Nhật ký Dharamsala
Phần 1: Về tu viện Sera Mey
Lời tác giả:
Đây là một cuốn nhật ký, ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn độ để
học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành
hương các Phật tích tại Ấn, đã tháp tùng theo, nhưng không phải để
theo phái đoàn đi hành hương mà là để đi về Dharamsala, nơi trú ngụ
của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện giờ để tu học.
Nhật ký không những ghi chép lại cuộc hành trình mà còn ghi lại
những cảm tưởng của tác giả, những điều mắt thấy tai nghe trên đường
đi… “Đi một ngày đàng học một sàng khôn…”
Vì là một Nhật ký, mà muốn viết một Nhật ký cho hay thì khá khó, bởi
vì đã là Nhật ký thì phải là: "Có sao nói vậy....và thấy sao chép
lại y như vậy...". Kể chuyện thực... cho nên khó có tình tiết ly kỳ,
đọc dễ thấy.... nhàm chán.
Nhưng mà ghi lại để "ôn cố tri tân", cuộc đời, đôi khi có những ngã
rẽ bất ngờ, hai mươi năm sau, nhìn lại, thấy tất cả như một giấc
mơ.... chỉ còn cái tình…, thí dụ như tình thày trò.
Và nhất là phải ghi ngay lại khi trí óc còn mới, còn sống động trong
sự việc... để lâu ngày thì e rằng sẽ như bài hát ”Phôi pha” của
Trịnh Công Sơn.
Âu cũng là nhân duyên và nghiệp quả...của tác giả.
Bài viết Nhật ký, khó mà tránh khỏi sự trình bày những cảm nghĩ
riêng tư của tác giả, vậy cho nên xin các độc giả châm chước cho
những điều sai lệch trong bài.
Trân trọng,
Không Quán.
1. Cảm nghĩ trước khi đi
Thực tình mà nói, tôi đã cố tình đi tìm về chuyến đi học đạo này.
Bởi vì tôi đã cảm thấy một sự chín mùi trong tâm thức nhàm chán đời
sống thế gian, nhàm chán những chuyện thế sự thăng trầm.
Tôi vẫn thường đọc thầm trong đầu bài thơ Ngán đời của Cao Bá Quát,
và trong lòng chỉ muốn rút lui ra khỏi chuyện thế sự ta bà.
Ngán đời
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn (1)
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt (2)
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu (3)
Gõ nhịp lấy, đọc câu "Tương Tiến Tửu" (4)
"Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai,
bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (5)
Làm chi cho mệt một đời!
Cao Bá Quát
Chú thích
(1) Hai câu thơ chữ Hán này nghĩa là: Việc đời thăng trầm, bạn đừng
hỏi làm gì. Hãy nhìn ra ngoài khơi khói sóng xa thẳm kia, chỉ thấy
chiếc thuyền ngư phủ.
(2) Hai câu này trích từ bài phú Tiền Xích Bích của Tô Ðông Pha,
nghĩa là: chỉ còn có gió mát ở trên sông, cùng trăng sáng trong động
núi.
(3) Lâm tẩu: rừng và nội cỏ.
(4) Nhan đề của một bài ca của Lý Bạch, nghĩa là Mời Uống Rượu.
(5) Bạn có thấy nước sông Hoàng Hà, từ trên trời chảy tuôn xuống
biển không hề quay trở lại. Ý nói đời người, thời gian qua đi thì
không trở lại. Đó là câu đầu của bài Tương tiến tửu.
Đã từ mấy năm nay, tôi chủ trương sống cuộc đời ẩn dật, rút lui khỏi
chuyện thế sự. Đối với bao nhiêu bạn bè, tôi đều từ chối tham gia
những buổi họp mặt vui chơi. Chỉ trừ khi bạn bè yêu cầu tham dự các
buổi trình diễn giúp vui cho cộng đồng, hoặc những hoạt động từ
thiện tôi mới tham dự.
