Nghĩ
về một số từ tiếng Việt
Dân
tộc Việt Nam, từ thời lập quốc đến nay, đã có một
Tiếng Nói tức Ngôn Ngữ Nói mạch lạc, phổ cập khắp mọi
miền đất nước và qua lịch sử càng lúc càng thêm giàu đẹp.
Điều nầy chắc không mấy ai không đồng ý cũng như không
có gì để bàn thêm. Có bàn chăng là tìm ra những đặc tính
của Tiếng Việt vì ảnh hưởng đến việc cấu tạo bản
chất dân tộc ta, cấu tạo nên cái Tinh thần dân tộc qua
quá trình lịch sử. Nhưng Chữ Viết tức Ngôn Ngữ
Viết hay Văn Tự, thì dến nay, hầu như chưa ai quả
quyết rằng dân tộc ta đã có một Chữ Viết của riêng
mình và do mình. Điều nầy đã trở thành thắc mắc của bao
thức giả đã đưa ra nhiều nghi vấn như Hoàng Đạo Thành,
Lương Đức Thiệp, Vương Duy Trinh, Nguyễn Đổng Chi,.. Lối
chữ Nòng Nọc hay Khoa Đẩu đã được Linh Mục Lương
Kim Định (đã qua đời) và Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang (hiện
ở Hoa Kỳ) nhắc đến nhưng hình như đấy là lối chữ của
người Mường ; người viết không rõ có tài liệu nào viết
bằng lối chữ Nòng Nọc nầy không. Chữ Nôm xuất hiện
dưới thời nhà Trần nhung cũng dựa theo chữ Hán và không
được thông dụng nơi quảng đại nhân dân. Cho mãi đến lúc
tiếp xúc với phương Tây (từ thế kỷ 17) mới hình thành
chữ Quốc Ngữ nhưng không do dân tộc ta mà do công trình
của người ngoại quốc. Tại sao ? Và điều đó có ý nghĩa
gì không ? Bài nầy không nhằm trả lời thắc mắc đó mà
chỉ nhằm cùng bạn đọc suy nghĩ thêm về ngôn ngữ VN qua
một số từ thuần Việt thường dùng.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài nhữnǵ từ thuần Việt (ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, quê nhà,
chim chóc, cỏ cây, đất nước, trời đất, phất phơ, bảng
lảng, lập loè, chắc chắn, xa gần, tốt đẹp,…) và vô số
từ Hán Việt (từ Hán đọc theo giọng Việt) như :
đạo đứ́c, tổ tiên, tiền nhân, gia tộc, quốc gia, sơn hà,
diễm phúc, triết lý, cương thường,…, còn rất nhiều từ
do ghép một từ thuần Việt với một từ Hán như :
đất tổ, quê hương, nhà văn, nhà giáo, bạn hữu, gối mộng,
bờ giác, bến mê, tư riêng, thiện lành, bình lặng, đình
đám, hội hè,…cùng mọt số từ phiên âm từ tiếng ngoại
quốc: cà-phê, cao-su, xì-tốp, xì-líp, xúp (soupe), xốt
(sauce), ô-tô,
a-xit, bin-ding, nô-ên,..
Nơi đây, chỉ xin nêu ra một số từ thuần Việt (hay thuần
Nôm) tiêu biểu tính cách thân thiết, thơ mộng, thể hiện
nếp sống tốt đẹp của dân tộc trong lối nói hàng ngày
cũng như trong thơ văn. Xin bạn đọc xem đây là bài ‘phiếm
luận’ không mang tính cách biên khảo.
I.
Từ
‘EM’
Không rõ từ ‘EM’ xuất hiện từ thời nào trong ngôn
ngữ VN, có thể từ lâu lắm trong dân gian nhưng chỉ để
nói lên quan hệ thân thuộc cùng cha cùng mẹ trong gia đình
giữa người sinh ra sau đối với người sinh ra trước. Do
đó, từ EM thường đi chung với các từ ‘Anh,
Chị’. Các từ ‘Em, Anh, Chị’ lại ra khỏi phạm
vi gia đình, đi vào tương giao xã hội, được dùng trong xưng
hô của người nhỏ tuổi hay lớn tuổi hơn trong khi tiếp
xúc. Rồi từ EM đi vào thơ văn không rõ vào
lúc nào.
