, thậm chí có khi nào gặp gỡ cũng chỉ nhắc đến những kỷ niệm
không đẹp của những ngày chị và mẹ tôi còn sống với tụi Việt
Cộng để chê trách mẹ tôi mà thôi. Tôi ở với mẹ được ba năm thì
mẹ nhớ đứa em trai và thằng cháu nội nên nhất định đòi về lại
Việt Nam, mẹ than rằng ở Mỹ tù túng quá, muốn đi chơi đâu cũng
phải chờ đến cuối tuần mới có xe đưa đi, ở Việt Nam cyclo có
sẵn, chỉ cần một dollar là đi cyclo ra chợ ăn bánh xèo rồi về
lại nhà khỏe ru.
Tôi biết mẹ tôi chỉ tìm
cớ vậy thôi, mẹ đòi về là vì gia đình thằng em cùng mẹ khác cha
của tôi bị kẹt lại. Nó không đi đoàn tụ cùng với mẹ tôi được vì
khi đó nó đã có vợ có con. Nhờ vậy, mẹ tôi qua Mỹ với tôi nhưng
nó vẫn giữ được căn nhà khang trang của mẹ tôi và ông bố dượng.
Trước khi mẹ tôi về lại Việt Nam, mẹ có ngỏ ý muốn đến ở với gia
đình chị tôi vài tháng nhưng chị từ chối, viện cớ không có ai
chăm sóc cụ. Rồi mẹ tôi về lại quê hương. Buổi tối mẹ tôi đi chị
tôi cũng không đưa tiễn. Tôi thương mẹ nhưng cũng tự an ủi rằng
ba năm ở Mỹ sức khỏe của mẹ đã được chăm sóc đầy đủ, giờ mẹ có
chút tiền già mang về, mẹ sẽ vui hơn khi có gia đình thằng em
bên cạnh, mẹ sẽ ở lại trong căn nhà cũ với con cháu, căn nhà của
cả một thời hạnh phúc của mẹ trước khi miền Nam rơi vào tay Cộng
sản. Căn nhà này mẹ tôi vẫn giữ được dù tụi Việt Cộng đẩy bố
dượng tôi vào tù, mẹ vẫn giữ nó trong những ngày tháng khó khăn
chỉ có tôi ở ngoại quốc gởi tiền về cho mẹ và em trai sinh sống.
Rồi em tôi lập gia đình,
mẹ qua Mỹ thăm con cháu ba năm. Mẹ tôi về lại Việt Nam bình yên,
mẹ có tiền đưa cho em tôi và vợ nó sửa lại nhà, mua thêm xe.
Tưởng rằng những ngày khó khăn đen tối đã qua, con cái ở Mỹ hay
ở Việt Nam đều hạnh phúc... Nhưng rồi, không hiểu sao chị tôi
lại tìm cách liên lạc với đứa em dâu, người mà chị không ngớt
lời chê trách ngày chị chưa qua Mỹ. Ngày đó, những lá thư của
chị viết cho tôi thường giống như những tờ tường trình kể tội
hai cô em dâu còn kẹt lại, chị viết tôi gởi tiền cho cả gia đình
sinh sống thì chị có bổn phận kể hết tất cả những gì xảy ra bên
nhà. Và những lời kể của chị rất là thiếu khoan dung, tôi bần
thần thương xót cho mẹ tôi, cho gia đình tôi đã gặp phải những
kẻ xấu xa như vậy. Tôi không bao giờ nghi ngờ lời chị tôi, đối
với tôi, chị vẫn là người chị có học cao, có tâm hồn và thương
con em nhỏ dại mất cha từ những ngày còn quá nhỏ.
Ba năm không thơ từ, bỗng
mẹ tôi về lại Việt Nam thì chị tìm cách liên lạc qua điện thư,
điện thoại với vợ thằng em tôi. Rồi vợ chồng thằng em ly dị, của
cải chia đôi, không có gì ngoài cái xe mẹ tôi mới cho tiền mua.
