Người đọc Phương Tây nói gì về các tác phẩm văn học Việt Nam đương
đại
Trong
cán cân giao lưu văn học VN-quốc tế, “nhập” áp đảo “xuất” với
tỷ số tuyệt đối. Giới thiệu văn học VN đương đại ra quốc tế vẫn
là ưu tư canh cánh của những người yêu “chuông nhà”. Làm sao cải
thiện về căn bản tình trạng này? Muốn có câu trả lời thiết thực,
không duy ý chí, tưởng cũng nên bắt đầu bằng việc “khảo sát thị
trường”.
Khảo sát bằng cách nào? Trong điều kiện một cá nhân đơn lẻ,
không có phương tiện nào khác, tôi thử dùng công cụ dễ kiếm
nhất, nhanh nhất, mà cũng có lẽ là trung thực nhất, là lướt
mạng, để xem những tác phẩm nào gây ấn tượng nhất, và xem người
đọc Phương Tây (người đọc thực tế và tiềm năng lớn nhất của
chúng ta ở nước ngoài) nói gì về chúng? Từ đó, có thể gợi ý về
con đường chinh phục thế giới của các nhà văn nhà thơ ta.
Về văn xuôi
Cho đến nay, có 5 tác phẩm được người đọc bình chọn 4,5/5 trên
mạng quan trọng nhất về sách là Amazon.com và vài mạng khác,
cũng là những tác phẩm có nhiều người bình luận.
Nỗi buồn chiến tranh, tiếng Anh
1/ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (The Sorrow of
War,
bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hảo, Frank Palmos hiệu đính)
Cho đến nay vẫn xếp vị trí đầu bảng trong số các tác phẩm được
bạn đọc phương Tây chú ý. Nó đã được xếp trong top 10 các tiểu
thuyết Đông Nam Á. Có người đã nói là nó xứng đáng được giải
Pulitzer (giải văn học sáng giá nhất của Mỹ) và được so sánh với
Mặt trận phía Tây không có gì lạ của Remarque.
“…has been placed among the top ten Southeast Asian novels. It
"vaults over all the American fiction that came out of the
Vietnam War," says one critic, boldly. It has been called
Pulitzer-worthy, and has been compared by numerous robots to
All Quiet on the Western Front”
(Kenneth Champeon, nhà văn, mạng ThingsAsia)
“Không chạy trốn sự dữ dội và hiện thực trần trụi. Tác giả là
một người sống sót trong cuộc chiến, chiến đấu trong quân đội
Bắc VN chống Mỹ, nhưng Bảo Ninh không có hảo ý với cả quân đội
Bắc VN cũng như người Mỹ và đồng minh.Trong cuốn tiểu thuyết này
không có chủ nghĩa lãng mạn, mà chỉ là sự chân thực. Kiếp sau
khi dạy học, tôi sẽ yêu cầu học sinh của mình đọc nó đối chiếu
với tác phẩm “The Things They Carried” của Tim O’Brien (tác phẩm
về chiến tranh VN của nhà văn Mỹ nổi tiếng). Những cuốn sách ấy
có thể làm chấm dứt một cuộc chiến”.
There is no escaping the intensity and naked reality presented.
The author is a survivor of the American War who fought in the
North Vietnamese Army, but Bao Ninh is kind to neither the North
Vietnamese Army nor the Americans and its allies. There's no
romanticism in this novel, only honesty. In my next life, when
I'm a teacher, I will assign this to my class to be read
back-to-back with Tim O'Brien's "The Things They Carried". These
books could stop a war.
(Edward j. Santella, 1/57 người bình luận trên Amazon.com)
“Là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải luận văn, The Sorrow
of War không cho ta câu trả lời. Nó chỉ yêu cầu chúng ta
thừa nhận một sự thật, ngay cả với những cuộc chiến tranh gọi là
“chính nghĩa”: “Công lý có thể đã thắng, nhưng sự tàn bạo, chết
chóc, và bạo lực phi nhân cũng đã thắng”.
A novel and not a treatise, The Sorrow of War does not
answer. It only asks us to recognize a truth even of so-called
"just" wars: "Justice may have won, but cruelty, death, and
inhuman violence have also won."
