Từ Lục Vân Tiên
tới "những Lã Bất Vi thời đại mới"
Trong bài Những “Lã Bất Vi” thời đại mới, (1) Đào Hiếu dùng
“dấu nhấn” là câu viết của nhà văn Nam Tư để nói thay cho suy nghĩ của
anh khi còn ở tuổi thanh niên. Tôi chưa đọc nhà văn nầy nên không biết
lập trường của tác giả dù đã thấy chức vụ “Ủy viên bộ Chính trị đảng
Cộng sản Nam Tư”, do đó nếu có luận bàn tí chút ở đây thì cũng chỉ dựa
câu trích dẫn duy nhất đó của Đào Hiếu!
Tới Tiêu Dao Bảo Cự nói về hai chữ phản tỉnh (2) của anh trong
một bài viết về Lạc đường, khác với cái phản tỉnh mà Đào
Hiếu hiểu. Thôi thì, tôi nôm na theo cách của tôi, là phản/trung và
tỉnh/mê cho dễ.
Đời sống của một người là một tiến trình. Không thể cắt đời sống riêng
rẽ ra từng đoạn như cắt một thân cây. Khi tiến trình sự sống bị chấm
dứt thì đó là cái chết. Tới lúc đó thì “cái quan định luận”. Tuổi hai
mươi có thể đã gây ra án mạng, nhưng đến tuổi bốn mươi nhìn lại, không
thể nuối tiếc là: “nếu” tôi không gây ra án mạng cho nạn nhân thì chắc
chắn nạn nhân đã gây án mạng cho người khác! Và, cũng tuổi bốn mươi,
một tù nhân hình sự bỗng trở thành một nhà tôn giáo được nể trọng cũng
đời thường. Chuyện “vứt dao đồ tể thành Phật”! Những thay đổi có tính
cách bước ngoặt chỉ là một ngả rẽ, một giai đoạn khác, nhưng không thể
không cùng chung trong một cuộc đời!
Nếu câu viết của Milovan Djilas: “hai mươi tuổi mà không theo cộng
sản là người không có trái tim” đúng, thì chắc tôi đã không có
trái tim! Không có trái tim mà còn sống cho đến bây giờ, cũng lạ! Còn
Đào Hiếu, dĩ nhiên là đã có trái tim nhưng bây giờ thì lại phân
vân chuyện lạc đường? Thế mới khổ! Trái tim chỉ về tình yêu,
thuộc cảm tính. Hễ việc gì bị cho là “nhiều cảm tính” thì
y
như là bị
nghi ngờ lệch lạc. Cái nào “nhiều cảm tính” thì cái đó phải xét lại!
Đã viết, người không có trái tim như tôi thì chẳng cần xét lại
(!) cho dẫu suy nghĩ, tư tưởng, hành động tuổi hai mươi của tôi có kết
quả bi đát: chiến bại trước bạo lực! Tôi bỏ của chạy lấy người! Không
phải chạy khơi khơi mà chạy thục mạng! Bương
mà chạy. Bương
thì quí vị
biết rồi: rách nát, máu me, xơ xác, kiệt quệ. Cái tơi tả đó dẫu gì
cũng ở bên ngoài. Còn lương tâm? Khá là thanh thản! Đã làm hết sức của
mình rồi thì đành “tri thiên mệnh”! Tôi không mang một ân hận nào. Tôi
đã làm hết sức mình mà kết quả vẫn tồi tệ! Tôi chiến bại, cứ cho là dở
về tuyên truyền, dở về chiến thuật, chiến lược.... dở đủ thứ. Nhưng
tôi hiểu rõ ràng lý do tôi đã chiến đấu! Mấy câu thơ cũ thời tôi phải
ôm cây súng đã nói lên được đôi điều, nên ghi ra lại đây:
“…Mũi súng vô tình bắn lại trái tim.
Trái tim có lũy tre, cây đa, bóng mát,
Có làng xóm thanh bình, mùa rộn tiếng chim...”
Việc tôi không ngây thơ đó, bây giờ đã sáng tỏ!
