Chút hoài niệm về quê hương Quảng Đà
Xứ
Quảng Đà là một vùng đất quê hương đã để lại trong tôi nhiều kỷ
niệm buồn vui cho dù thời gian tôi ra chơi ở Đà Nẵng chỉ vỏn vẹn
có 15 ngày. Thời gian thiệt quá ngắn ngủi để đi sâu vào đất nước
và con người Đà Nẵng nói riêng và xứ Quảng Đà nói chung. Tôi
muốn ghi lại nơi đây những hình ảnh còn ghi đậm trong tôi, dưới
ánh mắt của một cô bé ngày ấy chưa tròn 14 tuổi đời, về miền non
nước thơ mộng, huyền bí và hữu tình này…
Tôi biết Đà Nẵng vào mùa xuân 1975, lúc ấy ba tôi được lệnh dời
Tiểu đoàn Quân Y Dù từ căn cứ Shally Phú Bài, về đóng quân lập
bệnh viện dã chiến ở căn cứ Phi trường Non Nước. Tôi biết Đà
Nẵng trong những ngày cuộc chiến trở nên ác liệt … « Tết năm đó
cô bé ăn tết ngoài hành quân với ba cô bé ở tận Đà Nẵng. Cô bé
đã chứng kiến ngay mồng hai tết, từng đợt trực thăng đổ xuống
đem thương binh về . Cha cô bé đã mổ không nghỉ từ sáng tới tối.
Cô bé không còn nhìn cuộc đời qua cặp kiếng màu hồng nữa khi
chính cô bé đã nhìn thấy tận mắt mình những vết thương tàn khốc
của chiến tranh . Mỗi chiều về, cô bé lặng nhìn những đoàn xe
chở những cây " tré người " từ trận tuyến về . Gọi là "tré " vì
xác người lính tử trận được gói trong một mảnh poncho . Đầu và
chân được cột như những chiếc tré của người dân Huế . Cô bé bỗng
trở nên trầm lặng hơn. Tiếng đạn pháo nghe mỗi lúc một gần… » (
Trích « Ngày ấy quen nhau » - Tiểu Vũ Vi).
Những ngày tháng của mùa xuân năm đó tôi không thể nào quên. Tôi
còn nhớ, chiều ngày mùng hai Tết, tôi thiệt buồn lắm và rất sợ
khi nghe ba tôi giải thích về những cây « tré » người. Một cô bé
đã từng yêu Huế từ mấy năm nay, và nhất là rất thích ăn các món
đặc sản của Huế như các loại bánh Huế và « tré », làm sao có thể
chấp nhận sự thật phũ phàng ấy…và tôi đã khóc bỏ chạy ra bãi
biển Non Nước. Chiều hôm đó, là lần đầu tiên tôi ngồi nhìn mặt
trời lặn xuống biển và cũng là lần đầu tiên tôi cảm nhận thế nào
mà người ta gọi là hoàng hôn tím, hay chân trời tím.
Những gì tôi thấy trước mắt thiệt đẹp lắm, không thể nào bằng
văn bút mà diễn tả nổi. Đà Nẵng là thành phố cảng từ xưa vẫn nổi
tiếng về những bãi biển đẹp như Tiên Sa, Mỹ Khê, Thanh Bình, Non
Nước…Bờ biển Đà Nẵng uốn cong đẹp như eo người thiếu nữ Việt
nam, duyên dáng trong vạt áo cát trắng tơ mịn màng.
