Nhật ký Dharamsala
Phần 4: Tu học tại Dharamsala (tiếp theo)
12. Ngày 23 tháng 2, 2008
Qua kinh nghiệm thiền định hôm qua, sáng nay tôi tiếp tục giậy sớm
để hành thiền. Niềm an lạc tiếp tục tăng trưởng trong những giây
phút thiền định vào khi tất cả chung quanh thật là yên tĩnh. Nhưng
hôm nay, trong niềm an bình của tâm lại khởi lên một niềm cô đơn,
nhưng lại hòa chung với cảm giác vô cùng hạnh phúc. Một điều trực
ngộ sáng nay vừa nở ra trong tâm: tôi chợt hiểu tại sao một hành giả
cần phải sống đời sống phạm hạnh. Dĩ nhiên là sống phạm hạnh thì
giới sắc. Nhưng giới sắc chẳng phải phải là điều chính yếu, mà ở
đây, chuyện chính yếu là phải sống trong niềm cô đơn an tĩnh. Chính
là nhờ sống trong niềm cô đơn an tĩnh, hành giả mới trực ngộ được
những điều quan trọng qua sự hành trì tĩnh tâm: chỉ khi nào mình đi
một mình trên con đường hành trì, thiếu thốn tất cả, từ các tiện
nghi, ăn uống, cho đến thiếu thốn cả những
tình cảm, những sự chia sẻ tâm hồn, và thực sự đơn độc, thì niềm cô
đơn và an tĩnh ấy mới un đúc, mới kết tinh lại và nở ra thành đóa
hoa của sự trực ngộ thẳng vào bản tánh sự vật, bản tánh của chân
tâm. Điều này chúng ta khó có thể làm được khi chúng ta sồng đầy đủ
dư thừa quá, dư thừa từ thức ăn cho đến dư thừa tình cảm. Chỉ khi
nào chúng ta cảm thấy ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, nghĩa là cảm
nhận một chút về đói lạnh, bụng trống rỗng nhẹ hẫng và hoàn toàn cô
đơn an tĩnh thì chúng ta mới có thể thực sự định tâm trong an tĩnh.
Khó nhất là khi chúng ta sống đời sống lứa đôi với người bạn đời,
hay sống trong gia đình, tâm ta luôn luôn bị khuấy động trong ái dục
và khó có thể trực diện với niềm cô đơn an tĩnh đủ lâu, đủ chín mùi
để đưa chúng ta vào sự trực ngộ bản tánh của sự vật. Tất nhiên là
tôi chỉ nói khó, chứ không phải là không thể làm được. Do đó, mà ta
cần xuất gia, cắt ái từ sở thân và sống đời sống đạm bạc:
Vật năng tri túc, tâm thường định
Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao. (19)
Như vậy, niềm cô đơn trong sự an tĩnh là điều kiện phải có, tối
thiết (20) cho sự trực ngộ. Có thể nói là từ sự cô đơn mà trực ngộ
ra niềm hạnh phúc của đạo và sự an lạc của tâm tĩnh lặng. An tĩnh,
đây là điểm chính yếu của tu đạo.
(Quả tình, đất Dhramsala là một thánh địa. Hai hôm liền, tôi thiền
tọa đều liên tiếp trực ngộ những điều mà trước kia, tôi chưa rõ lắm
hay là chưa quyết tâm. Không những Dharamsala là thánh địa, mà tôi
lại còn được bảo bọc chung quanh bởi chư thầy tổ, chư tôn đức. Và
sức gia trì của đức Đạt Lai Lạt Ma, cũng như của chư vị, hòa trong
tâm thức chín mùi sẵn có trong tâm từ những thời gian hành trì trước
khi đi về đây tu học đã làm cho tâm thức nở bung ra trong những điều
kiện thật là khó khăn của sự đói lạnh. Từ khi về Sera Mey, tôi vẫn
cảm thấy sự gia trì liên tục của giòng truyền thừa của chư tôn đức
trên tâm thức. Cho đến hôm nay, hai hôm rồi, tâm thức đã kinh nghiệm
được những điều thật là kỳ diệu).
Sau thời hành trì các pháp môn hứa nguyện, tôi càng ngộ ra thêm là
niềm vui sắc dục rất nhỏ bé so với niềm an lạc của sự thiền định an
tĩnh. Niềm hỷ lạc thiền định thật là thanh tịnh và an hòa, trong khi
khoái lạc của sắc dục nặng nề ô trược hơn nhiều. Và càng ngộ ra thêm
hơn là nếu đã có bạn tình hay bạn đời, thì con đường hay nhất là hãy
tìm cách chuyển hóa tình yêu với người bạn tình đó thành tình thương
vô bờ bến, và đi xa hơn nữa, thành tâm Bồ đề, để sau đó cùng nhau
thành tựu đạo pháp, tay trong tay mà hóa lạc về Đâu Suất Thiên Nội
Viện (21).
Xả thiền xong và thấy trong lòng thật nhẹ nhàng an vui, tôi sửa soạn
rời phòng và đi về ngôi chùa chính để nghe pháp. Khi ra đường, tôi
mới nhận thấy là trời đã mưa suốt đêm qua cho nên sáng nay đường xá
lầy lội, đọng đầy nước trên mặt đường. Mặt trời vắng bóng, mây đen
bao phủ làm cho bầu trời trông thật ảm đạm. Thời tiết rất ẩm và
lạnh, cái lạnh buốt cắt da thịt và thẩm thấu vào trong xương. Cơn
đói sáng sớm chợt ùa đến. Nhìn vào quán ăn nhỏ như là một quán cóc
bên vệ đường, tôi thấy những người Ấn độ đang ăn sáng với món
“roti” (22) chung với một chén khoai nghiền đầy gia vị. Dĩ nhiên
là tôi không dám đụng vào dù bụng đói. Tôi lấy bánh mì không trong
túi đeo vai ra, vừa đi vừa ăn. Đói và lạnh làm cơn ho chợt nổi lên
rũ rượi.
Khi vào trong được sân chùa chính, ngồi chờ nghe pháp mới thấm cơn
lạnh sáng nay. Không những mưa, lạnh mà còn gió. Phải ở đây mới thấy
là mỗi vị tăng đều có một cái khăn choàng vuông vắn lớn, màu đỏ bằng
nỉ rất là tiện lợi, thường thì chư tăng quấn khăn choàng vuông đó
chung quanh thân, để hở hai cánh tay ra ngoài. Thế nhưng khi trời
lạnh kinh khủng và nhất là khi trái gió trở trời như thế này, ngồi
nghe pháp thì chư tăng cởi khăn choàng vuông đó mà trùm hẳn lên trên
đầu và bao bọc kín mít quanh thân người. Rất là ấm áp và ngăn che
gió máy. Khi nào cần tọa cụ để thiền tọa thì chư tăng lại xếp cái áo
vuông đó lại thành một cái gối nhỏ để làm tọa cụ, ngồi lên trên rất
là dễ chịu khi hành thiền. Còn tôi thì mặc áo bông, và áo bành tô
mùa đông, đầu đội mũ len che kín hai tai, nhưng vẫn thấy gió rét
luồn qua cổ áo rất khó chịu, nên ngồi co ro và ho rũ. Bà Phật tử
người Tây ban nha ngồi bên cạnh tội nghiệp nên phải cho tôi kẹo ho
suốt mấy ngày. Ho và đờm trong cổ họng lẫn trong xoang mũi thật là
khó chịu.
Hôm nay đức Đạt Lai Lạt Ma mở đầu giảng rất kỹ về tín tâm trong Phật
giáo. Ngài dạy là tín tâm cần phải đi theo với trí tuệ chứ không nên
tin một cách mù quáng. Ngài kể câu chuyện xưa có một lần, hồi còn ở
Lhasa, ngài gặp một người Tây tạng đến đảnh lễ và bảo người đó hãy
tìm học Phật pháp chứ đừng để mình mù chữ, thất học giáo lý. Người
đó thưa với ngài là: chỉ có chư tăng mới phải học, còn các cư sĩ thì
chỉ cần tín tâm. Ngài cười và kể tiếp, lại còn có các tăng sĩ hành
lễ và nghi thức thật giỏi và đẹp, nhưng khi hỏi là các nghi thức ấy
tụng để làm gì thì các tăng sĩ đó trả lời là công việc của họ chỉ là
hành lễ và tụng kinh, còn hiểu nghĩa thì không phải phần việc của
họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại cười và nói quý vị đừng như thế nhé.