Một lần, một ông bạn già trong nhóm tam ca mà tôi là thành viên tha
thiết mời tôi tham dự đám cưới của con trai ông ta, tôi từ chối và
không đi. Ông bạn nói: để mai mốt con gái anh làm đám cưới chúng
tôi còn đi chung vui với anh. Tôi cười nói: nếu cháu có làm
đám cưới thì tôi cũng chẳng biết là sẽ có được phép mời các bạn bè
không. Hay là chúng nó chỉ ra Tòa thị sảnh ký tên và đi hưởng tuần
trăng mật riêng của hai đứa là xong, chẳng chắc là chính tôi có sẽ
được mời đi ăn cưới hay không nữa. Cho nên xin anh đừng buồn và chấp
làm gì. Ông bạn tôi không còn ý kiến gì nổi.
Một lần, một người bạn khác bảo tôi: Tôi thành thật khuyên anh
đừng sống quá lập dị và không giống ai. Tôi chỉ cười.
Trong thâm tâm, tôi chán ngán những buổi xã giao và tiệc tùng, nhất
là đám cưới, đôi khi ngồi tại một bàn ăn chẳng quen thân gì những
người cùng bàn, phải cười nói vỗ tay, tôi cảm thấy quá mất thì giờ
và ngán ngẩm. Tôi thích trầm lặng ngồi viết vài ba câu thơ hay là
một đoản văn, hoặc vào phòng thờ tụng kinh, tọa thiền hơn rất nhiều
những xã giao bon chen trong sự giao tiếp của đời sống. Phải ngồi
chịu trận nghe những lời khoe khoang kín đáo về gia đình con cái hay
thương mại thành đạt.... Ngày xưa, khi tôi còn tham dự những buổi
tiệc ấy, thường là chấm dứt rất khuya, mỗi lần đi là mỗi lần tôi về
nhà dằn vặt mình với câu hỏi: ta đã làm gì cho đời ta, đánh mất
chính mình trong những ta bà thị phi của thế sự? Cho đến khi tôi
phải nói một lời xin lỗi với các bạn bè, xin đừng mời tôi tham dự vì
không thấy thích hợp.
Lâu dần bạn bè không còn thấy lạ và để tôi yên trong những trầm tư
riêng của mình về cuộc đời. Từ đó, tôi xa lánh dần chuyện thế sự.
Dĩ nhiên là tôi cảm thấy sung sướng trong cuộc sống rút lui ấy. Thì
giờ, tôi để hết vào việc hành trì và viết sách Phật hoặc dịch kinh
Phật, cũng như làm thơ đạo. Tôi chủ trương thuần túy là văn dĩ tải
đạo. Và nếu tôi không được học đạo thì có lẽ tôi chẳng sáng tác được
gì. Vì tất cả các nguồn cảm hứng của tôi đều đến từ những suy tư và
thiền quán về đạo.
Nhưng vào cuối năm 2007, chùa nơi tôi đến hành trì tổ chức một
chuyến đi hành hương các thánh tích của Phật giáo. Tôi chưa được đi
đến những nơi đó bao giờ và đương nhiên là tôi rất thích đi. Nhưng
khi chương trình đi hành hương được in ra thì tôi hỡi ôi cảm thấy
thất vọng: vì lý do là giá của chuyến đi hành hương quá cao với tôi.
