Về một
NỀN DÂN CHỦ
PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Lê Minh Văn
Phần I : QUAN ÐIỂM
Chương 1: Nền văn hoá chính trị Việt Nam - Khổng Giáo và
Trung Quốc
A.
Khi nước Tàu thức giấc
A1. Khổng giáo, nghệ thuật cai trị
A2. Cách mạng Trung Hoa và nước Tàu hai mặt, hai
tốc độ
A3. Chủ nghiã xã hội với màu sắc truyền thống TH
B. Khẳng lập một nền văn hoá chính trị mới cho VN
B1. Cấu trúc xã hội và con người VN
B2. Sắc thái tôn giáo-văn hoá-xã hội đặc thù VN
B3. Ðịnh hướng sinh tồn cho VN
B4. Văn hoá chính trị Việt Nam trong tương quan
với Trung Quốc và Khổng Giáo
C.
Xây dựng một nền giáo dục thích hợp cho dân chủ hoá
Lịch sử Việt Nam thường gắn liền với lịch sử Trung Quốc. Nền
độc lập và diễn trình tiến hoá của dân tộc thưòng bị tác động
bởi ảnh hưởng xa gần của người láng giềng vĩ đại phương Bắc.
Tương quan Việt Nam - Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử là một
tương quan đối nghịch thường trực trong hướng đi tìm thế tồn tại
độc lập của một nước nhỏ hiếu hòa mà dũng cảm bên cạnh tham vọng
bá quyền nước lớn. Tuy nhiên thế chung sống hòa bình trong một
phạm trù ý thức hệ của thời kỳ cộng sản Việt Nam lại thể hiện
dưới khía cạnh này hoặc khiá cạnh khác như một thời kỳ lệ thuộc.
Thật vậy, cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo
của đảng Cọng sản Việt Nam hầu như đặt dưới sự bảo trợ toàn bộ
về lý thuyết "cách mạng dân tộc dân chủ" cũng như vũ khí tài
nguyên vật lực của Trung Quốc. Chiếm được miền Bắc sau hiệp định
Genève cũng tiến hành cải cách ruộng đất theo kiểu mẫu Mao, và
biến các đơn vị hành chánh làng, ấp thành "đội sản xuất". Trong
cuộc đấu tranh chính trị, quân sự với thế giới tư bản cũng coi
"đế quốc Mỹ" là cọp giấy; và sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
sụp đổ cũng theo chân Trung Quốc xây dựng "thị trường Xã hội chủ
nghĩa" với nền kinh tế đa thành phần trong đó đảng Cọng sản vẫn
nắm độc quyền chính trị.
Do đó, phân tích đối chiếu những tính chất
văn hóa, địa lý và lịch sử chính trị hiện đại của hai quốc gia
từng có một quá khứ thù địch lâu dài nay lại phải tạm kết liên
thân phận dưới ngọn cờ ý thức hệ Mác, Lênin, Mao để có thể cùng
bảo toàn đảng chuyên chính giai cấp trong một khung cảnh thế
giới mới đã hoàn toàn đổi thay sẽ làm nỗi rõ những hướng đi
chệch chọang, nguy hiểm; đặc biệt đối với Việt Nam đang bị kẹt
giữa hai thế lực đối kháng của thời đại là Mỹ và Cọng hòa nhân
dân (CH/ND) Trung Hoa.
Việt Nam trên con đường tiến đến tương lai
của thiên niên kỷ thứ ba phải chọn lối đi nào hiện chẳng ai tiên
đoán được chính xác; nhưng bằng vào những thể nghiệm chính trị
và kinh tế qua những năm "đổi mới", con đường dân chủ hoá đất
nước để thúc đẩy những phát triển, phục vụ hướng cải thiện và
tăng trưởng đời sống quần chúng về mọi mặt xét ra là con đường
thích hợp nhất trong một thế giới mà những điều kiện dân chủ đã
chứng tỏ nhu cầu cần và đủ của nó nếu không muốn bị vĩnh viễn
gạt ra bên lề tiến hoá.
Trung Quốc đang tiến vào kỷ nguyên 2000 với
một sức phát triển kinh tế quốc gia mạnh mẽ sau hàng ngàn năm
đóng băng trong tư tưởng Khổng giáo lệch lạc chỉ tập trung vào
hướng bảo vệ lợi quyền của tầng lớp vua chúa quan lại. Trung
Quốc ngày nay đang tìm đường hội nhập với thế giới bên ngoài
bằng những xảo thuật "màu sắc Xã hội chủ nghĩa với đặc tính
Trung Hoa" gồm thâu trong tư tưởng Khổng giáo nhân danh lợi ích
tập thể dưới sự lãnh đạo của đảng độc tôn. Nhưng khác với Việt
Nam có những điều kiện thuận lợi hơn để dân chủ hoá đất nước
trong một viễn tượng êm ả khi những phản lực và sức ì bị chinh
phục; thì ngược lại truyền thống Trung Hoa sẽ phải chịu những
thử thách đau đớn và lâu dài để gột rửa dần khuynh hướng "Khổng
giáo lịch sử" đã trở thành chính thống hoá với Ðổng Trọng Thư
đời nhà Hán ở thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, và trong những
tương quan quyền lực quân/thần, vua/tôi, kẻ trên/người dưới,
nam/nữ... luôn luôn có lợi cho những kẻ trên trước. Truyền thống
ấy đã trở thành chai cứng trong các giai tầng của xã hội Trung
Hoa, trở thành những giá trị trật tự bất di dịch; và rất phù hợp
với lợi ích chuyên chính của đảng Cọng sản Trung Quốc hiện tại.
Cho nên trong một tương lai có thể còn lâu dài, khuynh hướng hồi
phục những giá trị cổ Trung Hoa dưới màu sắc Khổng giáo có lợi
cho những tương quan quyền lực có thể là hướng đi chọn lựa của
nước Trung Hoa trong bối cảnh tâm thức một nền văn hoá khép kín
mang tính đối kháng với những khuôn mẫu đến từ tư tưởng khai
phóng phương Tây. Bên cạnh những điều kiện nghiệt ngã ấy của
Trung Quốc, Việt Nam có thể tìm thấy một lối thoát bằng con
đường dân chủ hoá toàn bộ đất nước và khai phóng con người để
vĩnh viễn thoát ra khỏi thế lệ thuộc Bắc phương, khẳng định một
hướng đi hoàn toàn mới trong niềm tự hào chính đáng của dân tộc?
Dấu hỏi này quá lớn đối với sức hiểu biết hạn hẹp của tác giả.
Cho nên những vấn đề đặt ra ở đây chỉ là những suy nghĩ gợi ý,
mà không phải là thâm cứu, về khía cạnh xã hội chính trị của tư
tưởng Khổng giáo đã thẩm nhập vào tư tưởng và xã hội truyền
thống Việt Nam. Cũng trong bối cảnh của thế giới hiện tại, Việt
Nam đang đứng trước nhu cầu cấp bách phải khẳng lập cho mình một
tư tưởng văn hoá chính trị thích nghi trong thế tranh chấp văn
hoá của thế kỷ. Sau cùng là lược giải một cái nhìn tổng hợp về
cải cách giáo dục làm nền cho tiến trình dân chủ hoá đất nước.