Trong các truyện cổ (Trầu Cau, Thiếu phụ Nam Xương, Trương
Chi-Mỵ Nương,…) và một số áng văn Nôm (Nhị Độ Mai, Bích
Câu kỳ ngộ, Phạm Công Cúc Hoa, …) không rõ từ Em
có được dùng không, người viết không còn nhớ. Trong số
thơ nôm theo Hàn luật, từ Em cũng không được dùng (thơ của
Lê Thánh, Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tự Đức, Nguyễn Khuyến,
Chu Mạnh Trinh,…). Trong Cung Oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm
(bản dịch), Lục Vân Tiên, trong thơ của Bà Huyện Thanh
Quan, Hồ Xuân Hương, ta cũng không thấy từ Em.
Riêng Tú Xương, trong bài ‘Mất ô’, đã dùng từ Em
để nói về người gái ả-đầu, nhưng có thể vào thời Tú
Xương, chữ Quốc ngữ đã được dùng, nếu chưa nơi trường ốc
thì cũng trong một số người bắt đầu tiếp xúc với lối
chữ mới nầy :
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày dôn (jaune) anh diện, ô tây anh cầm
Sáng ngày sang trống canh năm
Anh dậy, em vẫn còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em những ậm ờ không thưa
Sợ khi rày gió mai mưa
Lấy chi đi sớm về trưa với tình.
Trong ‘Đoạn Trường Tân Thanh’, Nguyễn Du dùng từ
EM nhưng chỉ để nói lên quan hệ gia đình giữa Thúy
Kiều và Thúy Vân chứ không với Kim Trọng, Thúc Sinh hay
Từ Hải (Với những người tình nầy, Kiều không xưng Em mà
xưng Thiếp) :
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa…
Thì đem duyên chị kết vào duyên em
Thì còn em đó, lọ cầu chị đây…
Từ sau ngày chữ Quốc Ngữ được phổ cập và có lẽ do ảnh
hưởng của thơ văn lãng mạn, từ EM được sử dụng
nhiều trong thơ ca, không chỉ để nói lên thứ bậc trong gia
đình hay tuổi tác trong những lần tiếp xúc ngoài xã hội
mà trở thành những gởi trao tâm tình thắm thiết, những
tình tự ái ân cùng những gắn bó hầu như ruột rà máu
mủ.
Nhìn chung,
xét về mặt ý nghĩa, từ EM cống hiến nhiều phương diện
đẹp trong cuộc sống.
a.
Trước tiên về mặt gia đình và xã hội :
Từ EM vừa chỉ sự thống thuộc thân tình về huyết
thống, về trật tự tuổi tác vừa diễn tả sự tôn trọng,
kính nể, nhường nhịn giữa các lớp tuổi đưa đến sự
tương nhượng, lễ độ, lịch sự
trong đối đãi giữa nhau. Khi còn xưng hô ‘anh em, chị
em’ với nhau thì mối liên hệ còn trong vòng nể nang,
tình nghĩa chứ không gây cấn, hỗn hào, vô lễ. Lúc về
già, hai người còn xưng hô nhau ‘anh em, chị em’
thì sợi dây tình cảm gia đình và xã hội vẫn còn
bền vững, ngọt ngào như thưở nào.
b.
Từ EM trong quan hệ vợ chồng và tình cảm nam nữ.
(người vợ hay người yêu nữ luôn xưng hô là Em
với chồng hay với người yêu trai dù có lớn tuổi hơn). Từ
EM diễn tả mọi yêu thương trong ràng buộc tự
nguyện, trong ân tình trao gởi nối kết hai người trong
cùng một cuộc sống chung, hòa đồng, dâng hiến cho nhau.
Cặp vợ chồng mỗi khi bất hòa hay lúc đã cao niên mà còn
gọi nhau là ‘anh em’ thì mối bất hòa kia sớm qua đi
và tình cảm lúc về già vẫn tươi mát, ngọt ngào như thời
son trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt, thông giao
để bày tỏ ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng. Trong đối thoại,
ngôn ngữ thường tùy thuộc vào thái độ (attitude) và giọng
điệu (intonation) cho thấy cuộc đối thoại dịu dàng, thân
mật hay gây cấn, hỗn hào, vô lễ có thể dẫn đến dùng bạo
lực.
Chẳng hạn, hai nguời hay hai vợ chồng bất hòa với nhau
có thể dùng những từ ‘ông, bà, mầy, tao,..’ nhưng nếu
còn dùng cać từ ‘anh, chị, em’ thì mối bất
hòa không
đến nỗi gây cấn quá đáng vì các từ nầy, tự thân, đã
mang sẵn tính nhường nhịn, thân mật và nể trọng nhau.
c.