Sau đó ngài giảng có hai loại giáo lý Phật giáo: quyền giáo và thật
giáo (23). Ngài dặn kỹ là khi chúng ta học Phật giáo thì phải hiểu
cái nào là quyền giáo (dùng tạm thời, trong một trường hợp, để giáo
hóa chúng sinh) và cái nào là thật giáo (thắng nghĩa giáo, luôn luôn
đúng trong mọi thời). Do đó, phải học với trí tuệ và tìm hiểu cặn kẽ
thấu suốt, chứ không nên mù quáng chấp theo văn tự.
Rồi ngài giảng qua kinh Pháp cú, từ chương 3 – Ái, đến hết chương 7
– Thiện hạnh
Buổi chiều, ngài giảng tiếp từ chương 8 - Ngữ hạnh, cho đến hết
chương 23 – Tự Ngã.
Nguyên cả ngày mưa lạnh và gió rất là khó khăn. Thế mà đại chúng vẫn
ở lại nghe pháp, thật là tội nghiệp. Biết bao nhiêu người cũng kẹt ở
lại buổi trưa, chịu đói và lạnh, không thể rời sân chùa chính để đi
ăn.
Đến 4 giờ chiều thì lại đi học lớp ôn giảng ngay. Geshe Dorje Tamdul
ôn bài lại rất hay. Là một chúng sinh, ai cũng muốn có sự an vui
hạnh phúc và xa lìa khổ đau, nhưng khi đi tìm về hạnh phúc, có người
ham thích các hạnh phúc tạm bợ trong cõi thế gian hoặc các vui sướng
cao hơn, nhưng vẫn là tạm bợ của các cõi trời. Thày tóm gọn là trong
thế gian có thể xếp loại hai hạng người tu đạo:
1. Người tu đạo tìm hạnh phúc (tạm bợ) của thế gian. Hạng người này
tìm những nẻo tái sinh tốt ở trong luân hồi như là cõi người, trời
hay A tu la. Họ tu hành theo Thập thiện, để đạt được các cõi tái
sinh cao.
2. Người tu đạo tìm hạnh phúc thường hằng của Niết bàn. Người tu
Niết bàn lại chia làm hai: 1. muốn chứng quả A la hán, đạt Niết bàn
cho mình; 2. muốn chứng quả Phật tối thượng, đạt Niết bàn vô trụ
(24).
Muốn chứng quả A la hán, cần tu tập thiền định để phá bỏ màn vô
minh, đạt lên các từng lớp thiền theo thứ tự, thực chứng thẳng vào
Tánh không, tất cả mọi tà kiến điên đảo, sai lầm thô tế đều bị bứng
trừ ra khỏi tâm thức, và đạt đến trình độ diệt tận định. Khi đó hành
giả đắc quả A la hán, và chứng Hữu dư Niết bàn. Rồi khi lìa bỏ thân
phàm, bát Niết bàn, thì lúc đó hành giả đi vào Vô dư Niết bàn. Đạt
quả A la hán, hành giả trụ trong Niết bàn tịch tĩnh và trong niềm
đại hỷ lạc khi tất cả tham ái đã hoàn toàn tắt ngấm, và mọi khổ đau
đã hoàn toàn tiêu trừ.
Còn khi hành giả trên con đường chứng quả, hoặc khi đã chứng quả A
la hán mà lại phát Bồ đồ tâm, xa lìa mọi trụ xứ, “chẳng trụ ta
bà, chẳng trụ Niết bàn, tâm vô sở trụ”, và phát nguyện dẫn dắt
mọi chúng sinh đạt đến Phật quả, thì sau khi tuần tự thành tựu Thập
địa bồ tát, chứng ngộ Phật quả tối thượng, đạt vào Vô trụ Niết bàn.
Khi đạt vào Vô trụ Niết bàn thì tâm chấm dứt tất cả khái niệm nhị
nguyên (25), tâm đối đãi: cõi ta bà, đối với Niết bàn, sinh đối với
diệt…Khi đạt đến Vô trụ cũng là đạt đến trạng thái bất nhị (26).
Khi nghe giảng đến đây, tôi nhớ thầm trong đầu trong bài tụng của Lễ
Cúng dường Đức Bổn Sư có câu kệ:
Xin giải thoát chúng con ra khỏi nỗi sợ của luân hồi sinh tử và của
Niết Bàn, xin cho chúng con đạt Toàn giác…
Câu tụng này ý nghĩa cực kỳ thâm thúy, chính là xin cầu nguyện Đức
Bổn Sư ban cho chúng con đạt được Vô trụ Niết bàn, bởi vì
chẳng vướng nỗi sợ bị kẹt trong ta bà cũng chẳng vướng nỗi sợ bị kẹt
trong niềm vui tịch tĩnh của Niết bàn, nghĩa là xa lìa mọi mắc kẹt
vào trong các trụ xứ. Tức là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (27).
Chữ “kỳ” ở đây, tiếng hán viết là
其,
nghĩa là cái ấy, vậy kỳ tâm nghĩa là cái tâm ấy. Vì trong toàn bộ
kinh Kim Cang, đức Phật giảng về cách thành tựu “A-nậu-đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề tâm”, nghĩa là Phật quả vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Do đó, câu trên nghĩa là “chẳng trụ vào chỗ nào mà
sinh cái tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác ấy”.
Nhân ở đây, geshe Tamdul cũng ôn giảng lại phần đức Đạt Lai Lạt Ma
thuyết về đề mục “tìm mà không thấy được tự ngã, cho dù ở trong
cũng như ở ngoài thân (28)”, và do đó mà phải kết luận là tự ngã
vốn là sản phẩm của vọng tưởng (29) mà ta gán ghép trong tâm thức.
Ngày nào được nghe ôn giảng tôi cũng cảm thấy cực kỳ hoan hỷ và phấn
khởi. Mặc dù tôi rất đói và khi vừa mới xong lớp ôn giảng là tôi mau
mau đi tìm tiệm ăn. Khi ra ngoài đường, vẫn còn mưa âm u và lạnh
buốt, tôi đi ăn tối xong, liền nhanh nhanh để quay về phòng hành trì
và đi ngủ ngay.
13. Ngày 24 tháng 2, 2008
Sáng sớm thức giậy, cảm thấy thật là lạnh. Cả đêm qua tôi vẫn bị ho
thật nhiều và đờm, dù sáng sơm cũng như đêm tối trước khi ngủ, tôi
đã xúc miệng cẩn thận bằng thuốc rửa miệng triệt trùng cực mạnh
“Listerine”. Thời tiết buốt giá vì mấy hôm liền mưa liên miên và
gió rét thổi rất mạnh. Trong phòng trên lầu 3, suốt đêm gió thổi
đùng đùng tứ phía. Phòng không có sưởi nên chỉ nhờ ánh mặt trời để
sưởi ấm được chút nào hay chút ấy mà mấy hôm nay vì không có mặt
trời nên nhiệt độ trong phòng hạ xuống rất thấp. Lạnh đến mức mà tôi
không dám thả mép mền ngoài thành giường vì hơi lạnh từ sàn bốc lên
trong đêm làm tôi không ngủ được. Kinh nghiệm cho biết là muốn giữ
hơi ấm trong giường ở đây, tôi phải quấn mép chăn chung quanh người
để thân nhiệt được giữ lại trong chăn, như thế ban đêm, tôi mới ngủ
được mặc dù cả đêm không dám thay bộ quần dài và áo bông cho thoải
mái.
Tuy vậy, sáng nay tôi vẫn thức sớm để thiền tọa. Thân và tâm cũng đã
huân tập phần nào với cái lạnh buốt xương, thịt da đã cảm thấy quen
thuộc dần với cái lạnh cắt buốt, các cảm giác của thân thể đã bớt
than vãn kêu la. Tất cả chỉ là huân tập, chỉ là tập khí, và tạng
thức chứa các tập khí ấy. Rửa sạch tập khí đi để mà an tĩnh...
Sau khi rửa ráy sạch sẽ, tôi an ổn thiền tọa. Lòng hướng về đức Đạt
Lai Lạt Ma, với tâm niệm an bình, với một ngày mới, như sự sống khởi
sinh – sinh và diệt - chuyển hóa. Vô thường chẳng phải là vô thường,
vô thường chỉ là chuyển hóa giữa các sinh khởi và diệt. Giòng chuyển
hóa không ngừng, đặc tính nhất thiết của luân hồi.
Tôi tự nhiên khởi lên, làm trong tâm bài thơ:
Chuyển hóa
Giữa giòng chuyển hóa,
Sinh và diệt không ngừng.
Tịch mặc an nhiên.
Giòng sống bình thản,
Thường chuyển buông trôi.
Mỉm cười,
Giăng tâm ôm vòng vũ trụ,
vuốt ve giòng chuyển hóa.