Ước lượng sơ khởi của chuyến đi là 5000$ chưa kể vé máy bay từ Bắc
Mỹ về Ấn độ. Ngày đó, khi đọc tờ chương trình và ước định giá, tôi
thầm nghĩ, giá như số tiền này dành để cúng dường Đức Đạt Lai Lạt
Ma, để ngài dùng trong việc đào tạo chư tăng, hoặc là cúng dường chư
tăng để dùng trong việc kiết hạ (1) mỗi năm tại Bồ Đề Đạo Tràng. Rồi
sau mấy ngày suy tư mà không quyết định được gì cả, tôi bèn liên lạc
với vị bổn sư và thưa với ngài về nỗi băn khoăn của tôi. Ngài cười
ha hả trong điện thọai vào bảo tôi rằng: "được, con hãy theo ta
về cúng dường chư tăng tại Dharamsala trong kỳ thuyết pháp của Đức
Đạt Lai Lạt Ma và nhân tiện ở lại Dharamsala học đạo luôn trong một
tháng". Và nhất là khi ngài nói thêm: "kỳ này ta sẽ dẫn con
về Dharamsala như là một tăng sĩ". Bởi vì tôi mang trong người
một chứng bệnh trầm kha là bệnh vảy nến (2), bệnh di truyền từ cha
tôi, người cũng đã từng mắc bệnh này khi còn trẻ. Bệnh của tôi nặng
lắm và không có thuốc gì chữa được. Nhà thương phải gửi tôi vào một
trung tâm Nghiên cứu chữa bệnh bằng tia cực tím (3), cho nên tôi đã
phải cạo đầu từ 4 tháng nay để chiếu tia cực tím trên toàn châu thân
chữa bệnh, và vì vậy, thày bổn sư đã thấy tôi giống như là một tăng
sĩ.
Trời đất, tôi thầm nghĩ, được theo vị bổn sư đi về nơi đất thánh
Dharamsala, nơi thiết lập của chính phủ ly hương Tây tạng, nơi trú
ngụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma và được học đạo, và nhất là sẽ theo thày
về như là một tăng sĩ, còn ước nguyện nào bằng. Tôi hoan hỷ đi mua
vé máy bay sửa soạn theo ngài về vùng đất thánh Dharamsala.
Ngày lên máy bay, tôi cảm thấy nao nao trong dạ. Tôi ôm ấp trong tâm
một cái cảm giác của một thiếu nữ từ giã gia đình, xuất giá tòng phu
lên xe hoa về nhà chồng, hay đúng hơn tôi mang cái cảm giác của một
người sắp sửa xuất gia, xuống tóc để vào trong chùa làm tỳ kheo. Cái
cảm giác nao nao trong dạ, mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất
rõ.
Để tránh phiền nhiễu ở nơi đất lạ, chương trình của tôi là đi theo
phái đoàn hành hương về tu viện Sera Mey, nơi vị bổn sư của tôi làm
viện trưởng và từ đó sẽ theo ngài để đi về Dharamsala học đạo, chứ
không đi theo phái đoàn đi hành hương. Tiền tiết kiệm được nhờ không
đi hành hương, tôi sẽ nhờ vị bổn sư mang về cúng dường Đức Đạt Lai
Lạt Ma, hoặc là cúng dường chư tăng an cư kiết hạ tại Dharamsala.
Máy bay hạ cánh tại phi trường Bangalore lúc 1.50 rạng ngày 12 tháng
2, 2008. Khi lấy được hành lý và chờ tất cả mọi người đến đầy đủ thì
đã gần 3 giờ sáng và phái đoàn đi về khách sạn nghỉ ngơi tại
Bangalore để đến chiều hôm đó, thuê xe buýt đi về tu viện Sera Mey.
Tại Bangalore, hai thày geshe Chopel và Phuntsok dẫn chúng tôi đi
đổi tiền. Khi đi ngang các đường phố chính của Bangalore, cũng như
đi ngang khách sạn và quán ăn quen thuộc trong lần ghé về tu viện
Sera Mey năm 2002 để dự lễ khánh thành Đại Hùng Bảo Điện mới, và
được thày đương kim viện trưởng (4) Lobsang Jamyang dẫn đi chơi tại
Bangalore, tim tôi cảm thấy thật là bồi hồi và nghe tim thắt lại.
Mới đây mà đã 6 năm qua đi. Tôi bây giờ đã thay đổi hình dạng rất
nhiều so với 6 năm trước vì mắc bệnh “Tự thể miễn dịch tính”
(auto-immune disease). Nhưng đường xá và khách sạn tôi đến ở lần
trước chung với thày viện trưởng còn y nguyên, lòng cảm khái dâng
trào trong tâm vì cảm nhận sự chóng vánh vô thường của đời người.