Trong yêu đương, trong đối xử ân tình nam nữ.
Từ
EM
dùng chỉ người nhỏ tuổi, người tình, người con gái mà ta
lưu luyến, muốn trao gởi tâm tình, cảm mến, thương yêu. Ta
thử tượng tượng hai người trai và gái chưa hề quen nhau,
tình cờ gặp nhau giữa đường hay nơi chợ, …hỏi han nhau
việc gì đấy mà xưng hô ‘anh,
em’
với nhau thì hầu như mối thân tình đã được thể hiện
ngay để rồi tiến đến quen thân và sau đó…Nhất là chàng
trai được cô gái chưa quen mà xưng với mình là
EM
thì bỗng nhiên cảm thấy ‘phơi phới’ trong lòng ra sao. Từ
EM,
do đó, có thể nói là bước khởi đầu cho yêu thương, cho
nhung nhớ, cho tơ duyên vợ chồng. Và bao cuộc tình thơ
mộng, đẹp tươi trọn đời hay phải gảy đổ đớn đau hầu như
đều do cái từ
EM
ban đầu đó. Xin nghe cô nàng Dư Thị Diễm Buồn thuật lại
cái ‘nết hư’ của nàng hay của cô nữ sinh do từ cái
‘nụ̣ cười trong mắt’ chàng trai lính chiến lúc nàng
choàng vòng hoa cho chàng vào ngày Quốc Khánh VNCH:
Từ dạo đó dễ buồn và dễ khóc
Dễ dỗi hờn và cũng lắm âu lo
Hay dối mẹ,
Em
bắt đầu trốn học
Cô bé thơ ngây đã biết hẹn hò….
…….
Gặp bất chợt, vui mừng không thể tả
Em
tưởng chừng mật ngọt rót vào lòng
Nâng tà áo, tay xoay xoay nón lá
Trước cổng trường
Anh
đợi có lâu không ?
DTDB : ‘Nụ cười trong mắt anh’ (Những Ngày Xưa Thân Ái)
« Hư quá » mà cũng ‘đẹp đẽ’ làm sao ! Có lẽ, không một cô
gái hay chàng trai nào không trải qua những lần như thế.
Chỉ hai tiếng
‘Em, Anh’
ban đầu gặp gỡ, thế là ‘mặt hồ tâm tư bắt đầu lăn tăn
sóng gợn’ rồi tình ca, tình sử ‘rủ rê’ đến để rồi, nào
đâu biết ‘Ái tình triết lý màu bi đát, Mà mực tàn
canh vẫn chảy hoài’.
d.
Từ EM trong Văn chương và thơ ca.
*Trong văn chương bình dân, từ EM
thường được dùng không rõ vào thời kỳ nào. Trước tiên,
chỉ để nói về liên hệ trong gia đình hay để nói riêng
về thân phận nữ nhi rồi dần dần đi vào thơ ca qua ca dao,
dân ca, nói lên tâm tì̀nh, tâm trạng giữa gái và trai,
giữa vợ và chồng :
Em
như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhắc nổi mình mà bay
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn bảo trước sau một lời
Mẹ già dữ lắm, em ơi !
Ngày ngày
em
đứng
em
trông
Trông non non ngắt, trông sông sông dài…
Ở đây đất đỏ mây vàng
Em
đi làm mướn gặp chàng làm thuê
Yêu nhau ta
đưa
nhau về
Làm mướn là vợ, làm thuê là chồng.
Em
về anh mượn khăn tay
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên
Em
về để áo lại đây
Để khuya anh đắp gió tây lạnh lùng.
e.
Từ EM
dùng ‘nhân cách hóa’.mọi
thứ.