Chương I
Nền
văn hóa, chính trị Việt Nam
Khổng giáo và Trung quốc.
A. KHI NƯỚC TÀU THỨC GIẤC :
Sau cuộc tháo chạy của Tưởng Giới Thạch ra
Ðài Loan, Mao Trạch Ðông đã nghiễm nhiên trở thành vị hoàng đế
mới của lục địa Trung Hoa. Nhà cách mạng gốc nông dân này là một
con người đầy tham vọng. Từ năm 1938 ông ta đã từng viết "tổ
quốc của chúng ta có một lịch sử dài nhiều nghìn năm, hội tụ
những tính chất đặc thù và cung ứng những gía trị mênh mông.
Dưới góc cạnh đó chúng ta chưa xứng đáng là người học trò nhỏ.
Nước Trung Hoa hôm nay sản sinh từ sự phát triển của nước Trung
Hoa quá khứ đang hội nhập vào lịch sử bằng chủ nghĩa Mác. Chúng
ta không thể ngắt quảng giòng lịch sử đó... Chúng ta phải khảo
sát thật chính xác những hệ quả quá khứ từ Khổng Tử đến Tôn Dật
Tiên mà tiếp nhận sự thừa kế vinh quang..."
Mao đã làm cuộc vạn lý trường chinh để phát
triển lực lượng và phản công Quốc Dân đảng, chiếm lấy nước Tàu.
Mao chủ trương một nền chuyên chính vô sản với đòi hỏi bình đẳng
tuyệt đối; cá nhân bị lột sạch nhân tính để hòa vào tập thể, xóa
bỏ sự phân biệt giữa trí thức và chân tay để trong đầu chỉ còn
mỗi "tư tưởng Mao"! Tham vọng đó đã đẩy Mao tới chỗ xem Khổng
Phu Tử là kẻ đại thù; cấm sách Nho để người Trung Hoa chỉ còn
đọc “tiểu Hồng thư” như kinh nhật tụng. Ðôi khi Mao đã xuất hiện
dưới cung cách của Tần Thủy Hoàng; và vợ kế của ông ta, bà Giang
Thanh, hệt như Vũ Hậu hoặc Từ Hy Thái Hậu là hai người đàn bà
lừng danh trong lịch sử Trung Quốc.
Mao đã xem nền văn hoá cổ như một thứ văn hóa
phong kiến; các nền văn hoá chuyển tiếp và xét lại như loại
"văn hoá tư sản phản động". Nhưng nền văn hoá gọi là "vô sản"
của ông cũng chẳng khá hơn. Dẫu người nông dân trở thành "kẻ cầm
lái vĩ đại" có tham vọng gom hết tư tưởng Mác, Ăng ghen, Lênin
thành tư tưởng Mao như ông ta đã từng viết: "chúng ta chỉ áp
dụng chủ nghiã Mác bằng cách hội nhập nó vào những đặc tính cụ
thể của đất nước (Trung Hoa) dưới hình thức một thứ "chủ nghĩa
quốc gia" thì nó vẫn quá xa lạ với hồn Trung Hoa, ngôn ngữ hàng
ngàn năm và thiếu hẳn tầm vóc cần thiết để thay thế các nền văn
hóa cổ, văn hoá chuyển tiếp và văn hoá xét lại. Ba mươi năm
"cách mạng vô sản" với hàng chục triệu người chết và bị cầm tù
cũng chẳng đi đến đâu. Những thất bại hiển hiện của bước "đại
nhảy vọt về phiá trước" và những thãm họa của "cuộc cách mạng
văn hoá vô sản" đã bóc sạch người Trung Hoa thành trần trụi,
tuyệt vọng và mất hết niềm tin. Nhiệt tình cách mạng lúc đầu đã
nguội lạnh, để nhận thức một cách cay đắng rằng cái nền văn hoá
mới đó có những ngữ vựng lạ lùng, khó nghe trong chiếc nôi văn
hoá cổ đến cả hàng ngàn năm...
Cho nên thời "hậu Mao" với chủ trương "hiện
đại hoá" đã là chiếc chìa khóa duy nhất ra khỏi cửa tử. Không
những phe cải cách của Ðặng Tiểu Bình mà cánh bảo thủ Trần Vân,
Lý Bằng đều chủ trương hồi phục những giá trị cổ để tái lập một
trật tự chính trị mới với tư tưởng truyền thống Trung Hoa mà
Khổng tử đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc hệ thống hoá
nhằm hình thành một trong ba giòng tư tưởng chính tồn tại mãi
với nước Trung Hoa thiên niên.
A1. Khổng giáo, nghệ thuật cai trị :
Khổng giáo không phải là một hệ tôn giáo bình
thường mà là "đạo" của một trật tự phong kiến dựa trên sự tuân
phục của con đối với cha, của vợ đối với chồng trong gia đình;
của người thứ dân đối với quan lại trong đẳng cấp xã hội; và sau
chót của tầng lớp cai trị đối với quân vương. Cửa Khổng dạy môn
sinh lòng tận tụy và nghệ thuật đạt đến mục tiêu công ích.
Khổng Phu Tử sinh ở nước Lỗ năm 552 và mất
năm 479 trước Công Nguyên. Người khai sáng Nho giáo đã nói thật
khiêm nhường: "Ta chỉ truyền đạt mà chẳng có phát kiến gì cả".
Nhưng từ chỗ hệ thống hoá tư tưởng chính trị cổ cô đọng trong
"ngũ kinh" (Dịch-Thư-Thi-Lễ và kinh Xuân Thu) bậc thánh hiền bất
tử đã mặc nhiên sáng tạo một đạo trị quốc cho hàng vương tôn
công tử và kẻ sĩ Trung Hoa học tập trong hàng hai nghìn năm trăm
năm. Sau khi ông qua đời, các đại đệ tử từ các hệ phái khác nhau
đã cô đọng học thuyết của tôn sư trong "tứ thư" (Luận Ngữ- Ðại
Học- Trung Dung và Mạnh Tử).
Trần Trọng Kim khi khảo sát về Nho giáo đã
kết luận "nền tảng giáo dục của Nho giáo vẫn dựa trên đức dục
làm gốc (trí dục chỉ là ngọn), do Nho giáo chú trọng vua quan,
bởi vận nước thịnh hay suy quan hệ ở những người ấy. Nếu không
được giáo dục, không nhân, nghĩa, lễ, trí (và tín) thì thành ra
bọn đạo tặc dùng cái cơ thuật gian trá làm hại thiên hạ" Cho nên
các trưòng phái lớn của Khổng giáo, dù khuynh hướng Mạnh Tử,
Tuân Tử, Ðổng Trọng Thư hay Chu Hi... qua các biến thiên của các
triều đại, đều chú trọng đến chữ "Nhân" trong các hình thái giáo
dục con người.