Điều thật lạ lùng là lần năm 2002 đó, tôi đã mắc bệnh nan y này rất
nặng mà không biết, nhưng trong suốt thời gian đi thăm tu viện Sera
Mey, tu viện Ganden va Dreypung, bệnh hoàn toàn không hề phát tác.
Cho đến ngày tôi bước chân xuống may bay về đến nhà, và hôm sau thì
bệnh phát tác ngay lập tức, làm tôi ngã quỵ trên chuyến xe buýt trên
đường đi làm và phải đưa cấp tốc vào nhà thương chữa trị. Thế mới
biết là thần lực hộ trì của Tam Bảo không phải là chuyện nhỏ.
Chuyến xe buýt khởi hành sau bữa ăn trưa và mãi đến 7 giờ tối mới
đến thành phố gần tu viện Sera gọi là Kushinagar. Vì luật của tu
viện không cho phép phụ nữ trú ngụ lại ban đêm cho nên phái đoàn
thuê khách sạn cho các vị phụ nữ tại Kushinagar, và sau đó cùng nhau
vào tu viện thăm thày viện trưởng. Ba người đàn ông trong phái đoàn
trong đó có tôi sẽ được phép ngủ lại tu viện trong các phòng của khu
nhà Chungpa.
Thày viện trưởng tiếp đãi chúng tôi thật là nồng hậu. Sau phần trao
khăn trắng (khata) ban phép lành, chúng tôi được dùng bữa cơm tối
thật ngon miệng với ngài. Thày dặn dò chúng tôi đủ mọi điều, và sau
đó phái nam được cho phòng nghỉ ngơi, còn các phụ nữ thì phải quay
trở lại khách sạn tại Kushinagar để ngủ qua đêm.
2. Ngày 13 tháng 2, 2008
Sau một đêm ngủ và nghỉ ngơi thật thoải mái, hôm sau, tôi thiền tọa
vào sáng sớm và cảm nhận thật rõ ràng sự gia hộ của giòng chư tổ
truyền thống Giới đức (5). Ngồi thiền tại Sera Mey thật là an lạc
trong sự hộ trì, được cảm nhận từ tầng lớp sâu thẳm của tâm thức:
niềm hỷ lạc thật là sâu đậm và nhẹ nhàng, tâm thức an bình trong
thiền duyệt (6), lìa xa thế sự, thị phi của cuộc đời. Thời tiết thật
dễ chịu, tuy hơi lành lạnh vào sáng sớm, nhưng vẫn còn khá ấm áp.

Hình 1: Đại Hùng Bảo Điện Sera Mey (New Prayer Hall) mới được khánh
thành năm 2002.
Tu viện Sera được chia làm hai phần: Sera Mey khoảng 2000 tăng và
Sera Je khoảng 2500 tăng. Điều huyền diệu nhất là chu vi tu viện
Sera (Mey và Je) bao gồm khoảng vài ba cây số vuông. Trong đó có
tổng cộng 4500 nam tăng sĩ ở rải rác trong các căn nhà (7) lớn nhỏ.
Khi ra đường những ngày lễ lớn, chúng ta sẽ thấy 4500 vị tăng sĩ tụ
hợp về chánh điện để làm lễ. Toàn một màu áo tu đỏ tràn ngập đường
xá mà không hề có một bóng dáng một ông cảnh sát đeo dùi cui, súng
ống nào cả. Cảnh tượng những con đường tràn ngập áo tu màu đỏ đã để
lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. Không hề có chuyện tranh
chấp đánh nhau hay cãi nhau. Chư tăng sống rất an hòa và dễ thương,
hiếu khách. Nhưng chưa kịp xả cữ thiền tọa buổi sáng thì chư vị phái
nữ trong phái đoàn đã quay trở lại tu viện và cười nói vui vẻ ồn ào.