Từ Ngũ Hành Sơn ta nhìn về Đà Nẵng
Phố xá như là phố Trân Châu
Dải lụa trắng men theo bờ cát lặng
Bãi Tiên Sa ngơ ngẩn ngọn Sơn Trà
(Một chút tình cho Đà Nẵng- Lưu Nguyễn)
Nhưng đối với tôi bãi biển Non Nước là nên thơ nhất. Đứng trên
bãi Non Nước, nhìn thẳng đàng trước là màu xanh mênh mông thăm
thẳm của biển, còn nhìn về bên trái là màu xanh lá cây đậm của
dãy núi Sơn Trà mà trên đỉnh lại giắt ngang một vành lụa mây
trắng mỹ miều. Xéo bên tay phải có năm ngọn núi đá đứng ngạo
nghễ giữa trời mây dó là Ngũ Hành Sơn. Nếu bảo tôi phải diễn tả
màu sắc của Ngũ Hành Sơn như thế nào thì thiệt là rất khó vì màu
núi thay đổi theo thời gian trong ngày có khi thì màu xanh ngọc
bích, rồi màu xanh rêu, màu xanh ngã xám hay có khi màu đen
trong những ngày không có nắng…Và khi mặt trời lặn, màu cam ửng
hồng dần rơi, nơi chân trời một màu tím loang dần trên mặt biển
tạo nên một vòng ngũ sắc thật huyền diệu. Buổi chiều mùng hai
tết năm ấy, trước mặt tôi là một bức tranh thiên nhiên diễm tình
đã cho tôi một cảm giác bình yên, đã khắc sâu trong tâm khảm một
cô bé vừa tròn tuổi ô mai, và đã theo tôi suốt 32 năm dài …
Hỡi chồi đá Ngũ Hành Sơn cổ kính
Hỡi dọi cát dài Mỹ Thị lê thê
Mây phủ ngọn Sơn Chà kia có lẽ
Đã bay mù theo gió biển Mỹ Khê
(Núi sông Đà Nẵng – Luân Hoán)
Những ngày tháng tôi ở Đà Nẵng, tôi được các chú trong tiểu đoàn
sau những giờ trực đưa tôi đi chơi thăm phố cảng. Tôi thích nhất
là thả bộ dọc theo con đường Thống Nhất đi từ bờ sông ngang qua
trường nữ trung học khi chiều tan trường, với những tà áo dài
trắng thướt tha …Cũng với mái tóc thề xỏa vai như ngày xưa mỗi
lần ra Huế tôi vẫn thường vào: «… những buổi trưa hè oi ả của
ngọn gió Hạ Lào, ngồi trong xe jeep của tiểu đoàn, tôi đã lặng
nhìn say sưa những tà áo tím duyên dáng Đồng Khánh, che nghiêng
vành nón, suối tóc thề xỏa vai dịu dàng thướt tha bước khoan
thai trên cầu Tràng tiền… (Trích « Huế, thi ca và tôi »- Vũ
Tuyết Như)
Em Huế dịu dàng trong thơ Nguyễn Bính
Suối tóc mượt mà như nước dòng Hương
Một tiếng “dạ…thưa” chân tôi luýnh quýnh
Nhịp guốc qua cầu trăm nhớ ngàn thương
(Theo em qua cầu Tràng Tiền- Tiểu Vũ Vi)
Nhà thơ Vương Ngọc Long đã có một thời ngất ngây trước vẻ đẹp
duyên dáng kiêu sa của người con gái Huế với mái tóc thề buông
dài xỏa kín bờ vai
Mái tóc thề xỏa trên bờ vai
Cho tôi nhung nhớ tháng năm dài
Nón lá nghiêng che đôi mắt ngọc
Cho tôi thờ thẩn mộng thiên thu
(Vương Ngọc Long- Huế ngọc)
thì nhà thơ Luân Hoán lại ngẩn ngơ trước nét yêu kiều hoa mộng
của các cô nữ sinh Đà Nẵng
“mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ
vai tóc thề áo lụa trắng bay bay
quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt
vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay…”
Theo tôi thì cái đẹp giữa người con gái Huế và người thiếu nữ Đà
Nẵng có thể so sánh như hai chị em Thuý Vân và Thuý Kiều mà nhà
thơ Nguyễn Du đã dùng bút phát họa như sau:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Khi tôi đến thì Đà Nẵng đang khoác áo mùa Xuân. Mấy chú kể tôi
nghe mỗi khi hè về hai bên đường Bạch Đằng và Độc Lập, những
hàng phượng nở rộ những chùm hoa đỏ thắm, rất lộng lẫy . Gió
thổi cho cánh phượng bay rơi trên ghế đá ven sông... Giờ ở nơi