Chữ Nhân đứng trước các giá trị khác của nhà
Nho đã thành cái gốc của người quân tử, và cũng là cái gốc của
nghệ thuật cai trị qua câu nói của Khổng tử: "nếu bậc quân vương
đạo đức ngay thẳng cần gì phải dùng đến Lệnh (Luật) buộc dân
chúng thi hành. Vì khi ông ta không chính chuyên, dù có áp đặt
lệnh cũng vô ích, sẽ chẳng có ai theo". Sách Luận Ngữ cũng có
lời Phu Tử về đạo trị quốc: "Vương đạo đem lại hạnh phúc cho
bàn dân và thu phục người" trong lúc "nền chuyên chính chẳng
khác gì cọp dữ".
Ðối kháng với mẫu người quân tử, hiền nhân
của Khổng Tử là tư tưởng "pháp gia" bắt nguồn từ tướng quốc Quản
Trọng đến người kế vị ông là Án Tử (Yến Anh) ở nước Tề, Tử Sản
của nước Trịnh, thừa tướng Lý Tư của Tần Thủy Hoàng, và đặc biệt
hai nhà đại tư tưởng Công Tôn Uyển và Hàn Phi Tử cũng ở nước
Tần. Họ đều chủ trương trật tự và an bình xã hội không do bởi
hiền tài mà nhờ ở pháp luật chặc chẽ, theo nguyên tắc "nếu hình
phạt nặng sẽ chẳng ai dám phạm, và do đó khỏi cần dùng đến nó".
Mao Trạch Ðông đã bỏ Khổng Tử mà tôn vinh Tần
Thủy Hoàng, sùng bái Hàn Phi Tử là nhà tư tưởng gần gủi nhất với
các chế độ toàn trị của thời đại chúng ta. Ai cũng hiểu Mao ca
ngợi bạo chúa Tần Thủy Hoàng để biện minh cho nền chuyên chế tập
quyền khắc nghiệt và sự thủ tiêu những đặc quyền, đặc lợi của
những chính quyền địa phương mà Mao xem như những đặc trưng của
xã hội Khổng tử cần phải đập phá tận gốc. Với Mao, nhân đức
chính trị kiểu Khổng chỉ là bịp bợm để ru ngủ quần chúng, vì xã
hội không thể tiến bộ được với kiểu "thi ân bố đức" và giữ lễ;
mà chỉ qua một cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ. Vào
những năm cuối đời "hoàng đế đỏ" đã đứng hẳn vào phái pháp gia,
tập trung quyền hành hết về trung ương với luật pháp khắt khe
của một chế độ xã hội chủ nghĩa toàn trị.(1)
A2. Cách Mạng Trung Hoa và nước Tàu hai mặt, hai tốc độ :
Nước Trung Hoa thuộc nền văn minh nông
nghiệp. Ðất rộng, người nhiều nhưng có đến 90% nông dân canh tác
trên những mảnh đất không thuộc về họ. Thiểu số điền chủ gom hết
đất đai trong tay tạo thành một tầng lớp cường hào ác bá khủng
khiếp. Cuộc cách mạng ruộng đất do đó là vấn đề sinh tử của nước
Tàu ở mọi thời đại.
Tôn Dật Tiên đã xóa bỏ chế độ phong kiến, đem
đất cấp cho người canh tác, nhưng từ chối kiểu tái phân lợi tức
Mác xít. Mao kế tục sự nghiệp, thực hiện đại nhảy vọt với các
công xã nhân dân đẩy quần chúng vào cùng cực tai họa. Và nếu
không có Chu Ân Lai mở cửa ra với thế giới phương Tây, đón tiếp
Kissinger, Nixon, Tanaka và bình thường hoá quan hệ ngoại giao
với Pháp thì có lẽ nước Tàu đã sụp đổ với Cách Mạng Văn Hoá vô
sản (2).
Lịch sử thời kỳ mở cửa sau Mao mang đậm nét những đặc tính sau
đây :
A2a. Sự trở lại các trạng thái phong kiến
thái ấp :
Xã hội Trung Hoa ở hạ tầng quận huyện trở xuống nông thôn đang
hồi phục sắc thái phong kiến cổ. Tầng lớp cán bộ địa phương
tương đối có học hơn quần chúng nông thôn đang khoác áo quan lại
mới Khổng giáo trong vai trò đa dạng từ luật pháp đến chính
trị, kinh tế và xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó một tầng lớp
hào phú mới xuất thân từ nông dân nhờ biết khôn khéo làm ăn, lợi
dụng thời thế mới của sự bột phát kinh tế ở các miền duyên hải
để làm giàu. Họ đầu tư vào những xí nghiệp sản xuất nhỏ, giao
thông, mua bán hạt giống, phân bón... Tầng lớp quan lại mới dĩ
nhiên có quyền lợi thiết thân gắn liền với những người giàu mới,
nhưng trước đại bộ phận quần chúng càng ngày càng nghèo đi lương
tâm họ cũng áy náy. Do đó nền chuyên chính vô sản đã được nới
lỏng với tầng lớp quần chúng đa số đã bị đẩy xuống tận cùng
nghèo đói và bất công. Xã hội nông thôn Trung Hoa thay đổi bộ
mặt công xã, nhưng vẫn rõ nét phong kiến thái ấp của một xã hội
khép kín trong đó tầng lớp quan lại mới tha hồ thao túng qua sự
tiếp tay của tầng lớp dân chúng bậc trên là các nông dân phú hộ,
hoặc cường hào. Ðặc tính này không khác mấy với cách vận hành
của các nhà nước hành chánh thời phong kiến. Tầng lớp quan lại
không đủ đông và không có những phương tiện dồi dào trước những
nhiệm vụ nặng nề và những nhu cầu to lớn của địa phương buộc họ
phải cai trị trên nguyên tắc thỏa hiệp với những "nhà nước nhỏ"
của địa phương là các "trí, phú, địa, hào"; còn tuyệt đại bộ
phận quần chúng thì mặc nhiên chấp nhận nguyên tắc "tự nguyện bị
trị".
A2b. Tính tự trị của các đơn vị kinh tế:
Các xí nghiệp quốc doanh, các cơ sở hành chánh, giáo dục thực sự
là những tiểu cộng đồng xã hội có tính độc lập, tự cung tự túc
trong lòng xã hội Trung Hoa. Các đơn vị này có chính sách kinh
tế độc lập, có lề lối quản lý riêng biệt trong mọi hoạt động
kinh doanh, cũng như trách nhiệm mọi mặt về đời sống các thành
viên qua các lãnh vực cung cấp lương thực, thực phẩm, giải quyết
mọi vấn đề sức khỏe, giải trí...
Sự cạnh tranh ác liệt giữa các đơn vị kinh tế
trong cơ chế tư bản rừng rú, cũng như sự canh tranh giữa làng
này với làng khác, xã này với xã khác, và cả tỉnh này với tỉnh
khác đã phân chia nước Tàu thành những tiểu cộng đồng riêng lẽ
với những "nhà nước thái ấp" nắm trong tay nhiều quyền hành
quyết định.