Chúng tôi dùng bữa ăn sáng xong là đi đến Đại Hùng Bảo Điện ngay vào
lúc 8 giờ sáng để dâng lễ trường thọ cho thày cựu viện trưởng
Ngawang Thetchok. Ngài là thày của thày đương kim viện trưởng. Trong
buồi lễ, chư tăng và chúng tôi cầu nguyện Lễ cúng dường đức Bổn Sư
(8). Buổi lễ thật là cảm động và sau đó chúng tôi lên dâng khăn và
cúng dường thày cựu viện trưởng. Ngài nhận ra phái đoàn chúng tôi và
rất là hoan hỷ.
Thày cựu viện trưởng Ngawang Thetchok là một cao tăng hiếm có. Ngài
là một tăng sĩ nghiêm túc, và với tôi, ngài là một thần tăng. Người
Đài Loan biết rất nhiều câu chuyện kể lại về những thần thông của
ngài. Ngài có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đối với người Đài Loan,
trong khi thày đương kim viện trưởng lại có ảnh hưởng sâu sắc và
mạnh mẽ đối với cộng đồng người Việt tại Bắc Mỹ, kể cả Canada, và
nhất là vùng Orange County và San Jose tại California.
Hình
2: Chư tăng ra về sau buổi lễ cúng dường (tay còn cầm lộc Phật).
Tôi ngồi nhớ lại câu chuyện kỳ lạ sau: năm 2003, tôi có qua
Wesminter, vùng Orange County sửa chữa và xây cất cho thày đương kim
viện trưởng ngôi chùa tên là Geden Shoeling (9). Chùa hoàn tất theo
ý thày hai tháng sau đó. Nhờ thế, tôi quen nhiều bạn đạo ở tại đó và
thường liên lạc với nhau khi có tin tức gì, hay là giúp họ dịch kinh
sách v.v…Một hôm, tôi nhận được điện thư của một vị bạn đạo kể
chuyện lạ. Chuyện này cũng xảy ra mới đây vào tháng 11 năm 2007
thôi. Lá thư như sau:
Sáng nay em đi nghe Khen Rinpoche (10) thuyết pháp về Bát Nhã Tâm
Kinh. Thày giảng rất hay và rất kỹ. Vẫn theo thường lệ, sau buổi
giảng thì mọi người lên dâng khăn, cúng dường và thọ phép lành của
thày. Em cũng nối đuôi để lên dâng khăn. Đến lượt một chị Phật tử
kia, (chị này, thỉnh thoảng em cũng thấy chị tham dự buổi thính pháp
một vài lần, trông cũng khá lớn tuổi, mắt, mũi sửa chữa tùm lum nên
trông không được tự nhiên cho lắm). Khi chị lên dâng khăn và thày ôm
lấy đầu chị để ban phép lành hộ trì thì chị bật khóc. Người run lên
bần bật, chị loạng choạng bước né qua một bên để nhường cho người
khác lên dâng khăn. Nhưng chị vẫn khóc, gần như là đi không muốn nổi
nữa. Mọi người phải dìu chị đi xuống cuối phòng. Mọi người cứ nghe
chị nói lảm nhảm cái gì khong rõ và cứ khóc mãi. Sau khi người cuối
cùng lên dâng khăn, cúng dường, thì thày ra lệnh (trông lúc đó mặt
thày nghiêm làm em sợ lắm). Thày bảo đem cái chị kia lên đây. Chị đó
run tới qụy cả chân, phải 2 người dìu hai bên chị mới đi nổi, vừa
đi, vừa khóc, vừa lảm nhảm eo éo nói gì đó mà không ai nghe rõ. Lên
chỗ thày, chị không còn quỳ được nữa mà ngồi phệt xuống đất, người
cứ run lên bần bật, ré lên khóc rõ to. Thày Khen Rinpoche và thày
Norbu bắt dầu tụng kinh gì đó mà em không biết. Tụng rất to, em có
cảm tưởng từng câu tụng là từng cơn bão có lực rất mạnh hất vào
người chị...Tụng khoảng 5 phút thì cả hai thày đều vỗ hai bàn tay
vào nhau mấy cái. Chị kia hét lên một tiếng rồi ngã ngửa lên sàn.