(Kenneth Champeon)
-
Một bất ngờ cho những ai kết tội cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh
là có cái nhìn tiêu cực đối với người lính miền Bắc VN. Ngược
lại, không ít bạn đọc phương Tây phát hiện vẻ đẹp của người VN
qua cuốn sách, đối nghịch với sự tuyên truyền của phim ảnh Mỹ:
“(Cuốn tiểu thuyết) cố gắng nhân bản hóa hoàn toàn một dân tộc
cho đến nay vẫn thường bị xem như những kẻ cuồng tín hành động
như người máy”
The novel "manages to humanize completely a people who until now
have usually been cast as robotic fanatics."
(The Sunday Times, London)
“Nỗi buồn chiến tranh ca tụng sức chịu đựng bền bỉ của người
lính Bắc VN… Vai trò của người phụ nữ thể hiện trong cuốn sách…
Tôi chưa từng biết khía cạnh này trong văn hóa Việt Nam cho đến
khi đọc cuốn sách này và tôi liền theo học một khóa về lịch sử
Việt Nam. Văn hóa phương Tây không thường vẽ chân dung những
người phụ nữ bảo vệ gia đình và chiến đấu cho đất nước. Là một
phụ nữ và một phụ nữ từng là lính, tôi cảm thấy mình có mối liên
thông với những người phụ nữ trong truyện… Tôi hâm mộ họ. Nhìn
thấy cái cách họ được miêu tả tôi nhận ra rằng trong văn hóa Mỹ
của mình có lẽ tôi chẳng bao giờ thấy một chủ nghĩa anh hùng như
thế. Phần lớn các nữ anh hùng trong truyện bị giết hoặc bị hiếp,
nhựng họ vẫn được phép trở thành anh hùng như thế. Tôi thấy đó
là sự khác biệt lớn giữa Nỗi buồn chiến tranh và những
phim sách “American made”. Việc đọc cuốn sách này cho tôi thêm
một chiều kích mới đối với cuộc chiến tranh VN”
The Sorrow of War celebrated the North Vietnamese soldier's
endurance and perseverance. It described in detail what the
"other side" went through. The role of women was covered in this
book. Kien fought alongside and against women during the war. He
admired the women soldiers he fought with. He respected them. I
have never encountered this aspect of the Vietnamese culture
till I read this book and took a history course about Vietnam.
Western culture does not regularly portray women as defenders of
their homes and warriors for their country. As a woman and as a
woman who was a soldier I felt a connection to the women in this
story. No one ever told them they could not fight and die for
their country. I admired them. I saw the way they were portrayed
and realized that in my American culture I would probably never
see such heroism. Most of the heroines in this novel were either
killed or were raped and yet they were still allowed to be those
heroines. I see this as a large difference between The Sorrow of
War and American made movies and books. Reading this book has
added a new dimension to the Vietnam War for me. I am glad I had
the opportunity to see the many sides of the issue.
(Susan
L. Birmingham, AL, Hoa Kỳ, mạng
Amazon.com)
Chốn vắng, tiếng Pháp, sách bỏ túi
2/ Chốn vắng của Dương Thu Hương
Bản tiếng Pháp (Terre des oublis của Phan Huy Đường) là
một thành công ở Pháp (gần 200.000 bản phát hành, giải thưởng
của báo Elle, tái bản trong các bộ sách Le Livre de Poche,
Robert Laffont, …) tiếp theo là các bản dịch xuất bản ở Mỹ (bản
tiếng Anh No Man’s Land của Nina McPherson) ở Ý và Tây
Ban Nha.
● Nhiều phẩm chất được ca ngợi, nổi bật là về sự thể hiện sinh
động tâm lý xã hội VN thời hậu chiến và sự quyến rũ của bút pháp
“Một sự đột nhập lôi cuốn vào lãnh thổ ít người biết: chấn
thương gây ra bởi cuộc chiến tranh VN đối với những người chiến
thắng”
"A fascinating foray into little-charted territory: the trauma
wrought by the Vietnam War on its 'winners'."
(Kirkus Reviews)
“Hương gợi lên vẻ đẹp của xứ sở, những truyền thống Việt Nam
xưa, và những tiết tấu phi thời gian của đời sống hàng ngày, đối
âm với những bi kịch của sự đàn áp và chiến tranh.