Sự sống,
Ôi, niềm nhiệm mầu sáng ngời...
Sau đó tôi đi vào hành trì thiền quán các pháp môn hứa nguyện. Niềm
mầu nhiệm vẫn ngời sáng trong tâm như ánh sáng mặt trời. Giòng sống
đang khởi sắc trong bài cầu nguyện nghi thức hành lễ cho đến khi có
tiếng gõ cửa. Theo lệnh của thày viện trưởng, vị thày phụ tá mang
cho tôi ít nước sôi để uống cà phê bột sáng sớm cho tỉnh, miếng bánh
mì phô mai và ít mứt gừng giúp chống ho. Hôm qua, khi tôi ghé phòng
thày để vấn an, ngài đã dặn tôi đừng làm việc quá sức vì lớp học ôn
giảng kéo dài đến hơn 6 giờ tối. Ngài muốn tôi nghỉ ngơi vì các điều
kiện ẩm thực ở Dharamsala không cho phép phung phí sức khoẻ. Nhưng
tôi vẫn cảm thấy rất thích đi học lớp ôn giảng vì geshe Tamdul rất
uyên bác.
Rời phòng lúc 7.45 sáng, tôi ghé sang phòng thày cảm ơn và lên đường
đi đến chùa chính sau đó.
Buổi sáng, đức Đạt lai Lạt Ma mở đầu bằng bài học, đừng làm bạn với
người ác, mà hãy gần gũi với thiện tri thức. Mặc dầu vậy, ngài dặn
thêm là đừng phân biệt, hãy mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả mọi
người, đối xử với mọi chúng sinh như nhau. Nhưng khi học hỏi thì hãy
chọn gần gũi các thiện tri thức, chọn các bậc thày chứ đừng theo bạn
xấu.
Sau đó ngài giảng sang kinh Pháp cú, phẩm 24 – Bỉ dụ (30) cho đến
phẩm cuối cùng là phẩm 33 – Bà la môn. Như vậy đức Đạt Lai Lạt Ma đã
giảng hết kinh Pháp cú.
Buổi chiều, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng kinh Hiền ngu, phẩm 1 – Hổ mẫu
(31), cho đến phẩm 7 – Ajastya, vị tu sĩ khổ hạnh.
Sau đó tôi đi học lớp ôn giảng. Buổi chiều hôm nay, geshe Tamdul
tiếp tục ôn lại phần đức Đạt Lai Lạt Ma giảng về đề tài chấp ngã.
Chúng sinh khổ vì phiền não khởi sinh. Chấm dứt mọi phiền não là
Niết bàn tịch tĩnh. Phiền não đến từ 4 tà kiến (những cái nhìn điên
đảo, sai lầm), có thể tóm gọn như sau:
1. Thấy cái bất tịnh, mà cho là tịnh.
(thân xác của mình vốn bất tịnh, mà mê đắm vào thân xác, cho là thơm
tho sạch sẽ)
2. Thấy cái khổ, mà cho là sướng.
(cảm thọ luôn luôn đưa đến khổ đau, trừ cảm thọ vô ký)
3. Thấy cái vô thường, mà cho là thường còn mãi mãi.
(tâm thức thay đổi, mới sướng đây đã thành khổ, nhưng lúc sướng thì
cứ nghĩ là sướng mãi, còn lúc khổ thì thấy quá khổ, không thoát ra
được, phát điên luôn)
4. Thấy cái vô ngã mà cho là có tự ngã.
(thấy thân mình có thật, có cái tôi, thấy mọi sự vật có thật, chẳng
biết là người và vật đều tùy duyên mà sinh, cho nên chấp vào ngã,
chấp vào pháp, chẳng biết là nhân vô ngã, pháp vô ngã).
Nhưng tựu chung lại thì tà kiến nặng nhất vẫn là chấp ngã, cho rằng
cái tự ngã của mình là có thật, rồi từ đó mà suy nghĩ hành động ích
kỷ để thỏa mãn những đòi hỏi của tự ngã. Chính nơi đó mà tạo tâm
phiền não biến kế (32). Bản chất tâm biến kế có 3 đặc điểm:
1. Là tâm khái niệm: tà kiến cho là mọi sự vật đều có thật,
từ ngã đến chư pháp đều thấy có. Không hiểu mọi sự vật đều là do
duyên hợp, cho nên giả huyễn. Còn cái thấy có thật đó chỉ là sự gán
ghép sai lầm của tâm thức. Như khi nhìn đóa hoa trên mặt bàn, thấy
hoa có thật, khởi tâm tham ái chiếm đoạt.
2. Là tâm phóng đại (hoặc hạ thấp): khi ưa thích thì phóng
đại, khi ghét thì hạ thấp, thí dụ là nhìn đoá hoa trên bàn thấy là
đẹp vô cùng mà thực ra hoa chỉ tương đối.
3. Là tâm cố chấp: tâm này đưa đến hành động và tạo nghiệp.
Khi ưa thích thì tìm cách thủ hữu, khi ghét thì tìm cách tống khứ đi
hoặc hãm hại.
Như vậy, tiến trình của phiền não khởi lên trong tâm và gây nghiệp
là:
1. Nhận thức và quy kết (gán ghép), (perceive and impute),
2.
Ngộ nhận và biến kế, (misconceive and mental fabrication),
3. Phóng đại, (exaggerate),
4. Tạo tác, (create action),
5. Tích nghiệp, (accumulate karma).
Gốc rễ của tất cả các phiền não trên là vô minh.
Geshe Tamdul nhắc lại hôm qua, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng về chấp ngã
có nói là “quý vị thấy tôi có thực quá”. Thày giải thích thêm
là khi thấy đức Đạt Lai Lạt Ma là có thật, quý vị khởi tâm tham ái
được gần bên ngài và quý vị bon chen, giành giựt để được diện kiến,
để được ngài ban phép lành hay là nắm tay ngài. Tất cả đều đến từ
cái nhìn sai lầm điên đảo, thấy có, và chấp là có thực. Không hiểu
là tất cả như trong mộng huyễn: như khi ngủ mơ, quý vị thấy bị hại,
khởi tâm vô cùng sợ hãi, giật mình tỉnh giấc, thấy là không thật.
Khi nghe đến đây, tôi lại không khỏi nghĩ là thực tâm, tôi không ưa
thích bon chen, và nhớ đến lần tôi được mời về Washington DC để diện
kiến đức Đạt Lai Lạt Ma. Lúc đầu thì tôi nhận lời, nhưng sau đó tôi
đã từ chối không đi. Lý do là vì tôi không có nhiệm vụ gì thiết thực
trong buổi họp, mà thấy số người xin được về diện kiến quá đông, ban
tổ chức phải lo liệu chỗ ăn ở. Sau này, có vài người bạn hỏi tại sao
tôi "gàn" thế, có dịp được diện kiến đức Đạt Lai Lạt Ma mà bỏ qua.
Tôi chỉ cười và nghĩ là, nếu cứ lấy tâm đời mà xét thì quả là tôi kỳ
cục thật.
Tôi nhớ đến chuyện của ngài Tu Bồ Đề: “…tương truyền một hôm Tu
Bồ Đề đang ngồi vá áo trong động Kỳ Xà trên núi Linh Thứu thì bỗng
nhiên ngài quán thấy Phật du hóa phương xa đang trên con đường trở
về. Ngài định rời động xuống núi đón Phật, nhưng lại nghĩ rằng Phật
dạy không có cái ta, cũng không có cái của ta. Đã không có cái ta và
cái của ta thì tướng các pháp vốn không tịch vắng lặng. Phật đã
chứng được thật tánh không tịch vắng lặng tuyệt đối ấy mà thực hiện
tự ngã vô ngã siêu tuyệt không hai trong nhân loại, thì không có cái
gì mà không phải là Phật, không ở đâu mà không có Phật. Vậy hà tất
phải xuống núi mới gọi là đi đón Phật. Nghĩ như thế xong, ngài bình
thản ngồi tiếp tục vá áo.
Bấy giờ Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc nhờ đã chứng được thần thông như Mục
Kiền Liên, biết được Phật sắp về, liền xuống núi nghênh đón. Bà lấy
làm tự hào nghĩ rằng trong Thánh chúng chỉ có mình bà hay tin Phật
về và đi đón Phật trước hơn ai hết. Phật nhìn Liên Hoa Sắc mỉm cười
bảo rằng:- Trước nhà ngươi đã có Tu Bồ Đề đón ta rồi (33).“…
Tôi nhớ thêm đến kinh Kim Cang, đức Phật đã dạy:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã;
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như-Lai"
Dịch nghĩa là:
(Nếu nhìn ta qua sắc tướng,
Nếu cầu ta qua âm thanh,
Những kẻ đó hành tà đạo,
Không thể thấy được Như-Lai)
Ngày hôm nay, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhắn nhủ: quý vị thấy tôi có
thực quá..., chấp vào thân tôi qua hình danh sắc tướng. Mà đó chỉ là
thân giả duyên, sinh diệt ngũ uẩn.