Hai tay chị dơ lên khỏi đầu. Chị hổn hển nói "Nam mô A Di Đà Phật"
rồi khóc rức lên. Lần này em nghe tiếng nói của chị khác với cái
tiếng nói trước khi chị bị ngã. Xong thày Khen Rinpoche tụng thêm
một ít nữa rồi đứng lên lấy tấm áo choàng mầu vàng của mình quất lên
người chị kia mấy cái và nói lớn "NO TALK!!" "STOP!".
Tất cả mọi người trong chánh điện đều vẫn tiếp tục niệm câu bát nhã
tâm kinh: "Tayatha, Gate, Gate..." trong khi Khen Rinpoche bước ra
khỏi chánh điện.
Đây là lần đầu tiên em thấy thày trừ ma. Trông thày nghiêm lắm. Sau
đó, em có vào phòng chào thày, Lisa (là người thông dịch ra tiếng
Việt) vào sau, hỏi thày, chị kia bị sao thế thày? Chị ấy có ok
không? Thày bình tĩnh như không có gì, và bảo, bà ta không sao cả,
mọi sự xong rồi. Don't worry. Lisa tò mò hỏi tiếp, có phải bà ta bị
ma nhập không? Thày trả lời: Thì đại khái là như vậy, nhưng bây giờ
thì không sao cả
Em nghe xong cũng hú hồn!
(Trước khi viết về câu chuyện này, tôi cũng khá đắn đo suy nghĩ nên
hay không nên viết ra... Vì bản thân của tôi vốn không thích mê tín.
Nhưng vì dù tôi có thích hay không, thì đó cũng là một sự thật đến
từ chư vị cao tăng, và viết ra trong ý hướng tỏ lòng kính trọng đến
chư vị, một đời hoằng hóa cứu độ chúng sinh, và mình không thể không
cảm nhận thấy chư vị làm mọi thứ giúp đời hoẳng hóa độ sinh mà không
hề có mảy may suy nghĩ, hay cho là mình có gì đặc biệt hơn người,
chư vị làm những kỳ tích xong là xả bỏ ra khỏi tâm, không hề dính
mắc).
Đời sống chư tăng trong tu viện khá nghiêm ngặt và chặt chẽ. Trừ
những ngày lễ chư tăng được nghỉ ngơi như là Tết Tây tạng (Losar),
chư tăng được theo học một chương trình huấn luyện kỹ lưỡng. Sáng
thường thức dậy vào lúc 5 giờ và làm vệ sinh cá nhân xong là nghe
tiếng kèn lớn, tiếng rất trầm, (Tạng ngữ gọi là Radong) báo hiệu là
lúc phải vân tập tại Chánh điện để hành lễ và cầu nguyện (kinh nào
thì tùy theo hôm). Sau đó 7 giờ sáng thì dùng điểm tâm cho đến 9 giờ
thì chư tăng sẽ tụ hợp để luận đạo (debate), đây là lúc mỗi vị sẽ
phải mang hết sở trường học đạo của mình để tranh luận và đào sâu đề
tài đã học. Cách luận đạo như vậy giúp cho chư tăng nhuần nhuyễn sở
học của mình. Sau đó là ăn trưa và nghỉ ngơi đến 2 giờ chiều. Sau
đó, chư tăng theo học các lớp học chung hoặc là theo học lớp riêng
với vị bổn sư của mình. Sau đó là bữa cơm tối, và từ 9 giờ tối trở
đi, chư tăng sẽ tiếp tục họp nhau luận đạo đến 11 giời tối mới đi
ngủ, để sáng hôm sau thức dậy từ 5 giờ sáng tiếp tục một ngày mới
trong tu viện. Ngày tôi đến tu viện thì chư tăng vẫn còn trong dịp
nghỉ Tết Tây tạng. Nhưng tôi vẫn cố gắng theo thời khóa biểu mà chư
tăng thường theo, mong là mình gieo duyên để đời sau được tu học
trong dòng truyền thừa. Các bộ môn nằm trong chương trình tu học là
luận đạo bao gồm Ngũ Đại Luận (11):
1. Lượng học: môn học về Biện chứng pháp của Phật giáo và Nhận thức
luận, bao gồm cả các luận thuyết ngoại đạo.