xứ người xa xôi, tôi cũng thường hay ngồi trên những chiếc ghế
đá dọc bờ sông, nhắm mắt lại và tưởng tượng mùa hè đang về với
những nuối tiếc nhớ nhung
Cánh phượng buồn như đong đầy kỷ niệm
Của một thời áo trắng đẹp ngây thơ
Em còn về sân trường xưa chờ đợi
Anh tình yêu ngày mới lớn dại khờ
Con ve sầu chiều nay vang tiếng hát
Bài tạ từ trên cánh phượng nở hoa
Màu phượng trôi chập chùng vùng kỷ niệm
Bóng em đâu sao mắt thấy nhạt nhòa
(Vào Hè- Khiếu Long)
để bỗng chợt thấy thèm đi lại trên lối phượng xưa ngày nào
Cơn mưa hạ nhẹ lay vòm lá biếc
Tiếng ve kêu rả rích khúc tự tình
Giữa sân trường phượng thơm hương ngào ngạt
Đốt tim sầu thương niềm nhớ linh đinh
(Lối phượng xưa- Tiểu Vũ Vi)
và được ngồi lại trên chiếc ghế đá nhìn ngắm chiều buông trên
sông Hàn. Sông Hàn tuy không thơ mộng trữ tình trầm mặc như dòng
Hương Giang với những đêm trăng tình tự, với những chiếc đò
ngược xuôi chuyên chở những cung điệu Nam Ai, Nam Bình não nề ai
oán nặng tình yêu thương non nước
Dòng Hương duyên dáng lung linh
Như O con gái tự tình đêm trăng
Mơ màng sương khói mây giăng
Tóc thề buông xỏa đón vầng bán cung
Phím đàn gieo khúc não nùng
Rối lòng lữ khách muôn trùng vấn vương
(Hương Giang dạ khúc - Tiểu Vũ Vi)
nhưng cũng đã đem đến nhiều nguồn mỹ cảm sáng tác cho nhiều nhà
thơ gốc Quảng. Mối tình giữa người con đất Quảng với dòng sông
cuộn sóng phù sa này rất nhẹ nhàng êm đềm nhưng cũng không kém
phần tha thiết
Chiều viễn xứ ta mơ về ĐàNẵng
Có sông Hàn cuồn cuộn phù sa
Nước mắm Nam Ô đượm tình sâu nghĩa nặng
Mì Túy Loan thơm ngát quê nhà
(Một chút tình cho Đà Nẵng- Lưu Nguyễn)
Mô tả về địa danh này, nhà thơ Việt Hải gói ghém cả một vùng
trời địa dư gồm những thắng cảnh Đà Nẵng mà những ai yêu mến nơi
đây sẽ cảm nhận tình hoài hương đất nước:
Về Đà Nẵng, ghé bến Tiên Sa
Lãng đãng mây bay đỉnh Sơn Trà
Khúc khủyu Hải Vân đèo ngăn cách
Dặm đường Non Nước còn bao xa
Ngũ Hành Sơn hữu tình gợi cảnh
Phố cổ Hội An thoáng nhớ nhà
Lấp lánh Thu Bồn ngàn ánh bạc
Bãi Nam Ô hồn mãi trong ta.
(Về Đà Nẵng - Việt Hải)
Mùa xuân năm đó tôi được đi viếng thăm phố cổ Hội An thuộc tỉnh
Quảng Nam, nằm về phía Nam Đà Nẵng khoảng 30 cây số, bên dòng
sông Thu Bồn quanh năm nước chảy lững lờ trong veo và xanh biếc.
Cảnh sắc và kiến trúc nghệ thuật ở Hội An thật đặc biệt, vừa cổ
kính, vừa huyền bí. Khi tôi nhìn bên bờ sông Hội An, những mái
ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi cầu kỳ trong
những căn nhà được xây bằng gỗ quý đã tồn tại từ hơn ba trăm
nay, tôi cảm thấy mình như đi lạc vào một thế giới không gian
nào khác. Có lẽ vì nơi đây, ngày xưa là tựu điểm giao thoa cho
nhiều dòng văn hóa Á Âu, Chiêm, Việt, Nhật, Trung Hoa và Pháp đã
tạo cho phố Hội cổ kính mang một sắc thái riêng biệt, có một
không hai. Ở đây, tôi cũng được dịp thưởng thức thủ công tinh
xảo của những chiếc đèn lồng xinh xắn…và hương vị độc đáo của mì
Quảng Cao Lầu mà nhà văn Việt Hải trong “ Hội An bến mơ” đã diễn
tả như sau: “Hội An nói riêng hay Xứ Quảng nói chung còn có vô
số món. Nhưng tiêu biểu qua món mì cao lầu không thôi đã cho ta
thấy cả nét đặc sắc như cọng mì phải dòn, rồi nào là lát thịt
săn mỏng da, nào hương vị tép mỡ, rau thơm, và nào là nước lèo