Chia sẻ những tâm sự đau khổ của mỗi nhân vật bị mắc vào cái
mạng thắt nghẹt của tuyệt vọng, bổn phận, ham muốn, cảm thương,
và giận dữ, Hương dẫn một câu chuyện quyến rũ, chính xác về chi
tiết và có tầm rộng lớn. Một cuốn tiểu thuyết làm ta say đắm,
phân tích một cách sắc sảo bản chất của chiến tranh và hòa bình,
sự nghèo nàn và giàu có về vật chất và tinh thần, cái tôi và
cộng đồng, sự cưỡng bức và tình yêu”
Huong evokes the beauty of the land, Vietnam's ancient
traditions, and the timeless rhythms of daily life in
counterpoint to the tragedies of communist oppression and war.
Privy to the anguished thoughts of each character caught in this
strangling web of desperation, duty, sacrifice, desire,
compassion, and rage, Huong spins a captivating tale precise in
details and grand in scope. A ravishing novel that exquisitely
parses the nature of war and peace, material and spiritual
poverty and wealth, self and community, coercion and love.
Donna Seaman (Booklist _ American Library Association)
“Đó là một cuốn tiểu thuyết cao cả với bút pháp thơ, trộn lẫn
nhục cảm với sự tàn bạo trong những miêu tả lộng lẫy đầy màu sắc
và mùi hương. Người đọc không thể không bị chao đảo, chói lóa
sau khi đọc nó”
C'est un sublime roman à l'écriture poétique mêlant la
sensualité et la cruauté dans de somptueuses descriptions
remplies de couleurs et d'odeurs. Le lecteur ne peut qu'en
sortir ébloui, chaviré
(Florinette,
Aquitaine, Pháp)
Thiên đường mù, tiếng Anh
3/ Thiên đường mù của Dương Thu Hương (Bản dịch tiếng Anh
Paradise of the Blind của Nina McPherson):
Được chọn trong “500 cuốn sách lớn của tác giả nữ”:
“Cuốn sách thể hiện được vẻ đẹp lớn lao và những sự thú vị đầy
ấn tượng của xứ sở độc đáo này, cũng như sự xuống cấp và hiện
thực ảm đạm của thời hậu nội chiến”
The book captures the enormous beauty and sensory delights of
this unique land, as well as the degradation and grim realities
of the post-civil-war period.
(School Library Journal)
“… một chuyện kể giàu chi tiết và không định kiến. Tác giả… miêu
tả sự phức tạp của văn hóa Việt Nam – sự trung thành với gia
đình và tổ tiên, giá trị biểu trưng của thức ăn, sự phân biệt
giai cấp và cảm giác luôn luôn tuyệt vọng trộn lẫn với lòng tự
hào”
… a narrative rich in detail and free of cliche. The author, who
lives with her children in Hanoi, depicts the complexity of
Vietnamese culture--the allegiance to family and ancestors, the
symbolic value of food, class distinctions and the continuing
sense of desperation mingled with pride.
(Publishers Weekly)
“Qua con mắt của Hằng, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của
những ràng buộc gia đình và hiểu được vai trò của thực phẩm,
nghi lễ và sự thờ cúng tổ tiên trong xã hội VN. Chúng ta cảm
nhận nỗi khổ đau của người phụ nữ sống trong một xã hội nam
quyền, ở đó họ chỉ ngang hàng với đày tớ”
Through Hang's eyes we perceive the importance of family ties
and understand the role that food, ritual, and ancestor worship
play in Vietnamese society. We see the Communist legacy as
relatives and friends turn on one another in an effort to become
the "king of the mountain," and we feel the pain of women living
in a male-dominated society where they are on equal footing only
with servants. Highly recommended for Asian studies and women's
studies collections.