2. Bát nhã ba la mật: bao gồm các bộ Đại Bát Nhã Luận và các hành
trì của Bồ tát đạo (như Lục độ ba la mật).
3. Trung quán luận và Tánh không.
4. A tỳ đàm Câu xá luận: là bộ luận lớn bao gồm vũ trụ quan, siêu
hình học và hiện tượng luận.
5. Luật: là những giới luật và kỷ luật trong tu viện.
Lần này, phái đoàn người Đài Loan về tham dự khá đông. Trong buổi ăn
trưa chung, tôi nhận thấy mỗi người nâng niu cầm trên tay một cuốn
sách, họ có vẻ rất là quý cuốn sách. Tôi bập bẹ vài câu tiếng phổ
thông và hỏi họ về cuốn sách mới bi ết ra là họ vừa mới xuất bản
cuốn này, viết tiểu sử và cuộc đời của thầy cựu viện trưởng Ngawang
Thetchok. Tôi cũng xin họ một cuốn, mặc dù sách viết bằng Tạng ngữ
và tôi không hiểu, nhưng vì lòng kính trọng thầy cựu viện trưởng,
tôi vẫn xin một cuốn mang về để trên bàn thờ.
Buổi tối sau thời cơm chung, chúng tôi lại chia tay giã từ các vị
phụ nữ đi về khách sạn. Còn tôi quay về phòng hành trì thời công phu
Tối thượng Du già thiền quán và sau đó đi vào trong giấc ngủ an bình
trong sự gia hộ của chư thiên nữ.
3. Ngày 14 tháng 2, 2008
Sáng sớm hôm sau, tôi vẫn theo thường lệ thức dậy từ 6 giờ sáng hành
trì. Trong kỳ thiền tọa này, tôi cảm nhận rõ ràng hơn sự gia hộ của
giòng Giới đức, đặc biệt là cảm nhận sự gia hộ của chư bổn sư trong
tu viện Sera. Tôi thiền quán trong niềm an lạc và ấm áp gần gũi với
chư vị bổn sư của tu viện, cảm nhận sự che chở độ trì đến từ chư vị
thẳng vào tim mình, làm cho tôi sung sướng trong sự hành trì, yên
lòng tinh tấn thiền định và biết chắc chắn là tôi sẽ đi về đâu trong
sự hành trì ấy. Xả thiền xong, tôi đi kiếm ly cà phê ngồi nhâm nhi
trong buổi sáng tinh sương, chờ các vị trong phái đoàn trở lại ăn
sáng. Nhưng ngay lúc trong buổi sáng sớm ấy, tôi nhìn thấy thày phụ
tá viện trưởng Geshe Rabga đi ra ngoài phòng, ngang chỗ tôi ngồi,
tôi vội vàng qùy xuống đảnh lễ ngài. Ở tu viện Sera, ngài nổi tiếng
là vị tăng sĩ hiền từ nhân hậu, quỳ bên ngài, tôi cảm nhận sự từ bi
toát ra từ ngài. Ngài không biết tiếng anh, nên không nói gì, chỉ vỗ
vỗ vào đầu và vuốt má tôi. Và sau đó khi ngài quay trở về phòng, tôi
vội vã chạy về phòng mình lấy tiền bỏ vào phong bì để cúng dường
ngài.
Khi bước ra ngoài thì các vị trong phái đoàn đã đến, chúng tôi sửa
soạn ăn sáng. Thày geshe trưởng phái đoàn thông báo là hôm nay phái
đoàn sẽ đi tham quan hai tu viện Sera Mey và Je. Vì tôi đã đi thăm
cả hai tu viện rất kỹ năm 2002, nên tôi thưa với thày xin được nghỉ
ngơi một hôm, nhưng cốt là để có thì giờ đến phòng thày phụ tá viện
trưởng cúng dường và sau đó đến vấn an thày viện trưởng.