có hương thơm của chất thịt. Tất cả các yếu tố được gọi là mì
cao lầu sẽ làm cho khách thưởng ngoạn đê mê vị giác và ghiền mãi
món ngon quê hương Hội An…” Tuy chỉ một ngày ở Hoài phố cũng đủ
để tôi khi ra đi chợt thấy quyến luyến. Có lẽ vì thành phố cổ
này có sức thu hút đặc biệt đã để lại trong lòng những người con
du tử như nhà thơ và văn Trần Trung Đạo biết bao là kỷ niệm khó
quên:…” những người con gái của quê hương tôi cũng đẹp hơn con
gái của bất cứ một nơi nào mà tôi đã đi qua. Đồng bào tôi sống
bằng nghề dệt vải, dệt lụa nên đàn ông con trai thì thường mặc
áo quần may bằng vải, gọi là vải nội hóa hay vải ta, và đàn bà
con gái thì mặc áo quần may bằng lụa. Một lần ở trường Trần Quý
Cáp, Hội An, bọn chúng tôi trai gái cùng đi học về thì chẳng may
trời đổ mưa như tát nước. Chiếc áo dài bằng lụa mỏng đã vô tình
đồng lõa một cách tội lỗi với cơn mưa để phơi bày thân thể của
cô bạn học. Hình ảnh dễ thương tuyệt vời đó đã đọng lại trong
thơ tôi:
Em về phố cũ chiều mưa lớn
Vóc ngọc ngà phơi dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa ấy
Đã cuốn trôi về trăm nhánh sông…”
(Mưa Phố Hội, thơ Trần Trung Đạo)
Ra Tết, chỉ còn vài ngày nữa là tôi trở về Sài Gòn. Ba tôi thấy
tôi cứ buồn cho nên đã cho mấy chú đưa tôi về thăm Huế một ngày.
Tôi thiệt rất vui và thầm cảm ơn ba tôi lúc nào cũng yêu thương,
chìu chuộng và hiểu con gái mình. Chặng đường đi từ Đà Nẵng ra
Huế đã để lại trong tôi mãi mãi một hình ảnh trời mây non nước
vừa hùng vĩ vừa lãng mạn nên thơ đến tuyệt vời, vì tôi đã được
đi qua đèo Hải Vân nối liền ranh giới tỉnh Thừa Thiên- Huế, và
tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Tôi còn nhớ chú Dược Sĩ Chí, người được
ba tôi giao trách nhiệm đưa tôi đi thăm Huế, đã giải thích cho
tôi rằng, đèo được mang tên Hải Vân vì nằm trên núi Hải Vân, mà
đặc điểm của dãy núi này là, chân ngâm dưới nước biển xanh và
ngọn lẫn trong làn mây trắng, vì thế mà núi có tên là Hải Vân.
Đường đèo khi đi lên tới ngọn rất hiểm trở quanh co, uốn lượn
trong mây và dầy đặc sương mù. Nhìn bên kia dốc đèo, vực sâu
thăm thẳm, có những đám mây ngũ sắc bay lờ lững từ trên trời
tuôn xuống. Tiếng gió thổi xô vào hàng bạch đàn như tiếng vó câu
của đàn ngựa. Gió đùa trên dòng tóc tôi bay. Xa xa, màu xanh
thiên thanh của sóng đại dương vỗ vào chân núi; gió đưa mây
trắng lướt theo làn sóng bạc nhấp nhô … càng làm nổi bật nét đẹp
kỳ diệu và hoành tráng của Hải Vân.
Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Súng rền Non Nước bâng khuâng dạ người
(Ca dao)
Có những đoạn đường đèo eo hẹp bên dốc núi đá bám lấm tấm một
loài hoa dây leo dại màu trắng xanh pha tím nhạt mà chú Chí của
tôi gọi là hoa Cát Đằng. Chú bảo tôi hoa này tuy chỉ là một loài
hoa dại nhưng có thể ví như một loài tuyết mai vì cốt cách và
tính kiên cường bền bỉ của nó trước cái nghiệt ngã của môi
trường gió lạnh, ẩm sương quanh năm … Chưa bao giờ tôi lại thấy
lòng mình rung động ngây ngất đê mê trước vẻ đẹp của gió, trời
mây, sóng nước như thế này. Thật như là một bức tranh thủy mạc
được ngọn bút thiên tô điểm đến diễm lệ như gấm bạc tơ trời
…Ngày hôm ấy đối với tôi thiệt khó quên, vì sau lần đó tôi chưa
một lần về thăm lại Huế dấu yêu của tôi.