(Library Journal)
4/ Tuyển tập truyện ngắn Sang sông của Nguyễn Huy
Thiệp (Crossing the River bản dịch của Nguyễn Nguyệt Cầm)
“Một đề tài trở đi trở lại khai thác tình trạng không thích hợp
của các anh hùng và những niềm tin truyền thống. Tuy nhiên, phần
lớn hình ảnh, môi trường xung quanh, và sự kiện thấm đẫm triết
lý đạo đức Việt Nam và Phật giáo cùng với huyền thoại và lịch sử
Việt Nam. Về nhiều mặt, sự liền kề của tranh đấu có ý thức với
chấp nhận hài hước đen tối dường như là một đặc điểm cốt yếu của
văn hóa Việt Nam”
A recurring theme explores the inadequacy of heroes and
traditional beliefs. However, much of the imagery, surroundings,
and events are steeped in Buddhist and Vietnamese moral
philosophy and Vietnamese myth and history. In many ways, this
juxtaposition of aware struggle and darkly humorous acceptance
seems to be a quintessential feature of Vietnamese culture
Allison Martin "Book Reviewer"
(Amazon.com)
Trong sương hồng hiện ra
5/ Tập truyện ngắn Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh
Thái (Behind the Red Mist bản dịch của Wayne Karlin &
Nguyễn Quí Đức)
“Một tập hợp rất đẹp gồm 10 truyện ngắn của một nhà văn có tài,
khai thác đời sống hậu chiến ở Việt Nam quê hương ông với sự
trộn lẫn chủ nghĩa hiện thực tàn bạo và huyễn tưởng tượng trưng
chủ nghĩa. Chủ đề căn bản của Thái là sự tương phản giữa chủ
nghĩa ái quốc ngây thơ với chủ nghĩa hiện thực cay đắng của
những thế hệ sau bị tổn thương vì lịch sử cuộc chiến kéo dài gần
đây cúa đất nước họ”
A fine collection of ten stories, all published in the last two
decades, by a talented writer who explores postwar life in his
native Vietnam with a commanding mixture of brutal realism and
symbolist fantasy. Thai's primary subject is the contrast
between naive patriotism and the embittered realism of later
generations scarred by their country's recent history of
prolonged warfare
(Kirkus Reviews)
“Châm biếm, siêu thực và ẩn dụ ngập tràn nhiều truyện ngắn trong
tập truyện được xây dựng một cách lịch lãm này”
"Satire, surrealism and allegory suffuse many of the stories in
this elegantly constructed collection..."
(New York Times Book Review)
Về Thơ
Dễ hiểu tại sao thơ rất ít được chú ý. Dịch thơ là cực khó,
nhất là khi sự khác biệt vê ngôn ngữ và văn hóa giữa VN
và phương Tây quá lớn, và khi thị hiếu toàn cầu ngoảnh mặt với
thể loại văn học này.
CHÓ ĐEN VÀ ĐÊM
Tặng Nguyễn Đỗ
1 Con chó / Con chó đen/ Con chó đen chạy vào đêm/ Đêm gừ gừ, âm
ấm
2 Chó đen sủa bông sứ máu
3 Chó đen ngửa mặt nhìn trăng
4 Chó đen rin rít những điều khó hiểu / Hồn ai đang lang thang
trong đêm?
5 Buồn quá chó ơi / Ai cũng bỏ ta rồi / Phì phì mày ghếch mõm
vào môi
6 Chó đen sùng sục suốt đêm / Nỗi ngứa ngáy tiền kiếp / Phát
điên vì không nói được
Hoàng Hưng
1/
Gây được tiếng vang rộng rãi duy nhất là Tuyển tập Chó đen
và đêm (Black Dog, Black Night) do Nguyễn Đỗ và Paul Hoover
chọn và dịch, gồm 17 nhà thơ trong nước và 4 nhà thơ
gốc Việt công dân Mỹ.
-
Cuốn sách được tạp chí thơ online Coldfrontmag bình
chọn là tuyển thơ dịch hay nhất của Mỹ năm 2008.
-
Tập đoàn những NXB nổi tiếng như Macmillan Reference USA™,
Charles Scribner's Sons® hoặc Primary Source Media™… đã quyết
định chọn 15 bài thơ của 11 nhà thơ Việt Nam trong tuyển tập
Black Dog, Black Night để đưa vào tổng tập văn học thế
giới, một loại SGK tham khảo văn học thế giới bằng tiếng Anh.
Tên tổng tập này LitFinder (tạm dịch: Tìm Văn), do nhà
thơ Emma Hull biên tập, xuất bản tại chi nhánh ở Anh quốc.
Danh sách 11 nhà thơ và 15 bài thơ Việt Nam đã được chọn, xếp
theo thứ tự của NXB: Hữu Loan (Màu tím hoa sim), Tế
Hanh (Hà Nội vắng em), Văn Cao (Có lúc; Năm buổi
sáng không có trong sự thật), Trần Dần (Cột đèn câm),
Hoàng Hưng (Người đàn bà điên; Người về), Nguyễn Khoa
Điềm (Vườn quả của mẹ), Ý Nhi (Lời bài hát; Buổi
sáng), Nguyễn Quang Thiều (Linh hồn đàn bò), Nguyễn
Đỗ (Hồi ức một ngày; Với), Xuân Quỳnh (Thơ tình cuối
mùa Thu), Nguyễn Duy (Đà Lạt một lần trăng).
