Ngỡ
“được vua”, xua người “làm giặc”
Phật tổ bao giờ chứng tội ai?
Buổi sáng mới nắng đó, giữa trưa trời bỗng ấm ức mưa. Thắp
một nén nhang trầm rồi ngồi vào chiếc bàn quen thuộc hướng
ra ngoài bầu trời xám ngắt, đọc chậm rãi bài viết ngắn “tín
tâm bất hoại” mà anh Vĩnh Hảo vừa gởi sáng nay.
Trước đó một tháng, mình đã từng đọc “Già
Lam”, “Chỉ là chiêm bao” của anh, cũng với cảm nhận
như vậy, bồi hồi và tâm đắc! Bởi trong bầu không khí
truyền thông tạp nhiễm xung khí trái trở nắng gắt và mưa
dầm, khẳng khái nhận “giặc” là thầy chừng không dễ còn mấy
người.
Ừ thì, thường tình “Được làm vua - thua làm giặc” vốn theo
nghĩa thế gian, nhưng giữa thời cuộc trước mắt “thua” hay
“được” lại không còn là điều đáng bận tâm của những hành
giả đang thực chứng lộ trình Bồ Tát Đạo. Từ Đông sang Tây,
cổ đến kim, bóng ma hiện sinh cá biệt của con người đã là
một thảm trạng não nùng giữa tri thức và cuộc đời. Mỗi
chúng ta một lúc nào đó đều có nguy cơ được nhìn nhận như
một con người xa lạ, quái gỡ, bởi lúc đó mình được đặt vào
cái tri thức của kẻ khác. Lúc đó mình sẽ không còn là mình
nữa mà, là cái gì đó của mọi người khác quan niệm.
Cho nên, đứng trước những tra vấn sống/còn của cuộc đời,
thái độ tích cực vẫn là một sự im lặng, nó không đồng
nghĩa cho một thái độ hoài nghi hay bất khả tri. Bởi cuộc
đời là ảo ảnh mà tri thức cũng là ảo ảnh, mà nghiệt ngã
thì cả hai đối nghịch nhau, nên khi còn lựa chọn, nghĩa là
chưa vượt ra ngoài hạn hữu tương đối để nắm bắt cái toàn
thể thì bất kỳ thái độ nào cũng vẫn nằm trong cục bộ, mà
chân lý bao giờ cũng chỉ được nhìn nhận bằng cái toàn thể
mà thôi.
Bao lâu, vì nỗi sợ hãi trước những được/thua hay vì muốn
quên đi những đối nghịch hiện sinh của tri thức và cuộc
đời, mà chúng ta bắt buộc có một sự chọn lựa trên những
nền tảng vốn chập chùng ảo mộng, được nuôi dưỡng như một
yếu tố duy nhất cho sự sống, là những giấc chiêm bao lộng
lẫy mà con người cần đến, thì đó chỉ là cùng một thái độ
của những tên tử tội đang thương hại nhau, chờ giờ thụ án.
Cuối cùng, những bậc Thầy của loài người, có thể làm được
bất cứ những gì mình nói và nghĩ, nhưng khác với những kẻ
thấp thường chúng ta, họ vượt qua những chặng được biện
chứng hiện sinh, không đóng lên bộ mặt để người khác tôn
thờ như một thần tượng, hay giữ thái độ để người khác mong
cầu và chiêm ngưỡng chí thành mà, họ đã làm bằng cái làm
đích thực ở trên cái toàn thể.
Nhưng dù sao, ở cảnh giới nào, thì trong con mắt của những
bậc Thầy của loài người, vẫn thơm ngát Từ Tâm.
“Này các Tỳ khưu! dầu thế gian này thường hoặc vô thường,
thì chúng sinh vẫn hiện có, có già, có bệnh, có chết,
thống khổ ưu bi” (Kinh Trường A Hàm)
Ừ thì ngẫu nhĩ trời mưa, chúng sinh đến với cuộc đời như
một ngẫu nhĩ và ra đi như một ngẫu nhĩ. Và sự IM LẶNG của
Đức Thế Tôn một lần trước những tra vấn mà Mang Đồng Tử
(Malunkyaputta) nêu lên tiêu biểu cho nỗi khắc khoải muôn
đời của con người về hiện hữu nội thân và ngoại giới vốn,
không ngoài ý nghĩa nên vươn lên cái toàn thể không bằng
những tra hỏi về cuộc đời.
Mặc cốc tháng 2 năm 2009, mùa tình yêu trổ trái
Uyên Nguyên
|