Trước ngày tôi rời Đà Nẵng, ba tôi đã dẫn cả nhà tôi đi chơi ở
Ngũ Hành Sơn. Sau hơn mười mấy ngày ba tôi bận bịu với các
thương bệnh binh của mình, rốt cuộc mấy chị em tôi cũng có được
một ngày ba là của riêng chúng tôi. Ngũ Hành Sơn cách xa Đà Nẵng
khoảng 7 km, về hướng đông nam, trên một bãi cát mênh mông gần
bờ biển. Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 hòn: hòn Kim, hòn Mộc, hòn Thủy,
hòn Hỏa, hòn Thổ, có lẽ vì chịu ảnh hưởng tư duy triết học của
Trung Hoa mà những ngọn núi này được đặt tên theo những yếu tố
cấu thành vũ trụ. Ngũ Hành Sơn là một địa linh phong cảnh hữu
tình quyến rũ, cảnh trí thiên nhiên kỳ lạ với nhiều hang động
thạch nhũ và chùa chiền. Có những ngôi chùa rất đẹp như Chùa Non
Nước, chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng… Tôi còn nhớ trên hòn Thủy,
đã phải trèo lên 108 bực thang để có thể đứng từ Vọng Giang Đài
ngó về Đà Nẵng. Đến ngoạn cảnh Ngũ Hành Sơn, tôi thấy mình như
đi lạc vào bồng lai tiên cảnh..
Vọng Hải Ðài vui hứng gió nhơn
Thân cuộc trần ai rũ sạch
Vân Thông động mặc dù nhẹ tách
Lạch Ðào Nguyên thắng cảnh nào hơn
Tuy lúc đó tuổi tôi còn nhỏ nhưng Ngũ Hành Sơn đã cho tôi có một
cảm giác thật yên bình giữa mùa chiến loạn.Nhất là khi đi trên
những con đường lá mục dẫn vào các hang động thật rất nên thơ
Nước non chừ đã mù sương
Lưng chừng dốc núi con đường quanh co
(Lá Mục- TTPS)
để rồi đến khi đứng giữa Huyền Không Động, tôi đã lặng nhìn đến
si mê kiệt tác của thiên nhiên mưa và gió…Gió mưa như cặp tình
nhân say điệu luân vũ xoáy mòn vào trong núi đá điêu khắc nên
từng giọt sương trời lung linh ánh màu. Một luồng sáng rơi nhẹ
từ trên thinh không, tiếng tí tách âm vang như những cung nhạc
trầm bỗng, càng làm tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo của Huyền Không
Động. Nhà thơ Thái Tú Hạp đã dùng thi bút để họa nên bức tranh
Huyền Không Động với một vẻ đẹp hài hòa
…
Trăng biếc nghìn khuya hồn cổ tự
Lối đi về quạnh quẽ khói sương
Lên cao đá tảng rừng cây dựng
Hơi thở phù vân đau cố hương
Trang Kinh giở mãi đều vô sắc
Đá núi trầm ngâm chuyện thế nhân
Hạt cát bên bờ hằng sa mộng
Vô lượng triều dâng sóng bạt ngàn…
(Huyền Không Động- Thái Tú Hạp)
Ngày hôm sau, chiếc phi cơ quân sự C130 chở mẹ con chúng tôi về
lại Sài gòn cùng với những xác người lính tử trận không còn bọc
sơ sài trong chiếc poncho như những đòn “tré” Huế nữa, mà được
tẩm liệm trong những quan tài phủ màu lá cờ vàng ba sọc đỏ thân
yêu … Không hiểu tại sao tôi không còn thấy sợ hãi nữa. Nhìn qua
khung cửa nhỏ của phi cơ, tôi vẫy tay chào giã từ Quảng Đà, một
vùng đất quê hương đã cho tôi nhiều kỷ niệm thân thương. Để giờ
đây, sau ba mươi hai năm dài, lòng tôi vẫn còn thấy nhung nhớ
miên man tình hoài niệm và thầm mong một ngày về…
Đất nước ngày mai em trở lại
Với luồng gió mới ngược Trường Sơn
Mang màu nắng ấm xuôi thành phố
Sưởi ấm bao lòng đang héo hon
(Vàng bóng cờ bay- Nhược Thu)
Viết tại Paris, mùa hè 2007
Vũ Tuyết Như