Trong Văn chương, nhất là trong Thơ, từ EM, ngoài việc
xưng hô trong tình yêu nam nữ, còn được dùng để ‘nhân cách
hóa’ mọi thứ, diễn tả nỗi niềm trìu mến thân
thương hoặc buồn đau, trách móc, lẫy hờn, nhưng bao giờ
cũng chan chứa tình tự ngọt ngào, yêu đương, thương xót,
quyến luyến, xót xa hay tủi buồn, trách móc. Tất cả
đều được gọi bằng EM, trở thành EM một cách
thơ mộng, thân thương. Trăng, mây, sương, gió, núi sông, cây
cỏ, hoa lá, cả địa cầu, trời đất, tinh tú, quê hương,
ngôi nhà, thôn xóm, cả dân tộc, quốc gia, lịch sử, ngôi
chùa, đình làng, quyển sách, chiếc bàn, cây bút, nói chung
là vạn vật, cả sự kiện không gian, thời gian, kể cả
Nghệ thuật, Khoa học, Triết lý,…Tất cả, dù là sự vật vô
tri, vô tình cũng được ‘nhân cách hóa’ qua từ EM
hiền hòa, dễ thương, dễ mến dù lắm khi bi thiết, não
nề. Đối với nhà thơ, tất cả đều trở thành những ‘người
yêu, người tình’ để được gọi bằng EM thi
vị, ngọt ngào ân ái cho dù đấy là những gì đã gây cho
mình nhức nhói, buồn đau. Nhân cách hóa mọi sự vật,
đấy là
đặc
quyền dành cho nhà thơ nhà văn, đặc quyền của thơ ca mà
không một bộ
môn nghệ thuật nào có được.
Xuân Diệu đã gọi Thơ là
EM :
Thơ ta hơ hớ chưa chồng
Anh yêu muốn cưới mà không tì giờ
Mùa thi sắp tới, Em
Thơ
Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau.
Đỗ Bình đã gọi cây súng M.16 là EM :
Em
bay
vào lẩn trong tinh đẩu
hay rủ hồn đau
dưới vực sâu…
Phương Hà đã gọi bức tường Bá Linh bằng Em :
Em
gục xuống là điều phải lẽ
Vì dối gian có tồn tại bao giờ…
Dưới chân Em bao lớp người ngã gục
Sau lưng Em những vùng đất kinh hoàng….
Hình tượng siêu hình, ẩn nhiệm đã đưa nhà thơ long đong
trên đường luân lạc giữa cõi thế phù trầm, trở về lại
với chính mình, sống với nguồn cội ban sơ nơi mình và
nơi tất cả, đã được Nguyên Sa mượn qua từ EM để
diễn tả:
Có phải Em về đêm nay
Trên con đường chạy dài hoa cỏ
Cho lòng anh trở lại với lòng anh….
Đinh Hùng trong bài thơ ‘Kỳ Nữ’ đã mượn từ EM để
nói đến một hình tượng nghệ thuật hay một hình tượng
huyền nhiệm nào đó hầu giao phó cả định mệnh mình cho
EM định đoạt :
Ta đặt Em lên ngai thờ nữ sắc
Để cho Em biện hộ kiếp ngày sau
Vì người Em có bao phép nhiệm màu
Một sợi tóc đủ làm nên kinh ngạc…
Lời thơ Phương Hà trong bài thơ ‘Nguyệt Ánh’ :
Mười năm không ánh trăng
Đêm nay Em về đó….
Em
trong bài thơ là nữ ca sĩ Nguyệt Ánh giúp vui buổi Văn
Nghệ của Cộng Đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản tại
Bruxelles, thủ đô Bỉ Quốc năm 1985. Hiện thực là thế nhưng
âm hưởng lời thơ đưa dẫn chúng ta đến những gì xa xôi,
trầm mặc, ra ngoài tầm hiện thực.. Từ Em nơi đây
là hình ảnh Quê hương đang nghìn trùng xa cách. Quê Hương
về lại đó, sáng tươi, kiều diễm sau mười năm tăm tối, âm
u vì Em, Em đã về. Lời thơ giản dị, quá giản dị
nhưng sao phảng phất những nét màu lung linh, huyền nhiệm
vừa như sáng rỡ huy hoàng vừa như mộng mị, liêu trai :
‘Đêm nay Em về đó’, ‘Có phải Em về đêm nay’
(Nguyên Sa) , có phải :
Có phải nghìn thu bờ mộng cũ
Nẻo về trăng trắng gái liêu trai
Trần gian tình lạnh lòng thi tử
Em
đến bên hồn, anh ngỡ ai !
(không nhớ tên tác giả)
Người viết cũng đã gọì ‘Việt Nam, Lịch sử, Tự do, Lẽ
Đạo’bằng từ EM :
Mai đây nước lại về nguồn
Đầu non Em (VN) tắm sạch buồn thế gian.
Tôi gặp tình Em (Tự do) nơi đảo hoang
Cuối mùa thế kỷ chít khăn tang
Nơi đây bao kiếp sầu hoang dại
Cười vỡ nhân gian vũ trụ tàn…
(Pulau Bidong, ngày buồn)
Em
(Lẽ Đạo) bắt đời phải khổ đau
Tôi yêu nên cảnh thế gian sầu
Đất trời, vũ trụ cong cùng phẵng
Tôi cánh thuyền đêm, Em hải âu….