Cái nhà tên bố dượng tôi nên không bị chia đôi. Vào một ngày
cuối năm em tôi buồn đi nhậu say, bị tai nạn và bỏ mình sau hai
ngày hôn mê trong bệnh viện. Mẹ tôi như điên, như mê. Chưa tám
mươi tuổi đã chứng kiến quá nhiều mất mát lớn lao trong gia
đình. Cái chết của bố dượng tôi, của anh tôi, của cha tôi đi
kháng chiến vinh quang trở về cũng chết vì buồn và thất vọng
trước sự thật phũ phàng của chế độ Cộng sản, giờ thêm cái chết
của thằng em trai.
Mẹ tôi như gục ngã. Chị
tôi lại ra tay lần nữa. Chị viết điện thư, gọi điện thoại cho
con em dâu đã ly dị, không hiểu chị nói những gì mà con em dâu
lại trở về đội tang chồng và săn sóc nhà cửa và luôn cả bà mẹ
chồng đang dần dần mất trí. Em trai tôi được đưa về chôn gần ông
bố dượng trong một nghĩa trang gồm toàn mồ mả của gia đình bố
dượng tôi… Chị tôi khoe vẫn liên lạc bằng điện thư đều đặn với
con em dâu. Chỉ một tháng sau ngày em trai tôi mất, chị tôi cho
hay con em dâu đã bán căn nhà ở ngay giữa Sài Gòn của mẹ tôi để
mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô. Mẹ tôi bị điên loạn nên đã ký
giấy bán nhà theo lời dụ dỗ của đứa con dâu độc ác. Căn nhà mới
chỉ có đứa con của em trai tôi đứng tên. Nhưng cũng chỉ hơn một
tháng sau đó thì con em dâu xúi giục đứa con bán căn nhà đó
luôn. Hai mẹ con chia nhau số tiền bán được, mẹ tôi mất trí nhớ,
lang thang ngoài đường không nơi nương tựa nên được bà hàng xóm
đem về nuôi và sau đó gởi vào viện dưỡng lão dành cho những ông
bà già không còn thân nhân do các nữ tu trông coi.
Cô em dâu của tôi biến
khỏi gia đình tôi từ ngày đó, nó cũng không trả lời điện thoại
hay điện thư của chị tôi nữa. Chị tôi bay về Sài Gòn nói rằng để
lo cho mẹ. Không hiểu chị lo lắng ra sao, chỉ biết giờ đây mỗi
năm về Sài Gòn hai lần là niềm vui và ước mơ lớn lao nhất của
chị. Chị lại về ở chung với gia đình bà chị dâu của tôi, người
đã bỏ rơi anh tôi để lấy chồng công an ngày anh tôi mới vừa vào
trại cải tạo. Bà chị dâu này là người mà chị tôi thù ghét nhất
khi chị còn ở Việt Nam, viết thơ cho tôi chị không chừa một danh
từ xấu xa nào khi nói về con người bội bạc đó. Vậy mà giờ chị
lại về ở nhà bà. Mùa đông năm Nhâm Ngọ tôi về Việt Nam thăm mẹ.
Sau khi đi thăm mộ thằng em trai và ông bố dượng, tôi may mắn
mua được miếng đất trong nghĩa trang, sát ngay với mộ bố dượng
và em trai tôi để dành cho ngày mẹ tôi trăm tuổi. Sau đó tôi vào
viện dưỡng lão thăm mẹ. Tôi được mấy sơ đưa đi thăm mẹ sau khi
biếu một số tiền lớn cho nhà dưỡng lão. Nhìn mẹ nằm thiêm thiếp
trên cái giường sắt lót chiếu, lòng tôi như vỡ ra trăm mảnh. Tôi
ôm mẹ và nói với mẹ rằng tôi về với mẹ đây, từ đây mẹ không còn
cô đơn nữa.