Với sự giải thể ào ạt các xí nghiệp quốc
doanh vì thua lỗ và vì nhu cầu tái cấu trúc cho phù hợp với kinh
tế thị trường, hàng trăm ngàn công nhân đã bị vứt bỏ ra bên lề
xã hội, hoặc được bồi thường với số tiền bảo hiểm thất nghiệp
chết đói. Nhưng không phải người công nhân nào cũng được hưởng
số trợ cấp nhỏ nhoi này. Cho đến bây giờ, chỉ có 14% công nhân
Trung Hoa được hưởng bảo hiểm thất nghiệp của xí nghiệp (11%
trong lãnh vực công kể từ thời Mao). Năm 2005, chỉ có 17% đóng
tiền cho qũi hưu bổng trong hệ thống công quyền để sẽ được lãnh
trợ cấp hưu khoảng 20% lương trung bình của địa phương, bất kể
mức lương cao thấp khác nhau tùy theo chức vụ lúc còn tại chức
(Quand la Chine a besoin de socialisme - Le Monde 26-27/11/06).
A2c. Sự tự hào mù quáng về nền văn hoá
cổ :
Sự tự hào mù quáng về nền văn hoá cổ
là tâm lý phổ quát nơi mọi tầng lớp dân chúng. Sau đam mê
cách mạng buổi đầu, những thãm hại của đại nhảy vọt và tính chất
hổn loạn đẫm máu của Cách mạng Văn hoá vô sản đã làm người Trung
Hoa chán chường, ghê tởm những ý thức hệ ngoại nhập Mác, Ăng
ghen, Lênin, dù Mao đã khéo léo tuyên truyền những tính chất
Trung Hoa của các tư tưởng này. Tư tưởng dân chủ phương Tây chỉ
được biết đến nơi một thiểu số nhỏ nhoi của những trí thức hoặc
tầng lớp cao của xã hội có kiến thức hoặc cơ hội chiêm nghiệm;
tuyệt đại bộ phận quay về những giá trị cổ, xem đó là những
khuôn thước vĩ đại chính thống Trung Hoa, vượt trội những tư
tưởng khác ở bên ngoài. Khổng giáo từ đó dành lại chỗ đứng tuyệt
đối của nó trong đời sống xã hội, chính trị và tư tưởng Trung
Hoa.
A2d. Tính tự trị của các địa phương :
Tính tự trị của các địa phương phát triển qua cơ chế kinh tế thị
trường, một số các địa phương đã tăng trưởng mạnh và từ đó có
khuynh hướng coi thường trung ương. Có thế, có lực và giàu có
nhờ tài nguyên, nhân lực địa phương, các tỉnh, nhất là ở đặc khu
kinh tế duyên hải thể hiện rõ nét xã hội truyền thống. Các thành
phố ở miền duyên hải Ðông Nam đã phát triển với tốc độ chóng
mặt, có nơi đã từng vươt qua chỉ số 20% mỗi năm, ngày nay trung
bình ở mức ổn định 9-10%, được xem như xuất số phát triển cao
nhất thế giới. Các chính quyền địa phương nắm trong tay khối tư
bản kếch xù và thế lực chính trị mạnh mẽ thường có khuynh hướng
coi thường trung ương chứ không phải như thời Mao nhất nhất phải
chờ chỉ thị từ trung ương bộ chính trị trong khung cảnh một cơ
chế bao cấp tuyệt đối.
Do thiếu những định chế tài chánh thuế khóa
hữu hiệu và chính xác, phần thu nộp cho công khố quốc gia trên
các thu nhập của các địa phương đã suy giảm nghiêm trọng. Nhà
nước trung ương thường phải cầu viện các tỉnh thành ở đặc khu
kinh tế đã làm cho tính tự trị ở vùng này càng rõ nét. Tâm lý
gắn bó với địa phương với những vấn đề riêng lẽ của nó ngày càng
mạnh hơn và nhiều khi thể hiện một tình trạng phân liệt đáng
ngại. Cuộc "chiến tranh luá gạo" giữa hai tỉnh Quảng Ðông và Hồ
Nam năm 1990 là một thí dụ. Tỉnh Quảng Ðông từ lâu vẫn có thói
quen mua luá trực tiếp từ các nông dân Hồ Nam với giá rẻ hơn
nhiều giá qui định chính thức của chính quyền tỉnh này. Năm 1990
Hồ Nam ra lệnh chận bắt các đoàn xe thu mua của Quảng Ðông khiến
tỉnh này nỗi giận tính huy động quân đội can thiệp. Năm 1992
tỉnh Quảng Ðông còn đi xa hơn trong thế "tự trị" của mình qua
việc từ chối nhận phần xăng dầu của trung ương với giá cao hơn
giá qui định chính thức trên văn bản. Bị đe dọa cúp "quota",
tỉnh đã phái một tàu dầu mua thẳng ở Kowet mà chính quyền trung
ương chẳng làm gì được (3).
Tính tư trị tự quản trong một thành phố lớn
nhất thế giới như Thượng Hải bây giờ đang phơi bày một nền quản
lý lệch lạc trong đó chính quyền địa phương toàn quyền trưng mua
đất đai tư nhân cho những nhu cầu phát triển đã đặt ra những vấn
đề trầm kha của một trong những nền kinh tế phát triển sinh động
nhất thế giới nhưng không ngần ngại hy sinh quyền tư hữu của
người dân thấp cổ bé miệng. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy
trong những chiến dịch chiếm đoạt đất tư hữu này phần lớn viên
chức của chính quyền Thượng Hải đều có dính líu, lợi dụng quyền
hạn để chiếm đọat đất đai cho riêng mình!
A2e. Cách biệt trầm trọng giữa Duyên hải và
Nội địa:
Sự cách biệt trầm trọng giữa các vùng duyên hải và
nội địa là hệ qủa trực tiếp của khuynh hướng tự trị của
các địa phương. Nước Trung Hoa vô hình chung đã chia làm hai với
hiện đại hoá. Phần nội địa sâu kín là nước Tàu cổ truyền thống,
nông thôn nghèo đói với lợi tức bình quân đầu người không bằng
1/10 ở miền duyên hải công kỹ nghệ và dịch vụ ở Ðông Nam. Theo
thống kê năm 2004, lợi tức bình quân tính trên đầu người đã tăng
6,8% so với 2003, trong đó bình quân vùng bên ngoài các đô thị
là 2936 yuans # 272 € so với 9433 yuans # 874 € ở vùng đô thị
nói chung (Expansion 25/01/05). Ðời sống cách biệt với cơ cực
chịu đựng ở nội địa và tiêu thụ điên cuồng, xa hoa phù phiếm ở
các tỉnh thành duyên hải đã hình thành hai lối suy nghĩ khác
nhau. Một bên đua đòi phương Tây ở lối sống vật chất; và sâu kín
bên trong, người nông dân Trung Hoa tự an ủi mình với lối sinh
hoạt thanh bạch của thánh hiền và nỗi tự hào không thật về những
giá trị Trung Hoa truyền thống! Rõ ràng là đất nước mênh mông và
dân tộc đông đúc nhất hành tinh này đang sống hai mặt, đang lớn
lên với hai tốc độ cách biệt, không đồng bộ, trong ý thức chung
về một nỗi tự hào cay đắng của một nền văn hoá tự cho là hơn
hẳn, nhưng thiếu thực tế về kỹ thuật và quá chậm tiến so với
phương Tây. Tâm lý này vẫn còn đang kềm hãm nước Trung Hoa trong
thế dằng co, và làm cho phần thế giới còn lại lo ngại.