-
Một bài thơ trong tuyển đã được bình luận khá kỹ trên mạng của
tổ chức thơ hùng mạnh nhất của Mỹ là Poetry Foundation (Người
về – A Man Returning Home):
“Tôi xếp bài thơ này vào Hồ sơ “Những bài thơ hâm mộ” vì tôi mê
cái cách sử dụng trạng thái nghiêng của nó. Tôi yêu lối bất an
của cuộc sống người đàn ông này dường như đồng thời tăng tiến và
giảm đi với cường độ lớn. Cái “tiếng bâng quơ hỏi” có thể sẽ
dường như bớt đe dọa hơn nếu như nó đến sớm hơn trong bài thơ,
như sau câu thơ nói về các con ông ta chẳng hạn. Nhưng ở đây,
đến cuối bài thơ, khi chúng ta thấy được những sự bất an về thể
xác như “một cái vỗ vai” khiến ông hoảng hốt đến thế, thì tiếng
nói kia trở nên đáng lo ngại không thể tin nổi. Tiếng nói ấy đòi
ông làm gì vậy? Dòng thơ ngắt sau cái giật mình đặc biệt hiệu
quả ở chỗ cái “giật mình” đến liền sau sự đe dọa của những câu
hỏi. Bây giờ cái ý người đàn ông giật mình dường như báo động
một cách khủng khiếp, và mặc dù lẽ ra chúng ta được trấn an vì
thật ra ông ta giật mình chỉ vì một sự nhỏ nhặt như thế, thì
cuối cùng sự đe dọa của “một cái vỗ vai” lại tăng lên chứ không
mất đi. Tôi cũng yêu cái từ không xác định “cõi ấy” và việc từ
này được viết hoa và in nghiêng trong bản dịch (That).
Hoàng Hưng để cho người đọc quyết định người đàn ông này trở về
từ chỗ nào. Tôi có những phỏng đoán của mình, nhưng câu trả lời
chính xác cho “cõi ấy” có thể ít ý nghĩa hơn nhiều so với câu
trả lời mà chúng ta có được về những gì “cõi ấy” đã gây ra cho
người đàn ông. Và với những chi tiết dồn dập trong bài thơ, nỗi
khiếp hãi cái “cõi ấy” có thể ngày càng dồn sức nặng theo sự
tiến triển của bài thơ.
Hãy xem xét cái cách những sự lựa chọn phản ánh những âu lo. Hay
là hãy xem cái cách những âu lo phản ánh những lựa chọn.
Có gì khác nhau giữa hai cái?
I placed this poem in my Admired Poems file because I was
enamored of its use of the list. I love the way the discomforts
of this man’s life seem to simultaneously increase and decrease
in magnitude. The “aimless voice ask[ing] questions” might have
seemed less daunting had it come earlier in the poem, next to
the mention of his kids for instance. But here at the end of the
poem, when we find that physical comforts like “a touch to his
shoulder” frighten him so, this voice becomes incredibly
worrisome. What is the voice asking him to do? The line break
after jumps is particularly effective given that the line “He
jumps” comes in such proximity to the menace of those questions.
Now the idea of the man jumping seems terribly alarming, and
though we ought to be calmed by the fact that he’s jumped at
such a little thing, in the end the menace of the “touch to his
shoulder” increases rather than dissipates. I also love the
nonspecific word “That,” and how, in this version of the
poem, the word is presented capitalized and in italics. Hoàng
Hung allows the reader to decide what it is this man has
returned from. I have conjectures, but the specific answer to
what “That” might be is significantly less interesting
than the answers we get to what “That” has done to the
man. As with the details accumulated in the poem, the horror of
what “That” might be accrues weight as the poem
progresses.
Consider the way choices reflect anxieties. Or, consider the way
anxieties reflect choices. Is there any difference between the
two?
