Giai thoại văn
chương
-
PSN - 14.4.2010 |
Lê Thương
Giai
thoại là những chuyện hay và lạ được truyền tụng trong mọi từng
lớp dân gian. Cũng như các truyện cổ tích, phong dao, tục ngữ,
giai thoại cũng là sản phẩm văn nghệ tiêu biểu cho tình cảm và
nếp sống của một dân tộc. Nhưng có điều khác hơn, giai thoại là
những chuyện có thật, nghĩa là xuất phát từ sự thật, từ những
nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng. Còn giai thoại văn
chương là những chuyện hay, vui, lạ về văn chương, mang tính
chất bổ ích trong việc xây dựng và phát triển nền văn học nói
riêng và tinh thần dân tộc nói chung.
Qua hơn bốn ngàn năm văn hiến, kho tàng văn học ta có rất nhiều
giai thoại văn chương trong khuôn khổ bài này, người viết xin kể
lại một vài giai thoại văn chương tiêu biểu hầu cống hiến quý
độc giả để “Mua vui cũng được một vài trống canh».
Bài thơ con cóc
Nói đến đề tựa này, chắc hẳn chúng ta không ai quên bài thơ
trong truyện tiếu lâm chế giễu mấy nhà thơ nọ khi thấy một con
cóc bèn cùng nhau làm một bài tức cảnh:
Con cóc trong hang,
Con cóc nhảy ra.
Con cóc nhảy ra,
Con cóc ngồi đó.
Con cóc ngồi đó,
Con cóc nhảy đi...
Và bài vịnh “Con Cóc” sau đây của vua Lê Thánh Tôn nói
lên cái khẩu khí của một vì thiên tử:
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Chép miệng nuốt ba con kiến gió,
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
Đọc bài thơ trên ta thấy tức cười, đọc bài vịnh dưới ta thấy cảm
phục. Nhưng cảm phục lẫn tức cười chưa lấy gì bằng bài thơ
“Con Cóc” sau đây của 4 vị quan nghè đời Tây Sơn.
Chuyện kể rằng sau khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, triều
đình có tổ chức một cuộc lễ khao quân để mừng các tướng sĩ thắng
trận. Trong số đình thần có bốn ông tiến sĩ xin làm một bài thơ
ca tụng chiến công của nhà vua. Ý kiến tâu lên được nhà vua chấp
thuận nhưng đầu đề và vần phải do nhà vua chọn. Sau khi suy nghĩ
hồi lâu, nhà vua bèn ra đầu đề “Con Cóc” và lấy vần
“Bàm”. Ra đầu đề và vần xong, nhà vua lại bắt buộc tất cả
bốn ông tiến sĩ phải đứng xếp hàng một, mỗi ông làm một câu, hễ
ông trước làm xong bước lên thềm thì ông sau phải ứng khẩu tiếp
ngay, nếu bài thơ không thành, mỗi ông sẽ bị phạt uống một tô
rượu.
Bốn ông nghè bắt đầu làm, ông thứ nhất khởi đọc:
Nghiến răng lừng biển Bắc,
Ông thứ hai tiếp theo:
Tắc lưỡi dậy trời Nam.
Hay! Hay! Hai câu này thật là hay, đúng là con cóc lại ngụ ý nói
lên được cái chiến công oanh liệt của vua Quang Trung đại phá
29 vạn quân Thanh ở Thăng Long do vua Chiêu Thống dẫn đường
sang và đánh chìm 500 chiến thuyền của quân Xiêm ở Kinh Xoài Mít
tại miền Nam do chúa Nguyễn Ánh cầu viện về. Kể ra không kém gì
câu: “Chép miệng nuốt ba con kiến gió. Nghiến răng chuyển
động bốn phương trời” của vua Lê Thánh Tôn.
Nhưng đến ông thứ ba mới là khổ! Phải làm sao cho ông thứ tư còn
lấy được vần “Bàm”, nếu không, mang danh là tiến sĩ mà để
bị phạt uống một tô rượu thì nhục lắm. Bởi nghĩ thế nên ông ta
mới buộc lòng ứng khẩu đọc tiếp:
Ấy nó là con cóc,
Thế rồi ông thứ tư đọc luôn:
Chẳng phải quả bàm bàm.
Khi đọc xong, ai nấy cũng đều ôm bụng cười, kể cả nhà vua:
Nghiến răng lừng biển Bắc,
Tắc lưỡi dậy trời Nam.