Mao Trạch Ðông muốn làm cuộc cách mạng trước
hết ở nông thôn, rồi tiến dần ra đô thị làm cuộc hiện đại hoá
đồng bộ. Nhưng sách lược Mác-Lênin và chuyên chính vô sản đã
thất bại vì không ứng hợp với truyền thống Trung Hoa. Với hiện
đại hoá Ðặng Tiểu Bình đã đưa nước Tàu thời hậu Mao tiến lên dần
hàng cường quốc. Tổng sản lượng quốc gia từ 97,8 tỉ US$ năm 1970
lên 294,3 tỉ năm 1980 và qua 1991 tăng vọt lên 422,4 tỉ với đà
tăng trưởng mạnh mẽ của các đặc khu kinh tế do Ðặng sáng lập để
rồi vọt lên 1645 tỉ US$ năm 2004 và 2263,8 tỉ US$ năm 2005. Phân
tích về sản lượng gộp ấy, ta sẽ thấy một sự chuyển đổi sâu sắc
giữa các khu vực kinh tế. Nông nghiệp chiếm 39,4% tổng SL/QG năm
70, đến 91 chỉ còn 28,4%. Kỹ nghệ không thay đổi quan trọng, từ
42,3% nhích lên 44,3% trong lúc dịch vụ đã phát triển mạnh từ
18,3% năm 70 lên 27,3% năm 91 do đầu tư người và của từ ngoại
quốc đổ vào...
Theo l’Observateur OCDE (Organisation
Coopération et de Développement Economiques = Tổ chức Hợp Tác và
Phát Triển Kinh Tế) tháng 06.2002, sự tăng trưởng vượt bực của
nước Tàu không đồng đều cho mọi người Trung Hoa. Trong thực tế
từ 1983-2000, tổng số 440 tỉ đô la đầu tư phần lớn đổ vào các
vùng duyên hải Ðông Nam, thu hút 88% đầu tư trực tiếp so với 9%
cho miền Trung và chỉ 3% cho miền Tây Trung Hoa. Sự cách biệt
khổng lồ này không những là mối đe dọa trầm kha cho tính liên
đới quốc gia mà còn ảnh hưởng nặng lên cơ cấu phát triển cân
bằng và ổn định trong một nền kinh tế toàn cầu hoá. Cựu thủ
tướng Chu Dung Cơ đã ý thức vấn đề, nhưng nhận biết là rất nan
giải và phải quyết tâm trong dài hạn, ít ra cũng vài ba chục
năm. Tháng 01.2000, nhà nước Trung Hoa tung ra “đại chiến lược
phát triển miền Tây” hướng đầu tư ngoại quốc và tư nhân vào các
vùng nghèo đói này. Riêng chính phủ đã huy động 45,5 tỉ US$ cho
việc phát triển giao thông và các hạ tầng cơ sở phát triển. Tuy
nhiên vấn đề to lớn hơn nhiều so với số tiền chi ra. Nước Tàu
nội địa bao gồm 56% diện tích và 23% dân số cả nước. Thế mà lợi
tức bình quân không quá 60% mức trung bình toàn quốc. Sự cách
biệt không ngừng gia tăng. Tỉnh Giang Tô chẳng hạn, thu nhập
bình quân của người dân từ 84% lợi tức trung bình quốc gia năm
1980 đã tụt xuống còn 56% năm 1999. Tài nguyên nhân vật lực của
vùng phiá Tây nằm trong nội địa không thiếu. Nhân công rẽ và có
tay nghề của các công binh xưởng quân đội ngày trước chưa khai
thác được. Ở Trường An hay Thành Ðô có những trường đại học lớn
và các trung tâm nghiên cứu khoa học. Tài nguyên thì có dầu hỏa,
gaz, khoáng sản trong vùng Thanh Hải, Tân Cương. Tỉnh Tứ Xuyên
là vựa thóc gạo hàng đầu. Những thắng tích du lịch nỗi tiếng của
vùng này thu hút rất nhiều du khách... Tuy nhiên số tư bản ít ỏi
của tư nhân miền Tây, cũng như chất xám của giới trẻ có khuynh
hướng đổ về miền duyên hải do chính sách ban đầu của nhà nước
Trung Hoa là dồn sức phát triển miền duyên hải phiá Ðông với hy
vọng là sức tăng trưởng mạnh ở đây sẽ làm đầu tàu kéo cả nước
phát triển.
Sản lượng nông nghiệp đã giảm hẳn từ thời Mao
qua thời Ðặng Tiểu Bình. Với hiện đại hoá một bộ phận nông dân
đã chuyển sang các ngành dịch vụ có thu nhập cao hơn, hoặc đi
kiếm việc làm ở các xí nghiệp tiêu dùng ở địa phương. Phân bố
dân số hoạt động trong lãnh vực nông nghiệp từ 78,7% năm 70 giảm
xuống 68,9% năm 80 để chỉ còn 59,5% năm 91, 50% năm 2001 đã nói
lên điều đó. Dù đã kỹ nghệ hoá, căn bản kinh tế nước Tàu vẫn là
nông nghiệp; tuy 50% dân số hoạt động trong nông nghiệp chỉ đóng
góp 17,7% PNB (Produit
National Bruit) nhưng những nông sản thực phẩm như
lúa gạo lại chiếm 28,7% sản lượng thế giới, lúa mì 15,4%, bắp
18,8%, colza 31,2%, khoai tây 21,4% (theo tài liệu Wikipédia)
trong lúc 23% dân số hoạt động trong lãnh vực công kỹ nghệ lại
chiếm đến 49,3% PNB và 27% trong các ngành dịch vụ đã tạo ra 33%
PNB (năm 2001). Hàng trăm triệu nông dân đã bỏ ruộng đồng đổ xô
về các đô thị kiếm sống đã phơi bày một tình trạng phát triển
không cân đối trong những năm đầu thập niên 90 với từng đoàn
nông dân thất thiểu ngủ đường ngủ chợ tìm bất kỳ việc làm nào ở
đô thị có đồng lương ổn định hơn nhiều kiếp nông dân cơ cực và
bị bóc lột.
Vài cuộc nỗi loạn của nông dân cũng đã được
ghi nhận. Nhưng đã chẳng hề làm chuyển đổi xã hội. Sắc thái
phong kiến dầu ở thời đại mới đã khép chặt lại nguyện vọng của
người nông dân thấp cổ bé miệng trong phạm vi làng xã mà thôi,
quá lắm đến quận huyện là bị dập tắt. Dù có được giải quyết bằng
cách nào đi nữa trật tự cũng sẽ được tái lập nhanh chóng bằng
mọi giá. Xã hội "hạt nhân" truyền thống Trung Hoa ở các làng xã
là quần chúng bị trị phải bu bám và quay chung quanh cái nhân
của xã hội kết chặt nhau của các tầng lớp trí phú địa hào đã từ
lâu hủy diệt những khả năng đối kháng hiệu qủa với chính quyền.
Ðặc tính này đã làm vô hiệu hoá những yêu cầu chuyển đổi chính
sách cai trị; chưa nói đến mức độ cao hơn nhằm phá vỡ trật tự
hiện hữu. Cho nên tất cả những cố gắng đả
phá hoặc chuyển đổi chỉ làm nảy sinh khuynh hướng hồi phục một
trật tự truyền thống cũ đã ăn nếp từ quá lâu đời, và đã quá lỗi
thời trước thời đại mới.