Camille Dungy (nhà thơ, PGS khoa Viết văn trường Đại học San
Francisco State)
http://www.poetryfoundation.org/harriet/2009/07/a-few-prompts-drawn-from-wanderinghome/
2/ Tác
phẩm Thơ duy nhất nhận được nhiều lời bình: Tập Đường xa
của Nguyễn Duy (Nguyễn Bá Chung & Kevin Bowen dịch)
“Đây là một Whitman của Việt Nam: một nhà thơ yêu đất nước mình,
bị kẹt vào một cuốc xung đột tàn bạo giữa miền Bắc và miền Nam,
một nhà thơ ôm trọn sự hỗn mang và khắc tạc nó thành bài ca.
Những bài thơ đen tối nhất của ông vẫn dành chỗ cho sự hồi sinh
tập thể, hay ít nhất là sự sống sót”
Here is a Vietnamese Whitman: a poet who loves his country,
trapped in a brutal conflict between North and South, a poet who
embraces chaos and sculpts it into song. His darkest poems leave
room for collective rebirth, or at least survival. 'Whatever
happens, the land lives within us,' he writes. 'We are the
people--we will endure.'"
(Catherine A. Salmons, The Boston Sunday Globe)
Những bài thơ chiến tranh mạnh mẽ một cách bình lặng của Duy là
không thể quên được
"Duy's quietly potent war poems are unforgettable”
(The Boston Sunday Globe)
… một giọng say đắm, giọng của lòng can đảm và lòng tin, hy vọng
và tình yêu. Ông khai thác vẻ đẹp của ngôn ngữ trực tiếp, giản
dị theo một cách vừa cá nhân vừa chính trị, không màu mè hay
giáo huấn.
The English translation reveals Nguyen Duy as a passionate
voice, one of courage and conviction, hope and love. He mines
the beauty of simple, direct language in a way that is personal
and political, without rhetoric or didacticism." (Lori
Tsang, Multicultural Review)
Vài điều rút ra:
Các tác phẩm trên được ưa thích vì những khía cạnh chủ yếu sau:
khách quan trung thực trong việc tái hiện hiện thực xã hội,
không định kiến (định hướng) chính trị; thấm đẫm chất nhân bản,
nhân văn; đặc sắc về tâm lý-văn hóa Việt Nam; lối viết tương đối
hiện đại.
Cần xoá bỏ ngộ nhận: những tác phẩm được nước ngoài ưa chuộng
là do nội dung “chống chế độ” Việt Nam (như đã dẫn chứng về
Nỗi buồn chiến tranh). Người đọc chân chính trên thế giới có
cái nhìn rất khách quan về giá trị của một tác phẩm văn học, tất
nhiên dựa trên những tiêu chí phổ quát của thời đại.
Thương hiệu cho văn học Việt Nam chỉ có được một khi có những
tên tuổi đủ sức chinh phục công chúng thế giới. Mà muốn chinh
phục thế giới, trước nhất phải độc đáo - sự độc đáo của văn hóa
và hiện thực Việt Nam nhưng thể hiện ở tận mức cá nhân chứ không
chỉ là “đậm đà bản sắc dân tộc” nói chung. Nhưng sự độc đáo ấy
phải mang một tư tưởng nhân văn cao sâu ở tầm nhân loại. Một
đóng góp thực sự vào văn học thế giới phải là sản phẩm “3 trong
1” (cá nhân – dân tộc – nhân loại) như thế.
Gần đây tôi thường nghĩ đến một hiện tượng văn hoá Việt Nam có
sức mạnh chinh phục người phương Tây rất lớn: đó là những ý niệm
và thực hành Phật gíao đang được hiện đại hoá theo phong cách
rất Việt Nam của Thiền sư Nhất Hạnh (được gọi là “Pháp môn Làng
Mai”). Tư tưởng Phật giáo là một tư tưởng phổ quát đã thấm nhuần
sâu xa và được Việt Nam hoá tích cực nhất trong lịch sử dân tộc.
Thích Nhất Hạnh cũng là một nhà văn, ông có vài chục cuốn sách
được xuất bản trên thế giới với hàng triệu bản. Hiện tượng này
có thể cho ta những gợi ý tốt về con đuờng ra thế giới của văn
học VN.
Hoàng Hưng
Người đọc phương Tây và văn học Việt Nam
Hoàng Hưng
Cập nhật : 14/01/2010 23:39
Một bản tóm tắt của bài viết đã được tác giả đưa vào tham
luận của anh trong "Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt
Nam" ngày 6.1 vừa qua. Bạn có thể đọc bài tham luận mang nhan đề
"Về một quỹ dịch thuật văn học Việt Nam" tại đỉa chỉ:
http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2169