Chợt mẹ tôi vùng lên ôm
lấy tôi khóc nức nở, mấy Sơ ngạc nhiên nói mẹ tôi nhớ cô út nên
mới tỉnh chứ từ ngày vào đây mẹ tôi im lìm như chiếc bóng, chị
tôi vào thăm mẹ cũng nằm yên, đút cơm thì ăn, đút nước thì uống
chứ không bao giờ nói hay biểu lộ một cảm xúc nào. Sau cơn xúc
động tôi ôm mẹ ngồi yên nghe Sơ Bề Trên nói chuyện. Theo Sơ thì
chị tôi có vào thăm mẹ tôi và đưa cho sơ một món tiền nhỏ nhờ Sơ
khi mẹ tôi chết thì rửa tội cho mẹ tôi, xong đốt mẹ và đưa tro
gởi vào nhà thờ. Tôi nghe Sơ nói mà hãi hùng cho sự độc ác của
bà chị. Mẹ tôi ngày còn sống tháng nào cũng đi chùa, mẹ thờ Phật
như cả gia đình nội ngoại của tôi vẫn thờ từ đời nào, mẹ cũng
thường nói lên sự sợ hãi của mẹ đối với việc bị hỏa thiêu, mẹ
run sợ than rằng mẹ sợ nóng lắm và chỉ mong khi mình chết sẽ
được chôn gần ông bố dượng và những người thân. Tôi liền nói cho
sơ bề trên nghe về những mơ ước cuối đời của mẹ tôi và cũng nói
thêm rằng tôi đã mua được miếng đất chôn bà cạnh mộ bố dượng và
đứa em trai của tôi, khi mẹ tôi chết Sơ cứ gọi điện thoại cho
nhà hòm mà tôi đã lo liệu trước, họ sẽ báo tin cho tôi và lo
chôn cất mẹ tôi. Sơ bề trên viện dưỡng lão khen tôi hết lời và
hứa sẽ làm theo lời tôi dặn dò vì Sơ nói không thể rửa tội cho
mẹ tôi được nếu mẹ tôi không muốn.
Sau ngày hôm đó, mẹ tôi
đã ăn ngủ yên bình hơn, hình như bà biết rằng bà sẽ không bị
thiêu, không bị rửa tội và vào nằm trong nhà thờ như chị tôi
quyết định. Một tuần bên cạnh mẹ, bà đã biết cười, biết nhìn tôi
với đôi mắt long lanh nhưng bà cũng không nói thêm tiếng nào với
tô. Khi đặt bà ngồi lên xe lăn đẩy ra vườn hóng mát mẹ tôi tươi
tỉnh và cười luôn miệng. Nhìn mẹ mà lòng tôi tan nát.
Ngày nào mẹ tôi có nhà cao, có bồi
bếp, xe công xe tư, giờ mẹ ở viện dưỡng lão ăn cơm thí, ngủ
giường nhờ. Cuộc đời đúng là có có không không. Mười mấy năm
chồng con bị cải tạo, sống nhờ vào tiền tôi gửi về, thời bao
quản vẫn giữ được căn nhà ba tầng trên đường Công Lý, vậy mà khi
chị tôi bắt tay vào lo cho mẹ thì gia đình em trai tôi tan vỡ,
nhà không cánh mà bay, giờ mẹ tôi lại nằm chờ chết trong một
loại viện tế bần. Mấy sơ có vẽ hãnh diện về mẹ tôi, giữa những
ông bà già chân lấm tay bùn bị con cái bỏ rơi mẹ tôi ngời sáng
với nước da trắng trẻo, gương mặt sáng láng, mái tóc bạc phơ
nhưng vẫn đẹp vô cùng.
Sơ nói quan khách đến thăm (và sau đó
cho tiền) đều nhìn ngắm mẹ tôi một cách yêu thương. Sơ Bề Trên
khuyên tôi nên để mẹ tôi lại cho sơ săn sóc dù Viện Dưỡng Lão
của Sơ trên nguyên tắc chỉ nhận người già không còn thân nhân,
nhưng tôi và chị tôi ở tận bên Mỹ thì cũng như mẹ tôi cô đơn,
chúng tôi gởi tiền về Sơ sẽ lo cho mẹ tôi đầy đủ.