Ngay ở Dharamsala đây, tôi cũng đã thấy một lần, cô Phật tử đòi chỗ
ngồi hôm trước, đột nhiên đứng dậy và đẩy mọi người ra, đạp lên cả
giày dép của mọi người mà chạy lại phía hàng rào nơi mọi người đang
sắp hàng chờ đức Đạt Lai Lạt Ma đi ngang…Hoặc trong chùa, tôi cũng
thấy những mẫu người bon chen tu học, trong các buổi tụng kinh, họ
thường đóng các kinh sách lại để trước mặt để kín đáo khoe rằng, tôi
thuộc kinh gốc bằng tiếng Tây tạng, tôi hành trì giỏi nhất, trong
khi thày geshe Tây tạng chính gốc, thuộc lòng kinh như cháo, thì vẫn
mở cuốn kinh để trước mặt và lật từng trang để đọc tụng. Nhìn những
cảnh tượng như vậy, tôi thường rút lấy bài học cho bản thân, sờ lên
gáy mình và tự nhắc nhủ: cẩn thận nhé, hãy cẩn thận... hãy nhìn cho
kỹ cái bản ngã của mình xem nó đang làm gì...
Và chính như là bài giảng hãy thấy mọi chuyện như mộng huyễn của đức
Đạt Lai Lạt Ma dạy, trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng nói:
Nhất thiết hữu-vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Dịch nghĩa là:
(Tất cả các pháp hữu vi, sanh diệt)
Đều như mộng huyễn, bọt, ảnh
Như sương mai, và cũng như ánh chớp
Hãy nên luôn quán chiếu như thế...)
Thật tình, đức Phật đã dạy:”Ta là Phật đã thành, chúng sanh là
Phật sẽ thành”. Tất cả rồi sẽ tuần tự thành tựu Phật quả mà
thôi, vậy thì có gì mà phải bon chen? Chẳng qua là mạt-na thức của
mình thúc đẩy, muốn làm thỏa mãn tâm tự ngã. Cho nên mình cần nhìn
kỹ lại mình trong hành động của đời sống hàng ngày. Cần giữ chánh
niệm (awareness), và cảnh giác (alertness), đâu phải chỉ cứ trong
lúc thiền tọa mới chánh niệm.
Trước khi dứt buổi học ôn, thày Tamdul nhắc lại lời của tổ Long Thọ,
nói là "vị hành giả nào, khi nhập vào được tánh không mà vẫn tôn
trọng, tuân thủ luật nhân quả, thì mới thực sự chứng ngộ Tánh Không"
và kể câu chuyện lý thú như sau:
Một vị học trò theo lời dạy của thày mình, ngồi thiền định vào Tánh
Không. Khi hết sức chú tâm vào Tánh Không, vị học trò thấy mình bị
mất tiêu luôn, sợ quá, ngồi khóc hu hu vì đã đánh mất mình. Vị thày
đi ngang qua, hỏi chuyện gì? Học trò vừa khóc vừa nói "con bị mất
tiêu rồi (không còn tồn tại)”. Thày liền hỏi:"ai đang khóc thế?” Học
trò nói "con đang khóc". Thày trả lời ngay "ồ, vậy thì con làm gì có
mất tiêu hồi nào đâu!”.
Mọi người đều cười ồ lên vui vẻ, và sau đó ra về.
14. Ngày 25 tháng 2, 2008
Sáng sớm thức giậy vào phòng tắm rửa ráy, liếc nhìn ra bầu trời âm u
bao phủ. Lúc 6 giờ sáng, tôi bắt đầu tọa thiền, vào trong nhất điểm
thiền định. Tâm tôi đi vào niềm tĩnh lặng, hoàn toàn trụ trong buông
thư và hơi thở an bình. Thật là thoải mái và sung sướng. Rồi, từ
tâm, khởi lên những lời giảng của đức Đạt Lai Lạt Ma. Tất cả đều là
huyễn hóa. Như mộng huyễn bào ảnh.
Tâm tôi tự nhiên khởi lên câu tụng từ Lễ Cúng dường đức Bổn sư :
"Chúng con được hộ trì của Ngài để thành tựu hạnh thiền định quán
huyễn hóa,
Nhận chân mọi pháp trong, ngoài, đều không có tự tánh mà vẫn hiển
bày,
Như ảo ảnh trong gương, như mộng ảo, như bóng trăng trên mặt hồ nước
lặng…"
Và từ đó tôi lại đi vào trong niềm an bình của mặt hồ nước lặng… Tôi
không còn để ý đến thời gian hay gì khác nữa…
Khi xuất ra khỏi thiền định, tôi mới thấy là thời giờ đi qua thật
nhanh. Tôi hành trì nốt các pháp môn, và sửa soạn đi nghe pháp.
Từ sâu thẳm của tâm thức, tôi chợt nhớ lại mấy câu trong Cung Oán
Ngâm Khúc :
Tuồng ảo hóa
đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì! (34)
Tuồng ảo hóa:
trò chơi của kiếp người, khi tôi còn trẻ có đọc say mê cuốn Sói đồng
hoang (Steppenwolf) của Hermann Hesse, và cuốn sách này để lại cho
tôi một ấn tượng mạnh. Sói đồng hoang kể lại câu chuyện của anh
chàng Harry Haller, một chàng trai rất thông minh, và những khó khăn
của anh ta, khi gia nhập cuộc chơi dạ vũ đeo mặt nạ thâu đêm, nhưng
lại giấu ở phía sau một thế giới thứ hai, cao cả hơn, không thể hủy
diệt được, vượt quá Sói Đồng Hoang và cái cuộc sống mơ hồ lăn lộn
trong những buổi dạ vũ thâu đêm…Hồi trẻ, tôi đã đồng hóa mình với
anh ta và đã mộng những giấc mộng của chàng Harry Haller đó…
Vào được chùa chính, ngồi xuống chỗ, tôi mới nhận ra là mấy hôm nay
ngồi trên sàn xi măng lạnh buốt bàn tọa, các đầu gối và mông cũng ê
ẩm mỏi mệt đến độ, khi về phòng sau khi ăn buổi tối xong, rất khó
ngồi thiền tọa lâu, mà cần nghỉ ngơi đến sáng hôm sau mới ngồi thiền
thoải mái được. Tối nay chắc tôi sẽ phải đi kiếm mua một miếng đệm
mỏng bằng bọt xốp để mai lót thêm lên chỗ ngồi cho bớt lạnh.
Sáng hôm nay, trước khi đi vào giảng về kinh Hiền Ngu, đức Đạt Lai
Lạt Ma nhắc lại đề tài thuyết giảng hôm trước. Ngài nhấn mạnh là tất
cả phiền não đều từ tâm chấp ngã. Chính tâm chấp ngã này làm cho
chúng ta khi nhận thức một sự vật nào cũng đều thêm vào cái ngã của
mình để nhìn sự vật ấy một cách méo mó qua hai khía cạnh: hoặc thích
và dính mắc tham ái, hoặc ghét và muốn hủy hoại tống khứ. Nếu một
vật thực sự đẹp, thì tất cả mọi người đều phải cùng nhìn thấy nó
đẹp. Nhưng thực tế thì không phải vậy, người khác không thấy nó đẹp
như ta thấy.
Do đó, nên hiểu là chính tâm chấp ngã của ta đã bóp méo sự vật theo
lăng kính của tự ngã. Do đó, ta nhìn sự vật với tà kiến, quy kết gán
ghép cho sự vật những đặc tính mà nó không có, thí dụ như nhìn sự
vật quá có thực, quá thường hằng. Thực ra, nếu thấy một điều gì tốt,
chỉ nên đánh giá đúng điều đó, và dừng lại ở chỗ "đó là một chuyện
tốt". Nhưng tâm ta lại không thế, vì tâm chấp ngã làm ta luôn luôn
phóng đại mọi chuyện, hoặc là tốt quá, hơn sự thật, hoặc là xấu quá,
kém sự thật.
Từ vô thỉ vô chung, chúng ta đã bị kiềm chế bởi tâm chấp ngã này, và
không thể diệt trừ được nó.