Ðó cũng là cái vòng lẩn quẩn của lịch sử tiến
hoá tại nuớc Trung Hoa. Bao nhiêu triều đại đã đổ nhào với các
cuộc nỗi loạn của nông dân. Nhưng triều đại này đổ để lập một
triều đại khác cũng đi cùng vết xe cũ. Giòng họ này đổ để thay
bằng một giòng họ khác cũng chừng ấy tham vọng về quyền lợi.
Trong lúc đó cơ chế phong kiến vẫn y nguyên. Phong trào nông dân
"Thái Bình Thiên Quốc" đã góp phần không nhỏ trong việc lật đổ
nhà Thanh, song phải đợi đến Cách Mạng Tân Hợi nền phong kiến
mới được tuyên cáo chấm dứt. Tôn Dật Tiên đã không thắng được
những thế lực cũ vẫn e ngại cải cách. Quốc Dân đảng với Tưởng
Giới Thạch không đi đúng đường lối của người sáng lập chế độ
Cộng hòa; và trong cuộc đối đầu gay gắt với xâm lăng Nhật và kẻ
nội thù Cộng Sản, họ đã bị cô lập giữa địa bàn nông thôn. Mao
Trạch Ðông đã phát động phong trào nông dân dành lấy chính quyền
trong tay họ Tưởng. Lúc đầu Mao tương đối thành công với cuộc
cách mạng ruộng đất. Người nông dân Trung Hoa sản xuất nhiều
hơn, nhưng đời sống lại không được cải thiện do những cơ chế
nghịch lý xã hội chủ nghĩa áp dụng trong một đất nước vẫn còn ở
thời kỳ văn minh nông nghiệp. Nhờ Ðặng Tiểu Bình, kinh tế hồi
phục. Công xã bị giải tán. Giá cả được giải phóng. Người canh
tác có đất để làm ăn, sản xuất tăng, nhưng thu nhập người nông
dân lại bị băng hoại cũng chỉ vì hiện đại hoá chưa đến và khó có
thể đến với các vùng nông thôn hẻo lánh vẫn còn giữ những đặc
tính xã hội cố hữu: giá mua thóc lúa của nhà nước thấp, tiền trả
chậm trong lúc giá nông cơ, nông cụ mắc mỏ và phân bón, hạt
giống nhập từ đô thị về phải chịu đủ loại thuế của một cơ chế
phân phối nhiều khi bất chính của các chính quyền địa phương.
Phải chăng Ðặng Tiểu Bình lại đi vào lối mòn
của Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân đảng ngày nào khi ông đặt hết
kỳ vọng ở phương Nam với những thành phố chọc trời mới mơ đến
năm 2010 sẽ qua mặt Nhật, năm 2025 sẽ đuổi kịp Mỹ mà trở thành
siêu cường bậc nhất?
Sau cái chết của ông, trái với dự kiến, Giang
Trạch Dân và nhóm Thượng Hải cũ đã củng cố thế lực và ổn định
quyền lực. Phe bảo thủ của Kiều Thạch bị đẩy lùi. Lý Bằng chuyển
qua ngồi làm vì ở Quốc hội. Giang Trạch Dân và thủ tướng Chu
Dung Cơ bước thêm một bước hiện đại hoá giải thể các xí nghiệp
quốc doanh để tiến ổn vững hơn vào nền kinh tế thị trường. Các
lãnh đạo mới Hồ Cẩm Ðào và Ôn Gia Bảo còn dự định đi xa hơn
trong cố gắng cởi trói các tư tưởng lỗi thời. Cơ chế xã hội chủ
nghĩa trên thực tế vẫn tồn tại; nhưng với đà tăng trưởng vùn vụt
trong lòng WTO và thị trường toàn cầu hóa, liệu ban lãnh đạo mới
của đảng Cọng sản Trung Quốc có khả năng duy trì phát triển mà
không cải cách chính trị? Chính ở điểm khúc mắc này mà Giang
Trạch Dân đã củng cố thế lực cá nhân vừa mong muốn những cải
cách sâu rộng hơn trong đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc.
Theo Susan V. Lawrence của tờ "Far Eastern Economic Review" số
23.07.98 thì họ Giang đã bật đèn xanh cho những cuộc thảo luận
công khai về những đường hướng đổi thay mà Trung Hoa phải theo
đuổi trong thiên niên kỷ thứ ba, rõ rệt là ông ta đã đưa ra
thuyết "ba đại biểu" cho thế hệ cầm quyền còn nằm trong chiếc
bóng của ông với chức vụ đầy thế lực chủ tịch Quân ủy trung
ương, cọng với tuyệt đại đa số tay chân trong ủy viên Bộ chính
trị và Trung ương đảng. Hồ Cẩm Ðào muốn đi xa hơn một bước là
vứt bỏ Mác-Lênin-Mao để đưa nước Tàu hội nhập tốt hơn vào quĩ
đạo phát triển của thế giới mới. Nếu nền kinh tế thị trường
thành công thì rõ ràng là một nhà nước pháp trị và sự hạn chế
quyền lực của chính phủ phải là điều bắt buộc. Nhưng đối với
những nhà phân tích phương Tây điều kiện tiên quyết là ban lãnh
đạo Bắc Kinh phải có một lịch trình thay đổi và thứ nữa, một
thiện chí chuyển đổi cung cách cai trị để nước Tàu có thể lột
xác. Trong thái độ và cung cách lãnh đạo của Hồ Cẩm Ðào chưa ai
thấy một quyết tâm thay đổi tận gốc rễ các phương diện chính trị
và xã hội, dù hiện tại một vài cuộc bầu cử địa phương ở Bắc Kinh
đã cho phép một vài nhân sĩ độc lập ra ứng cử. Giang Trạch Dân
muốn tập trung quyền lực và nối gót Ðặng trong sự nghiệp mở ra
một trang sử lớn của Trung Hoa. Ðiều này họ Giang đã làm được và
làm một cách xuất sắc qua việc loại Kiều Thạch ra khỏi ban lãnh
đạo đảng và vô hiệu hoá Lý Bằng. Vai trò lịch sử của ông cũng
sáng hẳn lên với chuyến công du Hoa Kỳ thành công rực rỡ và mời
được các Tổng thống Clinton và Bush đến thăm Trung Quốc với
những đoàn tùy tùng hùng hậu. Từ địa vị đó, Giang Trạch Dân đã
cải tiến tương quan quyền lực giữa Nhà nước (lúc mà ông ta còn
là chủ tịch) và Ðảng (mà ông ta nắm tổng bí thư kiêm quân ủy
trung ương) Quyền lực chỉ đạo đã được chuyển một phần cho chủ
tịch nước như biểu hiện cho việc củng cố một nhà nước pháp quyền
và chính phủ sẽ đóng vai trò hành pháp thực hiện hai lãnh vực
then chốt và sinh tử cho việc phát triển kinh tế là cải tổ
các xí nghiệp quốc doanh và điều chỉnh hệ thống tài chánh của
Trung Quốc trong chiều hướng củng cố hướng phát triển thị trường.