Ấy nó là con cóc,
Chẳng phải quả bàm bàm.
Thật ra, hai ông sau không phải là kém tài hay làm thơ dở mà
chính đó mới là hay, là sát nghĩa vì cái “dễ làm” thì hai ông
trên đã “hứng” mất rồi. Cái khó là làm sao phải gieo được vần
“Bàm”
mà không bị khổ độc, nên hai ông tiến sĩ sau đành phải ứng khẩu
một cách “nôm na”như vậy.
Sao mày đối thiếu một chữ?
Trong các bậc văn nhân tiền bối nước ta như các cụ Mạc Đỉnh Chi,
Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, bà Đoàn Thị Điểm đều nổi tiếng
thông minh, văn hay chữ tốt khi còn nhỏ và làm cho mọi người nể
phục.
Nhưng kỳ lạ hơn hết, thật không ai bằng cụ Trạng Vũ Công Duệ,
người làng Trình Xá, tỉnh Sơn Tây, mới ngoài 20 tuổi đã đỗ Trạng
Nguyên làm quan đến chức Đô Ngự Sử cuối đời nhà Lê. Tính khí của
cụ rất cương trực khiến các quan văn võ đều nể sợ. Khi nhà Mạc
cướp ngôi nhà Lê, cụ cương quyết không theo phe nghịch thần, cụ
mắng chửi Mạc Đăng Dung thậm
tệ rồi ôm ấn nhảy xuống cửa Thần Phù tự tử chết.
Thuở nhỏ Công Duệ nhà rất nghèo, một hôm cùng mấy bạn đồng lớp
trên đường đi học, Công Duệ lấy đất sét nặn thành con voi, bắt
bốn con cua làm chân, bắt hai con bướm làm tai, bắt một con đỉa
làm vòi. Thành ra con voi bằng đất sét biết đi, biết vẫy tai và
co vòi lên xuống.
Lúc đó một vị quan đang cưỡi ngựa đi qua thấy lạ liền dừng ngựa
lại xem. Sau khi hỏi Công Duệ một vài câu, thấy Công Duệ đối đáp
trôi chảy chứng tỏ là một đứa bé có học và thông minh nên vị
quan muốn thử tài mới bảo:
- Mày đã đi học rồi, vậy ta ra cho câu đối, nếu mày đối được ta
sẽ thưởng tiền cho.
Công Duệ đồng ý và vị quan ra câu đối như sau:
Đồng tử lục thất nhân, vô như nhĩ sảo
(Trẻ nít sáu bảy đứa, không ai hơn mày khéo)
Trước khi đối, Công Duệ hỏi vị quan:
- Thế ông là gì đã?
Vị quan trả lời:
-
Ta là Lang Trung, mỗi tháng lãnh hai ngàn thạch lúa.
Quan nói xong, Công Duệ liền ứng khẩu đối:
Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công...
(Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông...)
Nghe Công Duệ đối như thế, vị quan ngạc nhiên mới hỏi:
-
Tại sao mày đối thiếu một chữ?
Cậu bé Công Duệ mỉm cười, trả lời một cách hóm hỉnh:
- Còn một chữ nữa tôi để dành, hễ quan lớn thưởng tiền thật thì
tôi đối là “Liêm”, bằng không thì tôi đối là “Tham”.
Vị quan nghe nói phải phục tài bèn móc túi lấy tiền thưởng cho
cậu bé Công Duệ để lấy được chữ “Liêm”, nên câu đối
thành:
Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm.
(Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông liêm)
“Nói láo” qua thi phú
«Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều
không đúng sự thật, và nói láo là một sự xấu.
Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo
luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang
tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn
chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội
mà còn được nhà vua ban thưởng như giai thọai sau đây:
Số là, ông Đinh Nhật Thận hiệu Bạch Mao Am, sinh năm 1815, và
mất năm 1860, người làng Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh
Nghệ An. Ông thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ
19, tức vào năm 1838 dương lịch. Ông được bổ làm quan ít lâu thì
chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy
học và bốc thuốc.
Ông Đinh Nhật Thận là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát,
vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình
nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không
có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở
lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo
ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân lúc vua và các quan
đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu: “Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất
hiếu” (Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung; cha khiến
con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý
mà mọi người phải theo.
Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:
- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết
đi, khanh có làm
không?
Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì
không nhảy thì mang
tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông
vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông
Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an
giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời
tài hoa không tội lỗi...
Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu
lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất
Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như
sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
còn người gặp vì vua sáng suốt cớ sao lại chết đuối?)
thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền,
lấy quần áo cho thay, rồi
đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài
ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa
đặt, tức là nói láo.
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan
phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không
làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm
phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói
láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn
phục và vẫn có thiện cảm!
Dùng
truyện
Kiều điều khiển trâu
Giai thoại truyền tụng rằng có anh thư sinh nọ quanh năm học ở
tỉnh thành, nhân dịp năm cũ sắp hết được nghỉ học nên về quê ăn
Tết. Đi qua một cánh đồng thấy mấy cô thôn nữ đang cho trâu ăn
vừa cười đùa vui vẻ, chàng thư sinh liền tẻ vào đến làm quen.
Thấy anh chàng thư sinh lững thững tiến đến, một cô trong bọn
liền ngâm một câu Kiều:
“Trông chừng thấy một văn nhân...”
Rồi cô bỏ lửng, chàng thư sinh hí hửng, vuốt vạt áo the đứng
ngóng nghe câu tiếp theo. Chợt một cô khác cất giọng:
“Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Tưởng mình được mấy cô ví là Kim Trọng không dè các cô cắc cớ
lại ví mình với Mã Giám Sinh nên anh ta vừa thẹn vừa tức. Tuy
nhiên thấy các cô xinh xinh lại ngâm Kiều mà Kiều là sở trường
của mình, anh chàng liền lên mặt thách thức:
- Chà, các cô thuộc truyện Kiều lắm đấy nhỉ?
Một cô nhanh nhẩu đáp:
- Chúng em quê mùa, ít học đâu dám khoe tài. Còn anh chắc giỏi
Kiều lắm nên mới hỏi thế chứ gì? Vậy nhờ anh đọc một câu Kiều
bảo con trâu đang đi ở chỗ kia đứng lại dùm tụi em xem nào.
Chàng thư sinh hơi chột dạ, tự nhủ: “Chết chửa, xưa nay mình có
dùng Kiều để điều khiển trâu bao giờ đâu?” Tuy thế anh ta cũng
tìm được hai câu Kiều và tin chắc rằng sẽ điều khiển con trâu
đứng lại nên anh chàng mạnh dạn đọc:
“Tần ngần “đứng” suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.”
Anh ta cố ý đọc to chữ “đứng” để con trâu đứng lại nhưng
con trâu vẫn lững thững bước đi khiến các cô cười ầm. Tưởng con
trâu chưa nghe, anh lại đọc hai câu khác:
“Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn “đứng” giữa trời trơ trơ”
Lần này anh thư sinh hét to chữ “đứng” nhưng con trâu vẫn
tiếp tục đi.
Một cô liền nói:
- Thôi, anh chả bảo nó được đâu, để em bảo dùm cho. Đoạn cô
ngâm:
“Họ”
Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.”
Cô đọc to và kéo dài chữ “Họ”, quả nhiên con trâu đứng
lại ngay. Kế đó, một cô khác lại
thách:
- Bây giờ đố anh bảo con trâu đi rẽ sang phải đấy?
Bị “xệ” quá, muốn gỡ thẹn, anh thư sinh liền đọc luôn:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng “đi” thiếp cũng một lòng xin “đi”.
Chàng thư sinh nhấn mạnh hai tiếng “đi”, con trâu đi thật
nhưng lại đủng đỉnh đi thẳng chứ không rẽ bên phải. Anh ta bèn
chạy theo con trâu đọc lại lần nữa như nó cũng cứ đi thẳng.
Chợt nhớ ra một câu khác, tin chắc lần này thế nào cũng có kết
quả, anh chàng dõng dạc ngâm:
“Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Chàng ta cố ý kéo dài chữ “rẽ”, nhưng con trâu vẫn chậm
rãi đi thẳng khiến các cô lại ôm bụng cười một lần nữa. Anh
chàng tiu nghỉu, thẹn tím cả mặt. Bấy giờ một cô trong bọn mới
cất giọng ngâm:
“Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong “vắt” thấy gì nữa đâu.”
Cô nhấn mạnh chữ “vắt”, quả nhiên con trâu ngoan ngoản rẽ
sang bên phải. Tiếng “họ” và tiếng “vắt” là những
tiếng mà người miền quê dùng để điều khiển trâu bò, “họ”
là đứng lại,
còn “vắt” là rẽ sang phải.
Lê Thương
Richmond - Virginia