Lúc tuổi hai mươi không những tôi đã “cầu nguyện cho bạo chúa sống
lâu” mà cũng dấn thân để bảo vệ cho “bạo chúa”, vì cá nhân bạo chúa
(dù có được cầu nguyện) thì thời gian cũng sẽ đào thải. Còn tổ quốc mà
bị chủ nghĩa cộng sản cai trị thì thiên nan vạn nan mới có thể giải
thoát! Do đó nếu bảo tôi bảo vệ bạo chúa (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu...) thì đấy chỉ là ác ý. Chúng tôi (không phải riêng tôi) vẫn
chống nạn độc tài, thối nát nhưng vẫn dưới danh nghĩa Việt Nam Cộng
Hòa. Sự chiến đấu nầy hoàn toàn không phải để bảo vệ cá nhân bạo chúa,
hay ủng hộ đế quốc Mỹ xâm lược như cộng sản đã tuyên truyền để đánh
lừa dư luận! Rất tiếc, những người tự nhận là trí thức, lại sống ngay
giữa Sài Gòn thời ấy vẫn không nhận ra! Có điều, cá nhân bạo chúa dù
có thối nát, tham nhũng, độc tài, thì cũng chỉ ở mức độ của một
con-người-không-có-đạo-đức, lại có thể thay đổi bằng lá phiếu, còn chủ
nghĩa cộng sản là cả tập thể không có biên giới tổ quốc, không có căn
bản truyền thống dân tộc (vụ Cải cách ruộng đất năm 1956, hay Hoàng
Sa-Trường Sa năm 1958 mới phát hiện gần đây, là thí dụ) mà lại đặt
trên một chủ thuyết không tưởng, một chủ nghĩa cào bằng nhân cách của
người không đồng quan điểm (yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội) đày ải
họ xuống tận cùng như con vật.
Sự đày ải người chống đối của cộng sản Nga, cộng sản Trung quốc mà
đảng cộng sản Việt Nam đã một thời kiêu hãnh gọi là “thành đồng của
chủ nghĩa xã hội”, là biểu trưng.
Tôi vẫn tự an ủi: không phải cái đúng bao giờ cũng chiến thắng!
Giữa Tiêu Dao Bảo Cự và Đào Hiếu, có thể hai anh tự nhận ra nhiều điều
khác biệt.
Với Đào Hiếu thì : “Nhưng cái thời ấy, những trí thức trẻ như Trần
Quang Long, Trần Triệu Luật, Trần Bội Cơ, Hồ Hảo Hớn, Dương Thị Xuân
Quý... và cả những người như anh như tôi đã đi theo cụ Hồ, cụ Giáp,
những người hùng đã làm nên một chiến thắng Điện Biên rực rỡ mà không
ai, kể cả kẻ thù, có thể phủ nhận được.” Đào Hiếu, khi tham gia
hoạt động cộng sản chỉ vì so sánh hình ảnh giữa Hồ Chí Minh, Võ Nguyên
Giáp, với Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu! Đào Hiếu (hay tuổi thanh
niên của Đào Hiếu) đã đơn giản hóa chuyện đất nước, tổ quốc với cá
nhân lãnh đạo. Vào nửa cuối thế kỷ hai mươi mà Đào Hiếu vẫn nhận xét
giống như thời phong kiến: Đất nước là của Trẫm, trung thành theo
Trẫm là trung thành với tổ quốc! Tiếc thay!
Còn Tiêu Dao Bảo Cự thì: “thời đó tôi không lựa chọn vì nghĩ đến Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp hay chủ nghĩa cộng sản. Tôi vốn không tôn thờ
bất cứ thần tượng nào và cũng không có thời gian nghiên cứu sâu về chủ
nghĩa. Đơn giản chỉ vì muốn chấm dứt chiến tranh, chấm dứt sự can
thiệp của ngoại bang, đòi tự do dân chủ, chống bất công áp bức”
cũng khá trùng hợp với cảnh Lục Vân Tiên! Cứ thấy hai bên đánh nhau
trối chết thì nhào vô (không cần biết là chủ nhà đánh với kẻ cướp,
nhưng kẻ cướp lại mồm năm miệng mười, cả vú…) nên thay vì giúp chủ nhà
lại đi giúp kẻ cướp để đòi tự do dân chủ, chống bất công áp bức
và để thôi... đổ máu!
Đào Hiếu quay nhìn lại tuổi hai mươi, vẫn thấy mình vô tội, chỉ nhìn
thấy “Những người cầm quyền cộng sản ở Việt
Nam
hiện nay đã phản bội quá khứ, phản bội xương máu của đồng bào đồng chí
mình. Họ là những người phải hổ thẹn (nếu họ còn biết hổ thẹn) chứ
không phải tôi, cũng không phải anh, không phải những người lính đã
ngã xuống ngoài mặt trận”.
Như vậy Đào Hiếu hoàn toàn không dây mơ rễ má gì với “cỗ máy”! Đào
Hiếu là kẻ giang hồ lãng tử, “giữa đường thấy chuyện bất bình” nên
(Lục Vân Tiên) ra tay, rồi thôi!
Còn“người lính đã ngã xuống ngoài mặt trận” là mặt trận nào?
Nam
hay Bắc? Cộng sản hay quốc gia? Hay cả hai? Khá rõ ở đây là “lính cụ
Hồ”!