Những định hướng "dân chủ hoá" này thực hiện tương đối thành
công với khuôn mặt nỗi bật của cựu thủ tướng Chu Dung Cơ. Sau đó
Giang đã nhường chức chủ tịch nước của ông cho Hồ Cẩm Ðào vốn
được Ðặng Tiểu Bình lựa chọn nhưng lại trưởng thành dưới chiếc
bóng chính trị của ông. Giang đã lui về giữ chức chủ tịch Quân
ủy Trung ương; và từ vị thế mạnh đó Giang vẫn còn ảnh hưởng, chi
phối sinh hoạt của nhà nước và chính phủ trong một thời gian khá
dài... Rất tiếc tự thâm tâm Giang không muốn có những cải tổ sâu
rộng (và thực tế cho thấy Giang không có tầm nhìn lớn và sự táo
bạo chính trị của Ðặng Tiểu Bình) Hơn nữa, vì phần lớn nỗ lực
nhằm vào tập trung quyền lực trong lúc cánh bảo thủ giáo điều
chính trị còn rất mạnh trong đảng, nên không những Giang mà cả
Hồ Cẩm Ðào với phong cách lãnh đạo mới cũng sẽ không dám đi xa
hơn những cải cách kinh tế và xã hội. Chủ nghĩa xã hội (Cọng
sản) mà thật tâm Ðào muốn vất bỏ cũng sẽ còn đó một cách không
chính danh, nhưng vẫn thể hiện trong đường lối toàn trị của
Ðảng.
Dẫu sao, những cố gắng của Giang Trạch Dân để
chuyển đổi một hệ thống chính trị khép kín và toàn trị sang một
chiều hướng dân chủ hóa đã là một sáng kiến đáng khen ngợi. Ông
ta đi vào lịch sử Trung Quốc không phải với tư cách một người
cầm lái vĩ đại cho những tín điều hoặc truyền thống Trung Hoa;
nhưng là một người khai sáng nền “dân chủ mới” cho nước Tàu hay
ít ra soi dọi được một chiều hướng suy nghĩ và hành động trong
sáng kiểu "glasnost" của Gorbachev. Tự do tư tưởng với những
diễn đạt quan điểm công khai, và nhất là những đề nghị dân chủ
hóa các định chế chính trị - kinh tế - xã hội, cùng những phương
hướng đưa nước Tàu tiến mạnh vào thiên niên kỷ thứ III sẽ làm
nảy sinh một chiều hướng suy nghĩ và tâm thức mới cần thiết cho
nước Tàu truyền thống trên đường hội nhập vào toàn cầu hóa; vì
địa vị siêu cường tài chánh và kinh tế vẫn là điều mà Ban lãnh
đạo Trung Nam Hải hằng mơ tưởng, đặc biệt là nhà "cải cách chính
trị" Giang Trạch Dân và "chiếc chìa khóa kinh tế" Chu Dung Cơ đã
khai mở để ê kíp mới và trẻ trung Hồ Cẩm Ðào - Ôn Gia Bảo sẽ từ
tốn đạt đến.
A3. Chủ nghĩa xã hội với màu sắc truyền thống :
Mao Trạch Ðông đã đưa chủ nghĩa xã hội vào
Trung Hoa nhưng bắt nó phải hội nhập vào hồn dân tộc ông thành
một thứ "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Hoa". Ðặng
Tiểu Bình kế vị ông, đổi phương hướng cải cách và làm cuộc "hiện
đại hoá" với nguyên tắc "nắm bắt mọi cơ hội để phát triển nhanh
trong lúc vẫn duy trì vững chắc chủ nghĩa xã hội dựa trên 4 nét lớn" :
-
Ðịnh hướng XH/CN
-
Chuyên chính của nền
Dân chủ Nhân dân
-
Quyền lãnh đạo của đảng
Cộng sản
-
Trung thành với Mác -
Lênin và tư tưởng Mao
Ðại hội lần thứ XIV từ 12 đến
18.10.92 đã khẳng định khuynh hướng cải cách của Ðặng “kinh tế
xã hội chủ nghĩa có thị trường” và "chủ nghĩa xã hội mang màu
sắc Trung Hoa" cho đến nay vẫn là kim chỉ nam cho sự phát
triển độc lập của Trung Quốc.
Ðặng lên nắm chính quyền vẫn trung thành với
tư tưởng Mao vì có lẽ trong thâm tâm ông vẫn phục Mao ở tinh
thần Trung Hoa cực đoan lồng trong ý thức hệ chủ nghĩa Cọng sản
quốc gia. Khác với Mao Trạch Ðông gốc nông dân và bảo thủ quá
khích, Ðặng đã từng xuất ngoại và làm việc ở phương Tây, biết rõ
sức mạnh của nền văn minh kỹ thuật. Muốn phát triển đất nước
Trung Hoa Ðặng phải tạm mượn kỹ thuật của họ trong lúc vẫn chối
bỏ căn bản của nền văn minh đã sản sinh ra nó. Tham vọng của ông
cũng như của mọi người Trung Hoa là những con người vẫn tự hào
mù quáng về nền văn hoá của họ hơn bất kỳ một dân tộc nào khác;
nhưng vẫn biết tạm thời còn thua kém xa phương Tây về phương
diện kỹ thuật. Cho nên Ðặng phải vừa vay mượn kỹ thuật, vừa cố
công khôi phục những giá trị truyền thống, hy vọng thăng hoa
chúng theo món võ công "gậy ông đập lưng ông" để chế ngự phương
Tây.
Không những phe cải cách mà cả cánh bảo thủ
trong lòng đảng Cọng sản Trung Quốc đều mơ ước một mô hình phát
triển trong trật tự "Tân Khổng giáo” như Đặng Tiểu Bình ngày
trước đã từng tôn vinh Tân Gia Ba - Lý Quang Diệu. Sự phát triển
mạnh mẽ, vững chắc về kinh tế trong khung cảnh độc tài chính trị
- xã hội nguỵ trang dưới màu sắc trật tự tân Khổng giáo dĩ nhiên
là mô thức canh tân lý tưởng đối với Trung Nam Hải bởi những lý
do :
A3a. Ðối kháng hữu hiệu với sức ép dân chủ :
Ðối kháng hữu hiệu với sức ép dân chủ hoá toàn cầu theo mô hình dân
chủ Tây phương; với lý do các chế độ mẫu này còn nhiều mặt hạn
chế và không thích hợp với truyền thống văn hóa và cấu trúc xã
hội Á châu.
A3b. Đường hướng Tân Khổng giáo :
Ðảng Cọng sản Trung Hoa tập hợp những công thần tương đối ít học
đối với truyền thống lãnh đạo Trung Hoa. Tệ nạn cửa quyền, tham
nhũng gay gắt cũng từ chỗ ít được "giáo dục" và chẳng hề được
tuyển lựa qua các kỳ thi như xã hội cũ. Giáo dục theo đường
hướng Tân Khổng giáo do đó cần thiết để nâng cao phẩm chất của
lớp "quan quyền mới" nhằm hồi phục lòng tin và sự kính trọng, vì
qua hơn ba mươi năm thống trị nền "văn hoá vô sản" rõ ràng đã bị
dân chúng rẻ rúng, khinh thị.