Trong chuyến đi này, tôi có mang theo một bức họa thangka vẽ hình
Phật Dược Sư mà một anh trong phái đoàn khi còn ở Montreal đã tặng
cho tôi năm ngoái. Anh kể lại là trong chuyến đi chơi Thượng Hải,
anh đã gặp một người Trung hoa ở tại đó bám lấy anh và dụ anh mua
bức họa này. Anh không cầm lòng được và đã mua mang về tặng cho tôi
bởi vì anh nói là tôi xứng đáng giữ bức đó. Lý do, anh nói, là vì
tôi đã bỏ một năm trời ra dịch cuốn kinh Lễ cúng dường Phật Dược Sư
trong Mật tông. Hồi đó, khi tôi cầm bức họa ấy mang về nhà xem thì
tôi bỗng giật mình: bức họa trông rất cổ kính và còn mang các vết
khâu kim vì người bán đã cắt ra khỏi bức thangka bằng gấm chung
quanh. Có vẻ như là người Trung hoa đã ăn cắp bức họa cổ này từ một
tu viện Tây tạng, đằng sau bức họa bằng vải ấy còn mang dấu son đỏ
chói của một bàn tay, có lẽ là bàn tay của vị nghệ sĩ đã họa bức ấy
và đóng dấu của mình lên trên. Tôi hơi ngại, bèn mang về tu viện
Sera nhờ thày viện trưởng thẩm định giá trị của bức họa. Nếu là bức
họa cổ thực sự, có lẽ sẽ phải nhờ thầy dâng cho đức Dalai Lama để
trao trả lại cho dân tộc Tây tạng. Còn không thì cũng nhờ thày cho
khâu lại các bờ chung quanh bằng gấm, làm thành một bức thangka
nguyên thủy để treo trên chùa.
Sáng hôm đó tôi trình bức họa lên ngài viện trưởng và thày bảo với
tôi đó chỉ là một bức vẽ nhái lại, tuy cổ, nhưng không phải là bức
nguyên thủy cho nên ngài sẽ nhờ chư tăng khâu lại bằng gấm chung
quanh để mang về Montreal. Tôi cũng mừng là không phải đồ ăn cắp của
Tam Bảo.
(Xem tiếp Phần 2: Cuộc hành trình về Dharamsala)
Chú thích:
1. Tạng ngữ gọi là Monlam Chen Mo.
2. Psoriasis
3. UVB treatment.
4. Chữ đương kim viện trưởng Tạng ngữ là Khen Rinpoche.
5. Gelugpa – Hoàng mạo phái, do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo.
6. Là niềm vui sướng của thiền định.
7. Nhà lớn tiếng Tạng ngữ gọi là Khangtsen, nhà nhỏ gọi là Labrang.
8. Guru Puja (bản dịch của người viết Nhật ký dưới pháp danh là Chân
Giác và dịch chung với Diệu Hạnh Giao Trinh).
9. Chùa này dịch tên nghĩa là Vùng Đất Tịnh Lạc – tên do Đức Đạt Lai
Lạt Ma đặt cho.
10. Là thày đương kim viện trưởng.
11. Ngũ đại luận bao gồm:
1. Lượng học: Pramana, the Buddhist logic and epistemology (valid
cognition) including the studies of many non-Buddhist thoughts.
2. Bát nhã ba la mật: Prajnaparmitas which include voluminous texts
of Bodhisattva practices such as the study of six perfections.
3. Trung quán luận và Tánh không: Madhyamika, the study of Buddhist
middle views, Sunyatavada..
4. A tỳ đàm Câu xá luận: Abhidharmakosa, the Buddhist metaphysics.
Từ ngữ metaphysics (tiếng Hy lạp, meta=siêu, physics=hình học) bao
gồm các phần: 1. vũ trụ luận (cosmology) và 2. Hiện tượng luận
(ontology).
5. Luật: Vinaya, monastic rules and disciplines.
|