Cuối năm Ngọ tôi về lại Mỹ và báo cho
chị tôi biết những sự việc tôi đã làm ở Việt Nam, tôi đã mua
được đất, đã nhờ được nhà hòm lo cho mẹ tôi khi bà trăm tuổi.
Trong nhà chỉ có chị tôi theo đạo Thiên Chúa khi chị bỏ chồng
con kết hôn với ông chồng sau. Ông này Bắc kỳ di cư và có đạo.
Mẹ tôi rất buồn về những chuyện đó nhưng bà không nói gì. Ngày
nay chị lại muốn mấy Sơ rửa tội cho mẹ tôi khi mẹ tôi hấp hối và
sau đó hỏa thiêu bà rồi đem cất ở một nhà thờ xa lạ. Tôi tự hỏi
vô lẽ chị tôi thù mẹ tôi đến thế hay sao? Chị tôi không phản ứng
gì khi nghe tôi nói về chuyện hậu sự của mẹ, sau đó chị chỉ viết
cho tôi một cái thơ với lời lẽ cay độc bênh vực cho quyết định
của chị, nói rằng mẹ tôi không thích theo đạo, không thích bị
hỏa thiêu nhưng chị biết đó là những việc tốt đáng làm nên chị
muốn làm cho mẹ tôi mà thôi.
Tôi tưởng như vậy là xong, đoạn cuối
cuộc đời của mẹ tôi tạm êm đềm sau những tháng ngày long đong,
lo lắng. Tôi biết mẹ tôi không nói được, bà bị á khẩu ngày bị
đứa con dâu và đứa cháu nội đuổi ra khỏi nhà nhưng hiểu hết
những gì đang xảy ra quanh mình. Chị tôi lại quyết định về Việt
Nam lần nữa, nói rằng để thăm mẹ tôi lần cuối. Tôi cũng chẳng
nghe Sơ Bề Trên của viện dưỡng lão nói gì mặc dù khi về đến Mỹ
tôi có viết thơ cho bà kèm theo cái thơ chị tôi viết cho tôi nói
rằng số tiền nhỏ gởi cho Sơ để hỏa thiêu mẹ tôi giờ chị tặng cho
viện dưỡng lão vì không thể nào đòi lại.
Ngày tháng qua đi, đầu tháng tư năm
Quý Mùi, vào một buổi chiều thứ bảy, chị tôi gọi điện thoại cho
tôi hay là mẹ tôi đã mất cách đó ba ngày, sơ bề trên đã nghe
theo lời chị, rửa tội cho mẹ tôi, và đem bà đi hỏa thiêu. Hiện
tro của mẹ đã nằm yên trong nhà thờ. Chị báo tin cho tôi hay với
giọng đắc thắng. Tôi nghe mà rụng rời đau khổ, Sơ Bề Trên đã hứa
với tôi rồi mà, một nhà tu hành đâu có nuốt lời nhanh như vậy.
Tôi quên rằng bà Sơ này đang tu trong một nước Cộng sản, bà phải
thủ đoạn hơn Cộng sản mới tồn tại được và chị tôi, trước khi qua
Mỹ đoàn tụ với tôi cũng đã được Cộng sản dạy dỗ hơn mười lăm
năm. Từ một phụ nữ mảnh mai, xinh xắn, trắng trẻo, hận thù từ
ngày mới bước chân vào đời với mối tình đầu không thành, với đứa
con đầu lòng tàn tật đã biến chị tôi thành một người đàn bà già
trước tuổi, mưu mô thâm độc. Bơ sữa của Mỹ không làm cho chị đẹp
hơn mà chỉ làm cho chị trở thành một người đàn bà béo phì bụng
to hơn ngực, da thì cứ xám đen lại mà thôi. Qua Mỹ, ông chồng cũ
tặng lại cho anh chị đứa con trai đầu tàn tật để anh chị có tiền
trợ cấp và chăm lo của nó, một số tiền dư đủ để cho anh chị
không cần có việc làm cũng đủ chi tiêu rộng rãi, ăn ở đã có
những đứa con khác lo. Chị nghĩ rằng số phận của mẹ tôi phải
hoàn toàn do chị định đoạt, chị đã thua thiệt suốt cuộc đời son
trẻ, giờ chị phải thắng mẹ tôi trong quyết định cuối đời này.