Nói về “người lính” thì phải nói về chuyện “chẳng đặng đừng”! “người
lính” không có chọn lựa! Họ bị bắt! “Bắt quân dịch” trong
Nam,
“được trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” ngoài Bắc! (Chỉ riêng cách dùng từ
đã thể hiện bản chất của giới lãnh đạo!) Chỉ có Đào Hiếu, Tiêu Dao
Bảo Cự mới tự nguyện (là nhờ Việt Nam Cộng Hòa có chút tự do dân chủ,
dù trong thời chiến, đã mở cửa tri thức cho quyền lựa chọn) Hai anh đã
thực hiện quyền chọn lựa đó. Cho đến nay, Đào Hiếu vẫn “vô can”, còn
Tiêu Dao Bảo Cự thì đang cố gắng “sửa sai”! Cái khác giữa Đào Hiếu và
Tiêu Dao Bảo Cự là Đào Hiếu lạc đường hay đang phân vân giữa
lạc đường, còn Tiêu Dao Bảo Cự thì không lạc đường ở
tuổi hai mươi, nhưng tuổi bốn mươi lại đang đào xới sửa lại đường (hay
làm thêm?)
Vâng, đường nào cũng là đường. Nhưng con đường của đời sống thì không
thể cắt ra từng đoạn! Vì cắt đời sống có nghĩa là đời sống đó không
còn! Mỗi người trong chúng ta phải cưu mang những quyết định cá nhân
và trách nhiệm với nó cho dẫu đúng/sai. Cho dẫu trẻ/già. Hành trình
của đời sống là bắt đầu từ tiếng khóc chào đời.
Còn tôi, kẻ đứng bên ngoài, để phân biệt được giữa Đào Hiếu với Tiêu
Dao Bảo Cự thì hơi khó, nếu người trong cuộc không nói ra! Cùng dấn
thân thời tuổi trẻ. Cùng ray rứt khi thấy công lao mình lại “đúc nên
cỗ máy nầy” như câu thơ của Bùi Minh Quốc! Tôi, và một số người sống
trong miền
Nam,
không phân biệt được đã đành, mà còn nghĩ họ giống như một cặp song
sinh. Chỉ chính họ nhận biết cái khác nhau, nên nếu đã lập gia đình
riêng (nhưng còn ở chung nhà) thì buổi tối hai bà không đến nỗi chui
vô lộn mùng!
Không có số đông những Đào Hiếu, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Ngọc Lan,
Nguyễn Trọng Văn, Dương Quỳnh Hoa, Lữ Phương, Vũ Hạnh... và cả Nguyễn
Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ… tại miền
Nam
thì (có thể) đã không có ngày
30-4-1975!
Vì cuộc chiến kéo dài chỉ thêm 14 năm nữa thì đã có biến cố “long trời
lở đất”(3) tại Đông Âu! Dĩ nhiên không phải tôi vô cảm trước từng giọt
máu đồng chủng, huống gì thêm 14 năm chiến tranh nữa (!) nhưng những
người, hoặc ngây thơ, hoặc không tưởng, hoặc tham nhũng đã phá nát hậu
phương Việt Nam Cộng Hòa để có thêm biến cố Mậu Thân, có thêm đại lộ
kinh hoàng Quảng Trị, có thêm Mỹ Lai, có thêm chiến tranh khốc liệt...
cho đến khi vòng xích sắt xe tăng Mặt trận Giải phóng miền Nam cán sụp
một góc cổng vào dinh Độc Lập! (Cái trùng hợp khá hay về hiện tình đất
nước nhân vụ đuốc Olympic Bắc Kinh 2008 ở Sài Gòn là “cán sụp… Độc
Lập!”)
Nếu đã nhận ra Những “Lã Bất Vi thời đại” với những
người xách Samsonite được “đảng ta” chào đón: “Ngày nay khi kẻ thù
đến thì chính phủ và kẻ thù ôm hôn nhau, tâng bốc nhau, nâng ly chúc
tụng nhau rối rít. Lại còn quay phim chụp ảnh, đăng báo ca ngợi rùm
beng...” trong khi “trước đây khi kẻ thù đến thì chính
phủ cùng toàn dân tay nắm tay, có gươm dùng gươm, có súng dùng súng,
nằm gai nếm mật, hy sinh xương máu đánh đuổi chúng” trong đó có
bàn tay Đào Hiếu, có Tiêu Dao Bảo Cự và rất nhiều người khác nữa (có
cả người tình cũ của tôi) nhưng từ khi Mặt trận Giải phóng miền Nam bị
bức tử, họ im tiếng.