Thế nhưng nếu đặt câu hỏi: tất cả mọi người đều có nên học phá bỏ và
diệt trừ ngã không? Câu trả lời là không nhất thiết. Vì sao? Vì
thuốc phải tùy bệnh mà cho. Tôn giáo cũng như là thuốc trị bệnh. Do
đó mà đức Phật đã tùy người mà ban pháp, có khi đức Phật giảng về
hữu ngã cho những người còn quá chấp vào ngã (giảng vô ngã cho họ,
có thể làm hại họ). Còn đối với bậc căn cơ cao, đức Phật giảng vô
ngã, vì họ có thể thọ lãnh pháp vô ngã và được nhiều lợi lạc.
Sau đó, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng kinh Hiền Ngu, phẩm 8 - Từ bi lực,
cho đến phẩm 16 - Ấu thuần điểu (35). Mọi người ai cũng ngạc nhiên
tại sao đức Đạt Lai Lạt Ma lại giảng kinh nhanh như thế. Với vận tốc
này thì sẽ khóa thuyết giảng sẽ xong sớm hơn dự định nhiếu.
Nhưng chưa kịp nghĩ xa hơn thì đã nghe đức Đạt lai Lạt Ma thông báo
sẽ giảng xong kinh Hiền Ngu ngày mai 26 tháng hai, và kể từ ngày 27
trở đi, ngài sẽ ban Lễ Quán Đảnh "Kadampa Thập Lục Tổ (36)".
Tôi nghe ngài nói mà tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vì tôi đã mong
đợi thọ Lễ Quán Đảnh này từ lâu, ít khi ngài ban lễ này lắm, mà nay
ngài như là có thần thông hiểu được sự mong đợi của tôi và ban cho
Lễ Quán Đảnh. Tôi chợt nhớ lại là suốt từ khi đi qua Ấn ở Sera cho
đến bây giờ, tôi luôn luôn cảm nhận sự hộ trì của giòng chư tổ phái
Giới đức (Gelug), mà phái Giới đức chính là truyền thừa của giòng
Kadampa.
Mừng quá, tôi sung sướng đi học lớp ôn giảng buổi chiều. Geshe
Tamdul ôn lại kinh Pháp cú, phẩm 12 - Đạo lộ. Thày giảng tóm lược
lại ý chính của phẩm 12 nói về nền tảng của đạo Phật chính là diệt
trừ mọi tầng lớp của vô minh để có thể chứng quả giác ngộ Bồ đề. Hơn
nữa, tổ Long Thọ đã giảng: "trí tuệ Tánh Không chính là nền tảng
của giải thoát giác ngộ". Đức Phật Thích Ca cũng đã vạch rõ vô
minh qua giáo lý "Phật giáo Tứ ấn" (kinh Ðại Bát Niết Bàn
(37)) như sau:
1. Vô thường: nhất thiết pháp (hữu vi) vô thường (38),
2. Khổ: nhất thiết pháp (hữu lậu (39)) khổ não,
3. Không: nhất thiết pháp không (tức vô ngã),
4. Niết Bàn tịch tĩnh: đoạn diệt phiền não tức thị Niết Bàn
tịch tĩnh.
Sau đó thày trả lời câu hỏi về vấn đề "hiện hữu (existence)" và "phi
hữu (non-existence)" vì có người đặt câu hỏi làm sao mà tin được là
cõi thiên có thật. Tất cả các pháp (sự vật) hiện hữu trong 6 cõi
được phân làm 3 loại như sau:
1. hiển hiện pháp (evident phenomena): là những sự vật hiển
nhiên tồn tại, mắt thấy, tai nghe và cò thể tiếp cận sờ mó được,
2. phần tàng pháp (slightly hidden phenomena): là những sự
vật bị che dấu một phần trong vũ trụ, không nhìn thấy được mà phải
dùng lý luận hoặc khoa học để chứng minh sự tồn tại của nó, thí dụ
như dòng điện, từ trường,
3. tuyệt đối tàng pháp (absolutely hidden phenomena): là
những sự vật hoàn toàn bị che dấu trong vũ trụ, không những không
thể nhìn thấy mà còn không thể chứng minh sự hiện hữu của nó qua
khoa học...
Do đó, cõi thiên tuy có thật, nhưng không thể dùng khoa học mà chứng
minh sự tồn tại. Tuy nhiên, thày nhấn mạnh là đừng mất thì giờ tìm
cách chứng minh các pháp loại 3 có hiện hữu, bởi vì điều đó không
giúp ích thiết thực gì trong việc tu hành đạt đến giác ngộ của mình.
Nên tránh mất thì giờ trong các chứng minh hý luận và hãy đặt trọng
tâm lên những pháp môn hành trì thiết thực đưa mình thăng tiến trên
con đường đạo thì hay hơn.
Sau buổi học tối hôm đó, tôi đi ăn mì tại tiệm Drasang, khi đến nơi
thì đã trễ, nhưng có hai vị sư vui lòng ngồi nhích vào cho tôi chỗ.
Ngồi xuống cạnh hai vị, tôi cám ơn và hỏi thăm đến từ tu viện nào
thì họ nói đến từ Gaden Shartse, cũng là nơi vị thày bổn sư của cả
gia đình tôi, Lati Rinpoche, trụ trì. Mừng quá tôi hỏi thăm hai vị,
thày Lati Rinpoche có về Dharamsala không? Họ nói có và chỉ chỗ để
tôi đến thăm thì mới biết là thày tạm trú ngay tại nơi chùa chính,
chỗ nghe pháp. Sau khi ăn xong, tôi đi về phòng, nhưng cảm thấy như
bị trúng lạnh. Cả ngày mưa dầm dề buốt giá khó chịu và tôi bị ho
càng ngày càng nặng. Đang nghĩ cách mua đi thuốc ho để uống thì may
quá, tôi gặp thày Tenzin trước cửa phòng và hỏi thày chỉ chỗ bán
thuốc, rồi sau đó hành trì trước khi đi ngủ.
15. Ngày 26 tháng 2, 2008
Sáng sớm thức giậy, nhìn ra ngoài thì thấy bầu trời vẫn âm u. Lại
thêm một đêm mưa dầm dề. Rửa ráy xong, tôi ngồi vào thiền định như
mọi sáng. Nhưng sáng nay thì tôi cảm thấy lạnh quá. Hậu quả của
những ngày ăn thiếu và nhiễm trùng cổ, ho và viêm xoang mũi. Trong
người cảm thấy như không đủ năng lực. Lạnh và ẩm quá chừng cho nên
tôi cứ bị sổ mũi liên miên trong tình trạng thiếu thốn năng lượng để
chống đỡ. Tôi thầm nghĩ, thân mình mà còn lo chưa xong, không chịu
nổi khổ cực và khó khăn thì còn mong gì cứu độ ai. Lo thân không
xong, đói rét không kham nhẫn nổi! Con đường Bồ tát đạo quá rộng
lớn, mà thân mình thì quá mong manh, quá quen thuộc với tiện nghi
tập khí, đắm trong đời sống lợi dưỡng thân mình...
Nhìn lại chư tăng, để vai trần, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng để vai trần
mà đi, nguyên một bên tay không áo che. Nhưng chư vị vẫn thản nhiên
vui vẻ và tu hành tinh tấn như không.
Vậy mới ngộ ra là tất cả đều do tâm, tâm nhiễm tập khí là chủ nhân
ông, khó có thể điều phục, khó kham nhẫn. Lấy gì mà tinh tấn tu trên
đường đạo?
Quả tình, lúc nào mình cũng chỉ chăm chăm bo bo lo bồi dưỡng thân
ngũ uẩn. Khổ thì sinh bệnh, đói cũng sinh bệnh. Thân mình là chủ,
hành hạ mình lên xuống chạy theo lo cung ứng cho các đòi hỏi của ngũ
uẩn. Tứ đại thì bất an vì bàn tọa ê ẩm sau mấy ngày ngồi trên sàn xi
măng lạnh lẽo nghe pháp trong mưa gió...
Không chịu thua, tôi quyết tâm tọa thiền, ngồi chú tâm chánh niệm,
xả bỏ tất cả những đau đớn của thân thể và của bệnh tật. Thế là tôi
lại hưởng được những giây phút an lành của thiền định, và cảm nhận
lòng tri ân sâu xa đối với chư tổ sư giòng truyền thừa đã ban cho
những pháp môn hành trì thật là mầu nhiệm và an lạc.
Khi hành trì xong đi ra ngoài để đi nghe pháp, tôi ngạc nhiên vui
thích khi thấy thời tiết đã thay đổi thật bất ngờ. Mặt trời ló dạng
và chiếu muôn ngàn tia sáng thật đẹp. Mây âm u đã bay đi nhiều
và chỉ còn lại một vài đám lưa thưa. Niềm vui tọa thiền được tăng
trưởng thêm với ánh rực rỡ của buổi sáng đẹp trời.