Tôi đã biết chị thâm độc nên tôi không
bàn chuyện gì với chị nữa, tôi âm thầm sửa soạn về Việt Nam lo
cho mẹ tôi, ngoài mặt tôi vẫn tỏ ra cam chịu với việc làm của
chị. Tôi thủ thỉ cho đến sáng hôm tôi lên máy bay về lại Saigon
rằng tôi để yên cho mẹ nằm trong nhà thờ, tôi và chị sẽ về thăm
mẹ khi đến một trăm ngày của mẹ. Tôi chưa sống dưới ách Việt
Cộng nhưng trong mấy ngày chờ đợi về Việt Nam lo cho mẹ, tôi đã
cẩn thận từng lời ăn tiếng nói tưởng như mình đang đối xử với
một kẻ thù chỉ chờ mình sơ suất là đánh phá. Tôi lo sợ chị tôi
biết được tôi về Việt Nam thì chị sẽ tìm cách dời tro mẹ tôi đi
nơi khác, có cả ngàn nhà thờ lớn nhỏ ở Saigon, làm sao tôi biết
mẹ tôi ở đâu mà tìm. Sở dĩ tôi biết tro mẹ tôi đang ở nhà thờ
Đồng Tiến cũng là do lời nói vô tình của mẹ tôi ngày bà còn ở
bên Mỹ với tôi. Mẹ tôi chỉ nói là ở Saigon chị tôi Chủ nhật nào
cũng đi xem lễ ở nhà thờ Đồng Tiến. Câu nói đã lâu lắm rồi trong
một bữa ăn với mẹ nhưng sao giờ nó lại về trong óc tôi thật rõ
ràng. Đầu óc bệnh hoạn của người chị mà tôi đinh ninh là hiền
lành được thể hiện trong câu nói giả dối đầy ơn nghĩa mà chị tôi
nói với tôi khi tưởng tôi nghe theo lời chị. Chị nói rằng tôi có
thể đem hình mẹ tôi vào chùa bên Mỹ này để cúng lễ, chuyện ấy
tốt thôi, chị sẽ gửi tiền cho nhà thờ ở Việt Nam làm lễ cho mẹ
tôi thêm nữa. Nhìn và nghe chị nói, tôi rùng mình không còn biết
phải sắp chị vào hạng người nào. Ôi khuôn mặt thiên thần đã soi
sáng tuổi thơ tôi là đây hay sao? L'Ange bleue của trường đại
học Văn khoa là con người béo phục phịch với nụ cười độc ác này
hay sao? Tôi lặng lẽ cúi đầu, khóc cho mẹ, khóc cho thần tượng
một thời của tôi đổ vỡ.
Tôi về lại Sài Gòn khi mẹ tôi mất được
mười ngàỵ Trên chuyến bay của Japan Airlines tôi ngồi như kẻ mất
hồn. Tôi về đến Sài Gòn vào lúc một giờ sáng ngày hôm sau. Tôi
lên phòng khách sạn, uống một viên an thần vì đã hơn hai mươi
bốn tiếng đồng hồ tôi chưa hề chợp mắt, không hiểu mình sẽ làm
gì để đòi lại mẹ đây, liệu ông Cha Xứ chủ nhà thờ Đồng Tiến có
trả tro của mẹ lại cho tôi hay không? Tôi thiếp đi và mong không
dậy nữa.