Những cái xách Samsonite bây giờ và những cái xách Samsonite trước năm
1975 tại miền
Nam
khác nhau thế nào? Tài nguyên đất nước nằm trong những cái Samsonite
nào? Và “bọn” lãnh đạo thời đó tại miền
Nam
và các quan ngài bây giờ ai là người tôn trọng địa vị, nhân phẩm của
người dân hơn? Ai nhân danh “là người đại diện ưu tú cho tầng lớp
công nhân, nhân dân lao động” (?) nhưng hàng vạn công nhân, nhân
dân lao động đang bị bóc lột tàn tệ, phải đi lao nô nước ngoài, phải
làm nô lệ tình dục tại Đài Loan, Đại Hàn, cha mẹ “liệt sĩ” mất đất,
mất nhà phải xuống đường đòi quyền sống mà đảng lại kết án là không có
một vụ phản đối nào hợp pháp cả?
Đào Hiếu tuổi hai mươi đã lên đường với bàn tay trắng, với trái tim
tin yêu, vì hình ảnh ông Hồ, ông Giáp thì Đào Hiếu bốn mươi sao lại
chỉ phân vân giữa ngã ba đường “tình”, đứng nhìn căm phẫn kẻ bội phản?
Cứ đứng đó mà phân tích. Cứ đứng đó mà lên án. Cứ đứng đó mà nầy nọ...
thì cho dù Đào Hiếu đã có một lạc đường biết đâu lại không lạc
đường thêm lần nữa?
Thế thì phản tỉnh hay không phản tỉnh, phản/trung hay
tỉnh/mê là nhận thức được đúng/sai và chịu trách nhiệm để thay đổi
(hay sửa đổi) nó trong cả một đời người chứ không thể cắt ra từng giai
đoạn!
Nói với các anh, tôi không mang hận thù để tự hại bản thân. Cho dẫu
bản thân và gia đình đầy gian khổ, đắng cay nhưng tất cả đã trôi qua.
Lương tâm tôi thật thanh thản. Và, cũng nhờ không mang thù hận nên
tôi đâu có cần chuyện hòa giải hay hòa hợp?
Hiện tại tuy cộng sản chiêu dụ được đôi người, như Nguyễn Cao Kỳ, Phạm
Duy... để quảng cáo cái gọi là hòa giải hòa hợp, thì về nhân cách của
các nhân vật nầy, ngay cả thời điểm trước 1975, phẩm giá ông nào cũng
chưa được xếp hạng tới loại… trung bình! Riêng Phạm Duy thì cứ hỏi ông
Nguyễn Trọng Văn về Phạm Duy đã chết như thế nào sẽ rõ hơn!
Cách tốt nhất là sống thật lòng, vì mọi người sẽ nhìn thấy, còn kiểu
dùng chữ với nghĩa của đảng cộng sản Việt
Nam,
đã rỗng, lại nước đôi.
Có chăng, vì hơn nửa thế kỷ cai trị hà khắc và gian dối nên ai đó
không yên lòng trước khối tài sản khổng lồ ngày đêm họ đang thi nhau
đục khoét được và trước hậu quả của thù hận trong tương lai sắp tới,
mới đặt thành vấn đề.
Đào Hiếu đã yêu nửa câu nói đầu của Molivan Djilas thì chắc phải yêu
trọn phần hai của câu nói: "Bốn
mươi tuổi mà không bỏ cộng sản là người không có cái đầu."
Vâng! Nhưng bỏ không đồng nghĩa với phủi tay! Bỏ là phải can đảm nhận
trách nhiệm với nạn nhân của tuổi hai mươi mà mình đã nhúng vào!
Đất nước Việt
Nam
vẫn là đất nước Việt
Nam.
Người dân Việt Nam
vẫn là người dân Việt
Nam
cho dẫu lưu lạc năm châu bốn bể! Nhưng cái gì và ai làm họ tản lạc tứ
xứ? Thương yêu thì đoàn tụ, còn thù hận phải tan tác. Lịch sử Việt
Nam
có cuộc chia ly nào “vĩ đại”(4) hơn? Tại ai? Vì đâu? Trong đó chắc
phải có phần của những Lục Vân Tiên thời đại!
(June
24, 2008)
_________________________________________________________________
(1) Những “Lã Bất Vi “ thời đại mới (Đào Hiếu, Talawas
16-6-2008)
(2) Từ lạc đường, phản tỉnh đến những Lã Bất Vi (Tiêu Dao Bảo Cự,
Talawas
21-6-2008)
(3) chữ chính quyền Hà Nội dùng trong thời “Cải cách ruộng đất”.
(4) chữ đảng cộng sản Việt
Nam
thích dùng.