Sáng nay, tôi lại nhận thấy có một sự trùng hợp khi Đức Đạt Lai Lạt
Ma không giảng thẳng vào kinh Hiền Ngu, mà lại bắt đầu bằng chính
bài giảng về chánh niệm. Ngài nhắc lại phần giảng kinh Pháp cú mấy
ngày trước rằng chính nhờ chánh niệm (mind consciousness) và cảnh
giác (alertness) mà hành giả đạt đến giác ngộ, ngài sách tấn chúng
ta hãy hoan hỷ tinh tấn hành trì gìn giữ hai phương pháp thiền định
quý giá đó và nhận chân tất cả các khoái cảm cũng như đau đớn đều
xuất phát từ duyên khởi. Do nhân duyên này mà ta thọ nhận thứ này,
do nhân duyên kia mà ta thọ báo thứ kia. Vì thế mà hãy luôn luôn
cảnh giác và chánh niệm gìn giữ để tâm thức mình không khởi lên
phiền não trong mọi hoàn cảnh. Khi phiền não đoạn diệt thì chứng
giác ngộ. Hãy tiêu trừ tâm tập khí bất trị và đoạn diệt phiền não.
Tôi nghe những lời pháp này mà thấy như luồng nước cam lồ tuôn chảy
trong thân. Chẳng phải là sáng nay tôi vừa mới trải qua một trường
tranh đấu với thân tâm bất trị sao? Quả là mầu nhiệm khi mỗi bài
pháp ngài ban cho chính là những hành trì từng ngày. Nhật tân nhật
nhật tân, hựu nhật tân, mỗi ngày ngài lại ban cho một bài pháp
khuyến tu, khế hợp với sự hành trì…
Ngài giảng, như khi giặt sạch quần áo, có những vết bẩn thô, dễ gột
sạch, cũng có những vết bẩn vi tế khó tẩy trừ. Các lậu hoặc trong
tâm cũng phân làm hai loại, thô và vi tế:
1. nghiệp bất thiện: là những lậu hoặc thô
2. đắm nhiễm luân hồi: vi tế hơn, vì phải xả bỏ tất cả các dục lạc
trong sáu cõi, ngay cả hỷ lạc của các từng trời cao nhất cũng phải
xả bỏ.
Chính là nhờ thiền định mà có thể chuyển hóa tâm thức, qua phương
pháp chánh niệm và cảnh giác, mà thuần hóa các tập khí bất trị trong
tâm.
Ngài nhấn mạnh thêm: ngoài ra, tinh tấn huân tập và thiền quán khởi
sinh tâm thiện không phải chỉ là ngồi yên thiền định, mà chính là sự
gìn giữ chánh niệm và cảnh giác tâm thức trong suốt mọi thời. Như
thế mới chứng đắc giác ngộ. Trăm năm qua đi như bóng câu qua cửa sổ,
thế mà tất cả mọi tranh chấp trên thế giới đều gây ra từ những con
người với mạng sống trăm năm đó, thật là phi lý.
Sau đó, ngài giảng tiếp qua phần hôm trước phẩm 16 - Ấu thuần điểu,
cho đến phẩm 21 – Truyện Bồ tát Kuddhabodhi. Đặc biệt, phẩm 19 –
Liên hoa căn (Lotus roots) kể một câu chuyện cực kỳ cảm động và đã
làm tôi rơi nước mắt. Khi ngài giảng đến đoạn vị tu sĩ khổ hạnh trải
qua ngày thứ năm không có thức ăn và chỉ còn da bọc xương mà vẫn an
vui và từ bi với mọi người thì tôi cảm động quá và chảy nước mắt
nghẹn ngào…
Sau đó là giờ nghỉ trưa, đặc biệt, hôm nay, chư tăng mang những
thùng canh lớn và bánh mì phát cho mọi người ở lại không ra ngoài
được. Có lẽ đức Đạt Lai Lạt Ma thấy tình cảnh khó khăn của Phật tử
nghe pháp mà không ra ngoài ăn trưa được nên phân phát chút thức ăn.
Tôi cũng xin được chén canh cải bắp chay và miếng bánh mì ăn đỡ đói.
Buổi chiều, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng sang phẩm 22 – Nga điểu vương,
cho đến hết phẩm 23 - Đại Bồ Đề Hiền giả. Phẩm 23 này là một câu
chuyện thật hay và có ý nghĩa cực kỳ thâm sâu. Vị hiền giả Đại Bồ Đề
đã sử dụng biện chứng pháp để thuyết giảng những tư tưởng về nhân
quả và phá tà hiển chánh của Phật giáo một cách thật là cao diệu.
Sau đó đức Đạt Lai Lạt Ma dặn dò đôi điều về Lễ Quán Đảnh Thập Lục
Tổ Kadampa trong ba ngày 27, 28 và 29 vào buổi chiều. Ba ngày đó sẽ
không có thuyết giảng trong buổi sáng vì đức Đạt Lai Lạt Ma cần phải
cầu nguyện và sửa soạn cho Lễ Quán Đảnh.
Hôm nay, trong buổi học ôn giảng, vì có nhiều câu hỏi liên hệ đến Lễ
Quán Đảnh Thập Lục Tổ Kadampa (40) cho nên thày Tamdul bắt đầu buổi
học bằng lời giải thích những tiêu chuẩn cho phép một Phật tử thọ lễ
này. Tóm lại, thày khuyên nên xét kỹ trước khi quyết định xin thọ lễ
hay không, như sau :
1. Vị nào mới đi vào theo mật tông hay tương đối mới làm quen với
tông phái không nên thọ lễ bởi vì thọ lễ này là một hành động khá
quan trọng, cần phải suy xét kỹ lưỡng và không nên thọ lễ bừa bãi.
Nếu chỉ vì thấy đức Đạt Lai Lạt Ma quá siêu phàm, và chỉ vì ưa thích
nhân cách của ngài mà thọ lễ ngày mai, rồi sau đó về nhà và quên
khuấy đi, hoặc không còn ưa thích nữa thì không nên chút nào. Điều
nên nhớ, khi quý vị đi nghe pháp thì đức Đạt Lai Lạt Ma chưa phải là
đức bổn sư, nhưng khi đã thọ lễ quán đảnh thì vị thày ban lễ sẽ trở
thành đức bổn sư chính thức của quý vị. Mối liên hệ "bổn sư-đệ tử"
cần phải gìn giữ cho tuyệt đối thanh tịnh và tôn kính, nếu không thì
sẽ tạo nghiệp xấu.
2. Quý vị nào hành trì Shudgen Dorje không nên dự lễ này.
3. Quý vị nào muốn thọ lễ phải tìm học kỹ càng hai đề mục "Ba nguyên
tắc của đạo lộ" và "Tứ diệu đế".
4. Sau khi thọ lễ thì phải hành trì mỗi ngày:
• Lục thời du già quán tụng (tối thiểu là bản rút ngắn)
• Bồ tát giới
• Mật tông giới.
Rồi thày Tamdul ôn lại "Phật giáo Tứ ấn" (trang 50), và giải
thích rõ thêm hai ấn đầu như sau:
Ấn thứ nhất, pháp hữu vi là vô thường, bởi vì hữu vi nghĩa là giả
hợp từ nhân duyên. Do đó sinh diệt, và sinh diệt thì vô thường. Sinh
diệt thì chuyển biến từng sát na, thân hiện tại này chính là thân
của sát na ngay trước đó, mỗi mỗi sát na đều già cỗi đi, để cuối
cùng đi vào nghĩa địa (hủy diệt theo nghĩa thế gian). Pháp hữu vi
không những bao gồm các sự vật, mà còn bao gồm cả tâm thức. Cũng y
như vậy, tâm thức sinh diệt vô thường. Tâm ngày hôm nay là tâm của
24 giờ trong ngày, là tổng hợp của tâm mỗi giây phút. Rồi đi sâu hơn
nữa thì tâm hiện tại này chính là tâm của sát na ngay trước đó.
Tâm sau chẳng thể có nếu tâm trườc chưa sinh, niệm niệm sinh khởi,
sát na sinh diệt. Do đó, thân và tâm đều sinh diệt vô thường.
Ấn thứ hai, pháp hữu lậu là khổ, vì hữu lậu nghĩa là dò rỉ, chỉ cho
tâm phiền não khởi sinh, mà có phiền não tức là có khổ. Phiền não
phá hoại đê điều chánh niệm bảo vệ thân tâm và tổn hại thiện căn. Tỷ
dụ như khi phiền não khởi sinh thì đang ăn miếng ngon cũng không còn
thấy ngon vì phiền não che lấp tất cả. Cả tâm chấp trước cũng là hữu
lậu, chấp vào vật thì sinh tham ái và phóng đại sự vật qua lòng tham
ái.