Sáng hôm sau mới tám giờ sáng tôi đã
có mặt tại nhà thờ. Theo niêm yết thì Cha không tiếp khách vào
buổi sáng nhưng có lẽ thấy vẻ ngơ ngác của tôi nên một ông có vẻ
cán bộ mở cửa nhà của cha và nói tôi chờ. Một giờ đồng hồ sau
cha mới tiếp tôi. Đó là một người đàn ông trên sáu mươi tuổi, có
vẻ trí thức, khôn lanh. Tôi đưa tiền biếu nhà thờ, số tiền khá
lớn nhưng Cha chưa nhận ngay mà nói tôi để ở bàn và cho Cha biết
mục đích của tôi khi đến gặp Cha. Tôi nói với Cha tất cả những
gì đang đè nặng trái tim tôi, tôi nói tôi đi tìm tro mẹ tôi để
đem bà về chôn cạnh chồng con, rằng mẹ tôi không có đạo, Sơ Bề
Trên của Viện Dưỡng Lão đã rửa tội mẹ tôi khi bà hôn mê và Chúa
không bao giờ chấp nhận chuyện đó. Tôi đưa cho Cha xem tờ khai
sinh chính của tôi, hình mộ bố dượng tôi, cạnh đó có miếng đất
trống dành cho mẹ tôi. Ông Cha Xứ vẫn bình tĩnh hỏi lại tên họ
mẹ tôi rồi gọi ngay cho sơ bề trên của viện dưỡng lão.
Ít nhất có một điểm đáng khen dành cho
bà Sơ này, bà đã nói thật là mẹ tôi đã hôn mê khi chịu phép rửa
tội, bà chỉ làm theo lời yêu cầu của chị tôi mà thôi và tro mẹ
tôi do bà cựu chị dâu (vì bà đã bỏ anh tôi đi lấy chồng khác từ
hai mươi tám năm nay và đã có một con) của tôi đứng tên đem gởi
nhà thờ. Cha Xứ bỏ máy xuống và nhìn tôi như muốn xin lỗi. Thì
ra trong chuyến về Sài Gòn vừa qua chị tôi và bà chị dâu đã bàn
nhau đưa thêm tiền cho bà Sơ Bề Trên để bà làm theo ý của chị
tôi. Tro mẹ tôi gởi ở nhà thờ bà chị của tôi sẽ có cớ bắt các
con đưa tiền cho chị mỗi năm vài lần để chị về Sài Gòn làm Việt
Kiều hưởng thụ nhưng nói là về thăm bà ngoại và xin cha làm lễ
cho bà, bà cựu chị dâu thì sẽ chứa chấp chị tôi để lấy tiền. Mọi
người đều có mục đích riêng của họ, chỉ có mẹ tôi là cô đơn lạc
lõng giữa những hũ tro của những người khác tôn giáo.
Cha Xứ kêu người đưa tôi vào nơi đựng
tro để tìm mẹ, tôi hỏi Cha có cần giấy tờ gì hay không thì cha
lắc đầu. Tro mẹ tôi được cất trong một căn phòng rộng lớn với
hàng ngàn hũ tro khác và sau hai lần cửa khoá. Cửa mở ra người
giữ kho bỏ đi để tôi đứng ngẩn ngơ, lạc hướng, không biết tro mẹ
tôi nằm ở chỗ nào. Tôi chắp tay cầu xin mẹ tôi có linh thiêng
thì chỉ cho tôi tìm được mẹ, tôi phải đem mẹ ra khỏi chốn này
trong sáng hôm đó, xe taxi đã chờ sẵn ngoài sân nhà thờ, các sư
cũng chờ mẹ tôi ở chùa để làm lễ khâm liệm. Mở mắt ra tôi đi đến
góc phòng và như có một một sự thúc đẩy vô hình nào tôi đưa tay
lên cao và lấy đại một hũ tro. Tất cả các hũ tro gửi ở nhà thờ
Đồng Tiến đều do một nhà thầu làm ra nên hũ nào cũng giống nhau,
trừ những hũ do người trong gia đình đem từ xa về gửi là khác mà
thôi. Vậy mà chỉ trong hai phút cầu nguyện tôi đã ôm được hũ tro
của mẹ tôi trong lòng.