(Nhớ)
Trong thơ ca, từ EM còn dùng theo tính cách ‘phiếm
chỉ đại danh từ’ thay cho từ AI hay từ Người
hầu thêm âu yếm, thân thương trong mọi nhắc nhở, nhắn
nhủ, gởi trao. Từ EM do đó nhiều khi không chỉ một
đối tượng rõ mặt mà mượn qua hình ảnh đối tượng đó để
ám chỉ một hình ảnh, một sự kiện nào còn xa xôi, ẩn
nhiệm :
Em
về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không ?!
Bùi Giáng
Em
ở
đây là ai ? Là cô em gái, là người tình ? Không phải. Em
nơi đây là bất kể người nào, người của thế gian,
người đang trong cuộc đời đa đoan, nhiễu loạn…
Em
về giủ áo phù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay…
Bùi Giáng
Em
trong câu thơ nầy không là người yêu, không là người em gái,
cũng không bất cứ người nào mà là Tổ Quốc, Quê Hương,
Lịch Sử và có thể là Thượng Đế hay nói theo Triết
học, Đạo học là Đạo Thể, là Être.
Có lẽ, chỉ riêng ngôn ngữ Việt Nam ta mới có từ EM
độc đáo đó vừa nhẹ nhàng, hiền dịu vừa nồng ấm tình
tự đậm đà, gắn bó thiết tha, nhất là được dùng để ‘nhân
cách hóa’ tất cả mọi thứ dù trang trọng, thiêng
liêng hay đơn sơ, bình dị, dù cao quí hay tầm thường, dù là
tâm linh hay thực tiễn, dù là Thượng Đế hay quỷ ma. Nghe
từ EM, ta cảm thấy ngay một gần gũi, cảm thông,
thân ái, thân tình.
Hầu như người Việt Nam, nhất là nhà thơ, luôn xem mọi thứ,
mọi điều đều là những người EM thân thương, duyên
dáng,
dễ
mến để mình được đóng vai người ANH, người CHỊ
sẵn sàng yêu thương, mến chuộng, sẵn sàng đùm bọc, chở
che, san sẻ nỗi lòng, trao cho nhau nỗi ước, niềm mơ, sẵn
sàng chịu đựng bao buồn đau, khổ lụy, niềm vui, nỗi nhớ,
tiếng khóc, giọng hờn dù trong hân hoan phấn khởi hay
trắc trở bi thương, ngay cả trong lúc bông đùa, diễu cợt
cùng dẫn về thông cảm, thông giao, gắn
bó
xóa đi những oán hờn, buồn tủi, những chia lìa ngăn
cách giữa người và người, giữa người với thiên nhiên,
vạn vật. Từ EM do đó mang tính cách Văn hóa
rộng lớn, không chỉ biểu hiện lòng yêu thương mà còn nói
lên tính cách hòa đồng, hảo hợp giữa con người với môi
trường sinh hoạt, giữa con người với lịch sử, giữa Tiểu
ngã và Đại ngã trong dòng sinh hóa chung nơi cõi hiện
hữu để cuộc sống, cuộc đời thêm đẹp, thêm xinh, thêm hòa
ái, mặn nồng tình nghĩa.
Tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh,
hay một thứ tiếng nào khác chắc khó có từ nào ‘đẹp’ như
từ EM của ngôn ngữ Việt. Những từ ‘Muội,
Tiểu Muội’ trong tiếng Hán, ‘chérie, chouchou,
mon cœur, mon amour,…’ tiếng Pháp, ‘dear,
darling,….’ tiếng Anh thường dùng để chỉ đối tượng
xưng hô hơn là nói về chính mình vì thường dùng ở ngôi
thứ hai (ngoài trừ từ Muội trong tiếng Hán) và
nhất là ‘không thể nhân cách hóa được tất cả’ từ
vật vô tri đến vật hữu tri, từ thần thánh đến cả ma
quỷ, ngay cả ‘nhân cách hóa’ Lẽ Đạo, Đạo Thể hoặc đôi
khi dùng chỉ cả Thượng Đế, chỉ ‘Être’ trong đạo học Tây
phương như từ EM của Việt Nam. Bỏ từ EM, ngôn
ngữ VN sẽ trở nên nghèo nàn và thơ ca VN sẽ mất đi hàng
hàng số lượng.
Nguyễn Thùy
|


|