Sự liên hệ của hai ấn đầu tiên là: 1. ta luôn luôn chuyển biến về
một chỗ nào đó (41) mà vì vô minh, ta mù mờ không nhận thức rõ, 2.
ta bị kiềm chế bởi phiền não, và luôn luôn chạy đuổi theo tâm vô
minh này. Do đó mà ta luôn luôn chuyển biến (theo ấn thứ nhất).
Để thí dụ cho dễ hiểu sự vô minh mù mờ về sinh diệt chuyển biến của
ta, thày Tamdul kể câu chuyện. Như khi đi xa nhà 10 năm, quay trở
về, nhìn trước sân thấy cây táo cao lớn mọc xum xuê xinh đẹp, ta
kinh ngạc và vô tình cảm thấy cây đột nhiên hiện hữu! Nhưng đó là
sai lầm của tâm thức trong ta, cây không phải đột nhiên mà có, chỉ
vì 10 năm đã qua, mà ta không chánh niệm đó thôi. Nhìn lại, ta thấy
đời người đi rất nhanh như bóng câu, càng ngày ta càng đi đến gần về
sự chết, điều đó làm tâm ta sợ hãi. Trong đời sống bận rộn miệt mài
bận bịu, làm cho chúng ta thường quên lãng đi, không có chút chánh
niệm nào, ngay cả với hơi thở của mình.
Nghe thày giảng về sự vô minh mù mờ đến đây, tôi chợt nhớ lại câu
chuyện thiền tông sau:
Một hôm, Bá Trượng Hoài Hải đi hầu sau Mã Tổ Đạo Nhất. Thấy một bầy
vịt trời bay ngang qua đầu, Mã Tổ hỏi Bá Trượng:
-Đó là cái gì?
Bá Trượng thưa:
-Đàn vịt trời.
-Bay đi đâu?
-Bay ngang qua.
Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi Bá Trượng kéo mạnh, khiến Bá Trượng kêu thất
thanh.
Mã Tổ bảo:
-Lại nói bay qua đi.
Ngay câu đó, Bá Trượng tỉnh ngộ.
Sau khi học lớp ôn giảng xong, tôi đi ra ngoài ăn một chút rồi quay
lại chùa chính đi hỏi thăm tìm phòng của thày Lati Rinpoche để đến
thăm. Chư tăng cũng không rành lắm cho nên cứ chỉ lung tung, và tôi
gõ tới phòng thứ năm mới đúng là phòng của thày Lati Rinpoche. Hai
vị đệ tử ra mở cửa và nói tôi vào ngồi chờ một lúc ngắn thì thày
Ngawang xuất hiện. Thày nhìn tôi một vài giây và nhớ ra, vì tướng
mạo tôi bây giờ đã thay đổi nhiều, nhưng tôi vẫn quỳ xuống đảnh lễ
và thưa con là Sonam Nyima đây.
Thày Ngawang kéo tôi đứng lên. Mấy năm rồi mà thày vẫn y như xưa,
chỉ có tôi là già đi nhiều. Thày mừng rỡ ôm lấy tôi dẫn vào bên
phòng trong, bảo tôi ngồi trên giường chờ thày lo vài chuyện đang dở
dang với vị Phật tử đến trước. Chỉ một chút sau, thày Ngawang trở
lại và dẫn tôi vào vấn an ngài Lati Rinpoche. Tôi vào phòng thày
Lati Rinpoche và đảnh lễ dâng khăn. Thày Lati Rinpoche đưa hai tay
ôm lầy đầu tôi và ban phép lành hộ trì rất lâu và sau đó ban cho sợi
giây hộ trì màu đỏ để đeo vào cổ. Xong ngài hỏi thăm tôi và gia đình
qua sự thông dịch của thày Ngawang. Trước khi ra ngoài để nghe pháp
buổi chiều, tôi thưa thày Ngawang xin cúng dường, nhưng thày Ngawang
ngăn lại, nói là con cần tiền tiêu trong những ngày ở đây học đạo.
Tôi năn nỉ thày, thưa là gặp được Lati Rinpoche rất khó khăn, mà con
ở đây chẳng tiêu được gì, mỗi ngày ăn một bữa thôi mà tiệm ăn thì
rất rẻ, cho nên con chẳng tiêu dùng gì được và cho con cúng dường.
Sau cùng Lati Rinpoche hoan hỷ nhận lời và tôi đi về chỗ ngồi để
nghỉ ngơi một chút trước khi buổi thuyết pháp bắt đầu. Thày Ngawang
dặn dò tôi là từ hôm nay, mỗi tối hãy ghé qua dùng cơm tôi vời thày.
Tôi thưa vâng.
Trên đường đi về phòng, tôi thấy trong lòng vô cùng mừng rỡ vì được
gặp thày Lati Rinpoche và lúc nào cũng được thọ nhận từ chư vị một
tình thày trò tràn ngập thương yêu và từ bi.
16. Ngày 27, 28 và 29 tháng 2, 2008
Ba ngày này, đức Đạt Lai Lạt Ma ban lễ quán đảnh Thập Lục Tổ
Kadampa. Vì là pháp môn mật tông cho nên tôi không được phép phổ
biến ra ngoài. Mặc dù sáng sáng, tôi vẫn thiền tọa và hành trì, cũng
như quán tưởng theo những buổi thọ lễ quán đảnh và lời dạy của ngài.
Duy trong những buổi thiền toạ sáng sớm, tôi vẫn tiếp tục nhận thức
và quán chiếu rõ ràng về đề tài thân như bọt huyễn.
Khi ở trong hoàn cảnh khó khăn, nơi xa lạ, tôi mới thấy ra sự bất
lực và vô dụng của mình, không làm được gì giúp cho thày của mình mà
ngược lại, chư tăng còn phải lo cho mình, như mỗi sáng thày ban cho
nước sôi để pha trà hay cà phê, ban cho ít bánh và mứt gừng để trị
ho. Thân mình, cứ ngỡ là cúng rắn lắm, thế mà chỉ vì không quen thủy
thổ, không đủ tiện nghi mà sinh bệnh nhiễm trùng. Ho liên miên không
dứt. Lại thêm đói lạnh. Thân mong manh như bọt bèo, khó kiếm mà dễ
mất. Thày Ngawang có dạy tôi là: "Con về đây tu học sẽ tốt cho
con rất nhiều để thấy ra là con ở Canada rất là sướng". Quả là
như thế, tôi tỉnh ngộ ra rất nhiều. Ở Canada sung sướng hơn là thế
mà tâm phiền não vẫn không dứt được.
Sáng hôm đó, tôi ra ngoài và tìm ra được nhà thuốc tây, mua được
thuốc trụ sinh Cipro trị mọi loại vi trùng và uống. Mấy ngày nay,
trời rất đẹp và ấm áp trở lại, làm tôi như được hồi sinh, bớt lạnh
hơn nên tôi có thể tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày. Xong, tôi đi mua quýt
tươi và to mang đến cúng dường thày Khen Rinpoche, vì sáng nay được
nghỉ không có thuyết pháp. Đến nơi, thày vui mừng kéo tôi vào nghe
nói chuyện vì mấy hôm nay tôi mải lo đi nghe pháp và học ôn giảng
nên không gặp ngài nhiều. Ngài khuyên tôi nên nghỉ ngơi. Sau đó, bóc
quýt ăn, ngài tư lự kể lại chuyện đời của ngài, tại sao lại thích ăn
quýt:
Vào những năm đầu tiên khi đức Đạt Lai Lạt Ma và chư tăng bỏ trốn
qua Ấn tỵ nạn Trung cộng, chính phủ Ấn đưa toàn thể cộng đồng Tây
tạng về Bengali tạm trú. Thời trước đó, Bengali là một xứ do thực
dân Anh cai trị. Để chấn chỉnh và giữ an ninh, thực dân Anh quốc đã
cho xây một trại tù rộng lớn đến hàng cây số. Sau khi thực dân trả
tự do cho Ấn độ thì trại tù đó đã được giải tỏa. Chính phủ Ấn thoạt
đầu không biết làm sao giải quyết vấn đề tỵ nạn Tây tạng, bèn tách
rời chính phủ lưu vong và đức Đạt Lai Lạt Ma ra riêng, còn cộng đồng
dân Tây tạng, phần lớn là chư tăng thì đưa về trại tù Bengali, sửa
chữa tạm bợ thành trại tỵ nạn để cho họ ở.
Thày im lặng một lúc như để tưởng nhớ, và tiếp tục.