Mẹ ơi, tôi nghẹn ngào rên lên khi thấy
hình mẹ dán ở ngoài với cái tên Maria lạ lẫm. Chạy nhanh ra cửa,
tôi về lại phòng Cha Xứ đưa cho Cha xem hũ tro với tên họ mẹ
tôi. Sau khi được Cha xác nhận là đúng tôi vội vàng xé ngay cái
tên Maria. Cha Xứ ngượng ngùng chúc tôi vài câu vô ghĩa.
Tôi để hũ tro của mẹ vào trong cái xắc
lớn mang theo và chạy vội ra taxi. Người tài xế cứ tưởng tôi vào
nhà thờ có việc rồi ra về nên không nghi ngờ gì. Tôi nhờ đưa tôi
về lại căn nhà cũ của mẹ tôi trên đường Công Lý. Xe dừng lại,
căn nhà đã đổi chủ và khóa im lìm. Tôi xuống xe ôm theo cái túi
vải có tro của mẹ, cả xóm ra chia buồn, tôi đứng trước cửa nhà
cho mẹ tôi thăm lại căn nhà xưa, chào hàng xóm cũ.
Gọi một chiếc xe khác trả giá sử dụng
suốt ngày tôi lại ôm cái xách có tro mẹ tôi ra đi trong sự ngậm
ngùi của những người hàng xóm ngày xưa đã từng chứng kiến hạnh
phúc của mẹ tôi trong những năm tháng cực kỳ sang giàu, quyền
thế... Mẹ tôi rời Sài Gòn chỉ với một mình tôi, bố dượng tôi,
anh tôi, em tôi .... đã bỏ mẹ tôi đi về nơi hư vô từ những năm
tháng trước rồi! Saigon tháng Tư nhưng mưa bay, tôi nhắm mắt lại
ôm thật chặt hũ tro của mẹ vào lòng. Ngoài trời mưa, hơi lạnh
nhưng sao tôi nghe như có tiếng cười rúc rích của mẹ, cái cảm
giác quá thật làm tôi cũng cười theo dù nước mắt lưng tròng. Tôi
biết mẹ tôi vui, thật vui, mẹ đã thoát được nhà thờ Đồng Tiến,
thoát được cái phòng đầy những hũ tro và hũ tro của những người
dưng khác tôn giáo chất đầy sau hai lần cửa khóa, mẹ đang trên
đường đi gặp lại chồng con. Bên kia cửa xe, trời Saigon vẫn mưa
bụi, những sợi mưa đan nhau trong nắng như chia buồn như chia
vui... Trong xe, tôi nhắm nghiền mắt, hạnh phúc, đớn đau, nhẹ
nhõm chia nhau ngự chiếm tim tôi... Mẹ ơi! Tôi gọi thầm mà như
gởi cả tâm tư....
Mùa Phục Sinh năm nay
Tôi bỗng mồ côi mẹ
Saigon mưa bay bay
Mùa Xuân về thật khẽ
Mây trắng chợt giăng đầy
Buồn này ai chia sẻ
Giọt sầu rơi trên môi
Từ đây tôi mất mẹ...
Mẹ và chị! Giờ đây coi như mẹ đã yên
phần, còn chị? Nhìn mưa bay ngoài khung cửa kính, tôi như thấy
lại dòng sông Hương chảy qua nhà ông nội tôi những ngày chị em
tôi còn sống ở Huế, những ngày mưa, những ngày nắng, có mẹ, có
chị, có anh... giờ còn lại ai đây? Và tôi chợt nghĩ thầm đến hai
câu thơ của Nguyễn Bính:
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò!
Thanh Vân