Con biết không, lúc đó rất là khổ cực vì bị nhốt trong một trại lớn,
bao quanh bởi tường cao bằng hàng rào kẽm gai và không được phép đi
đâu ra ngoài vòng trại tỵ nạn đó. Bốn góc thành và rải rác là các
trạm canh cao, trên đó có lính đeo súng gác. Chính phủ Ấn mang đến
đồ ăn cho chư tăng mỗi ngày. Trong vùng Bengali đó, đặc biệt là, cây
quýt mọc lên tự nhiên rất nhiều ở mọi nơi và có những trái rất lớn,
tươi ngon. Sống trong trại tỵ nạn như thế, chư tăng không thể làm gì
được ngoài cầu nguyện hành trì, và khi rảnh rỗi thường hái trái quýt
về ăn. Cho nên khi con mang quýt đến cúng dường, thày lại nhớ lại
thời xa xưa khổ cực đó… Tôi mủi lòng, ngồi im lặng một lúc.
Thày lại nói tiếp. Con biết không, ngay góc của trại tỵ nạn là một
cái tháp, trong đó dựng máy chém đầu tù nhân. Thực dân Anh đã mang
không biết bao nhiêu người Ấn, tốt cũng có, xấu cũng có, cả những
nhà đấu tranh chống thực dân Anh ra đó xử trảm. Oan hồn ban đêm
thường hiện ra than khóc và làm mọi người sợ hãi. Chư tăng ở trong
trại cũng rảnh rỗi bèn họp nhau lại, lập đàn tràng làm lễ cầu siêu
cho các oan hồn uổng tử nên sau đó không còn bị cảnh oan hồn hiện ra
trong đêm…
Tôi xúc động khi nghe thày kể chuyện đời xưa, cũng nhờ tôi hay để ý
thương thày, mang cúng dường những món thày thích nên hôm nay được
nghe tự ngài kể chuyện đời xưa một cách sống động.
Chiều hôm 28 tháng 2, khi tôi đi dự lễ quán đảnh về, khi đến lầu 3,
sắp vào phòng thì thấy một số người Việt nam đứng tụ họp gần trước
của phòng, dường như chờ đợi để vào thăm Khen Rinpoche. Trong đó có
một vị sư cô mặc áo vạt hò ngắn, có vẻ lớn tuổi, vẻ mặt rất hiền từ.
Tôi cũng không quen biết ai trong nhóm đó, trừ cô Phật tử ngồi trước
chỗ ngồi nghe pháp của tôi, thì cũng chỉ biết qua những buổi nghe
pháp. Cô thấy tôi đi vào phòng, cạnh phòng thày Khen Rinpoche bèn
hỏi xin mượn phòng tôi nghỉ ngơi tránh nắng và sử dụng nhà tắm. Tôi
hoan hỷ chắp tay và xin họ chờ giây phút để vào dọn dẹp phòng một
chút, trước khi thỉnh họ vào vì trong nhóm có một sư cô.
Khi ra ngoài thỉnh họ vào thì sư cô cảm ơn và nói là không dám làm
phiền. Tôi bèn quay vào phòng mang quýt và nước uống mời họ giải
khát. Sau này, tôi mới được người bạn đạo ở Paris, cùng là tác giả
chuyển dịch nhiều cuốn kinh sách chung với nhau cho biết, vị sư cô
nghiêm trang và hiền từ đó chính là má nuôi của vị bạn đạo đó, gọi
tên thân mật là má Đều. Má Đều (vị sư cô đó) là một vị khá đặc biệt,
vì ngoài tính tình nghiêm trang hiền từ, còn rất là mộ đạo, năm nào
cũng đi Ấn hành hương, dù nghèo và có khi phải mượn tiền để đi hành
hương cúng dường chư tăng. Trong 10 ngày qua, má Đều đi nghe pháp
đầy đủ, từ sáng đến chiều và cũng phải nhịn ăn như tôi, mà má vẫn an
nhiên vui vẻ dù toàn bộ 10 ngày không hề có thông dịch Việt ngữ hay
Pháp ngữ để má có thể nghe hiểu (vì má ở bên Pháp). Khi tôi nghe
chuyện đó, tôi cảm thấy thật là cảm phục má, 10 ngày ngồi chen chúc,
từ sáng đến chiều mà không có thông dịch! Tôi cảm phục lòng nhẫn nại
vô biên của má quá. Đặc biệt má còn nói, 10 ngày má sung sướng
được an trú trong Pháp nhũ. Quả là một vị sư cô khác thường. Tôi
rất lấy làm tiếc là đã không biết má trong khi ở đó và hy vọng là
nhật ký này sẽ đến tay má để ít nhiều có thể tóm lại những ý chính
của 10 ngày thuyết pháp làm quà cho má. Đường nhập vào cửa đạo có
hai: hạnh nhập hoặc lý nhập. Tôi thì có thói quen đi nghe pháp, học
đạo, do đó theo lý nhập trước, rồi phát triển hạnh nhập sau, còn má
Đều thì chọn con đường hạnh nhập là chính yếu. Tôi thầm nghĩ là con
đường hạnh nhập thực là hay và cao cả.
(Xem tiếp phần 5: Tu học tại
Dharamsala tiếp theo và hết)
Chú thích:
17. Sống đời phạm hạnh nghĩa là sống không có liên hệ ái dục, không
có gia đình vợ con. Cắt ái từ sở thân nghỉa là lìa bỏ ái dục, vì ái
dục khuấy động tâm.
18. Direct insight of the true nature.
19. Sống đời biết đủ, tâm thường định. Người đạt vô cầu, phẩm cách
cao.
20. "Conditio sine qua non": (a condition) without which it could
not be.
21. Tìm xem bài viết Khổ đau và hạnh phúc - phần 3, của cùng tác giả
Không Quán.
22. Roti: tiếng Hindi, một loại bánh mì rất thông dụng của Ấn độ.
23. Quyền giáo: expedient (temporary) teachings, thật giáo: true
(ultimate) teachings. (expedient: suitable for achieving a
particular end in a given circumstance).
24. Non-abiding Nirvana. 25. Duality. 26. Non-dual.
27. Câu này trích ra từ kinh Kim Cang: đức Phật thuyết giảng cách
hàng phục tâm và an trụ tâm, đạt đến trạng thái xả ly, không còn
vướng mắc, chấp trước vào bất kỳ cái gì, xả ly ngay cả các thành
tựu, ngay cả Phật quả. Trong kinh này, đức Phật đã sử dụng biện
chứng pháp “phủ định trên phủ định” để phá bỏ toàn bộ mọi tâm chấp
trước khái niệm, ngay cả chấp trước vào trong cái mà mình vừa mới
phủ định. Trong kinh, có những đoạn như thế "Trang nghiêm cõi Phật
tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm". Cách "phủ định
trên phủ định" nhằm để phá bỏ toàn bộ tâm chấp ngã qua khái niệm:
“cái tôi, của tôi và cái thấy về cái tôi” của các hành giả. Nhờ phá
bỏ toàn diện các tâm khái niệm chấp trước về bản ngã mà các hàng
Bồ-tát mới hàng phục được tâm và an trụ tâm trong “vô sở trụ”. Toàn
bộ kinh được tiêu biểu bằng câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, hán
ngữ
應無所住而生其心”,
đó là điểm then chốt của kinh này.
28. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 1- phần Bảy chỗ gạn hỏi tìm tâm
29. Mental fabication, imputation of the mind. 30. Bỉ dụ nghĩa là so
sánh. 31. Hổ mẫu - tigress.
32. Biến kế, (mental fabrication) như khi đi ban đêm, nhìn cuộn giây
mà tưởng là con rắn.
33. Trích từ cuốn sách: “Phật và Thánh chúng”, tác giả là Cao Hữu
Ðính.
34. Câu 101-104, Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
35. Ấu thuần điểu: chim cút con.
36. The 16 drops of Kadampa.
37. Mahaparinirvana sutra.
38. Pháp hữu vi, anh ngữ là compound phenomena, cũng là composite
things.
39. Pháp hữu lậu, anh ngữ là contaminated phenomena, cũng là
contaminated things.
40. Đây là đại lễ quán đảnh, (tạng ngữ gọi là wang), chứ không phải
tiểu lễ quán đảnh (tạng ngữ là tchenang). Nhưng đại lễ quán đảnh này
không có ban mật pháp hành trì (saddhana Trung Hoa dịch là nghi
quỹ), chỉ có ban hứa nguyện hành trì, (tạng ngữ là damtsig, phạn ngữ
là samaya), xem lời khuyên, phần 4 ở bên trên.
41. Thí dụ như nghĩa địa.
|