A3c. Dân chủ Trung Hoa truyền
thống :
Trước sự bất lực của đảng Cọng sản và giai cấp thống trị mới, Ðặng
thèm muốn tính "hoành tráng chính trị cổ Trung Hoa" để thoát
khỏi thời "hậu Mao".
Khổng giáo đã dày công xây dựng nghệ thuật trị quốc trên sự tuân
phục của quần chúng vì lợi ích công và trật tự xã hội. Người bị
trị bắt buộc phải tự đặt mình vào khuôn phép, kỹ cương do chính
quyền áp đặt dưới hình thức này hoặc hình thức khác, nhân danh
những mục tiêu cao đẹp; nhưng thật sự chỉ phụng sự lợi ích vương
quyền, và làm dể dàng nhiệm vụ của tầng lớp cai trị. Những quyền
lợi cá nhân chủ yếu của con người bị xem nhẹ, hoặc bị tước bỏ
nhân danh công ích. Đảng Cọng sản Trung Quốc vẫn công khai lý
luận rằng tính đoàn kết dân tộc và nền thống nhất của đất nước
Trung Hoa chỉ được duy trì bằng chuyên chính cọng với sự tuân
phục tự nguyện của tuyệt đại bộ phận đối với giai cấp công -
nông lãnh đạo. Ðối với quốc tế đảng Cọng sản Trung Quốc vẫn rêu
rao tính hoành tráng chính trị đó là nét đặc thù của kiểu mẫu
“dân chủ Trung Hoa truyền thống” để chống đỡ sức ép bên ngoài và
những đòi hỏi dân chủ, nhân quyền thật sự của phong trào trí
thức, sinh viên.
A3d. Sức mạnh của 50 triệu Hoa kiều hải ngoại :
Ðảng Cọng sản Trung Quốc thấy rõ sức mạnh của 50 triệu Hoa kiều
hải ngoại sống rải rác trên khắp các lục địa mà quan trọng nhất
là Ðài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai, Thái Lan, Việt
Nam... Họ nắm trong tay một khối tư bản khổng lồ lên đến khoảng
2000 tỉ US$. Một màu sắc Trung Hoa mượn ở Khổng giáo để trang
trí cho chế độ ở Hoa lục sẽ thu hút vốn đầu tư và hợp tác kỹ
thuật qúi báu. Thực tế chứng minh là Hoa kiều Ðài Loan, Hồng
Kông chiếm một tỷ số quyết định trong khối đầu tư ngoại quốc
khổng lồ đổ vào khai thác Hoa lục. Trung Nam Hải có thể yên chí
với sự thẩm nhập quan trọng ấy của tư bản và kỹ thuật "từ bên
ngoài" ấy mà không sợ bị kèm theo điều kiện dân chủ hoá các cơ
chế theo kiểu mẫu phương Tây.
Tương lai nước Tàu ở thế kỷ 21 vẫn là một vấn đề lớn của thế cân
bằng thế giới và thời đại mới. Không một nhà nghiên cứu về Trung
Hoa nào có thể phủ nhận tính "thống nhất" của dân tộc Trung Hoa
gắn bó với nhau bởi truyền thống văn hoá cổ và chữ viết phổ
thông. Hiện tại nỗi lo sợ về sự tan vỡ thành từng mảnh dân tộc
kiểu cựu Nam Tư hình như không còn cơ sở nữa vì người kế vị Ðặng
là Giang Trạch Dân đã từ tốn bắt đầu củng cố quyền uy dưới chiếc
bóng và gia tài cải cách của Ðặng cùng sự thành công kinh tế của
Chu Dung Cơ để loại phe bảo thủ của Kiều Thạch và Lý Bằng ra
khỏi vũ đài tranh chấp quyền bính. Phe quân đội vì có rất nhiều
quyền lợi kinh tế gắn với cải cách nên mặc nhiên đã ủng hộ
Giang. Nước Trung Hoa dù dưới bất kỳ mẫu hình và đặc tính kinh
tế chính trị nào cũng sẽ trở thành siêu cường ở thế kỷ 21 trên
một tương quan phức tạp với thế giới bên ngoài. Có lẽ Guillermaz
nhận định đúng khi ông cho là chủ nghĩa Cọng sản sẽ duy trì dưới
chiếc vỏ Khổng giáo thêm một thế hệ nữa trước khi Trung Hoa có
thể chuyển đổi sang một hệ tư tưởng chính trị khác (4). Bianco
thì lại nghĩ rằng dù tương lai các dân tộc thiểu số Tây Tạng,
Tân Cương, và có thể Mông Cổ, Mãn Châu hiện vẫn chưa biết được
hướng chuyển động; thì 92% tổng dân số là nòi Hán thuần chủng
vẫn "thống nhất" được trên truyền thống cổ đầy tự hào của họ.
Từ một nền kinh tế xếp hạng 4 thế giới với một PNB lên đến
2263,8 tỉ US$ và lợi tức trung bình tính trên đầu người là 1736
US$ năm 2005 (so với 946 US$ năm 2002), tham vọng của giới lãnh
đạo Bắc Kinh đến năm 2025 sẽ vượt Mỹ để trở thành siêu cường bậc
nhất xem ra khó thực hiện được vì nông thôn và nông nghiệp, cái
nôi quyết định sự phát triển bền vững của nước Tàu không được
ổn định lắm vì bất công xã hội, lợi tức thu được trong nông
nghiệp không tương ứng với khu vực kỹ nghệ hay dịch vụ ở thành
thị. Sức tăng trưởng kinh tế nhiều khi chóng mặt là ngọn và bề
ngoài của một mô thức phát triển lệch lạc, không cân đối. Từ
1995 đến 2001 đã có thêm 18 triệu người nghèo. Nước Trung Hoa
nhân mản vẫn thiếu một cách trầm trọng nguồn nguyên liệu - năng
lượng cần thiết và một hạ tầng cơ sở đủ vững chắc cho một cấu
trúc kỹ nghệ hoá bền vững.
Nước Tàu phát triển đến chóng mặt từ 9 đến 10% mỗi năm, bắt đầu
từ 2003 đã phải đối mặt với những vấn đề của một nền kinh tế quá
nóng không kềm hãm được. Mức lạm phát chính thức vào tháng tư
2003 là 3,8% (thực tế gấp đôi), trong lúc giá cả thực phẩm tăng
đến 10%, giá nguyên liệu đặc biệt là sắt thép tăng vọt. Chính
quyền Bắc Kinh quyết định đóng băng giá cả và giới hạn tín dụng
trong một vài khu vực đặc biệt gây tạo những căng thẳng như
ngành luyện kim, xe hơi, sản xuất xi măng và bất động sản, sau
đó lan tới cả những ngành kỹ nghệ kim loại (ngoài sắt), máy móc,
vật liệu xây cất, công nghiệp hoá dầu, vải vóc, dược phẩm và in
ấn. Nguyên do của ngột ngạt kinh tế còn có hậu quả từ những đầu
tư to lớn của nguồn tư bản cố định - cầu, đường, xưởng máy...
(26,1% tức 704 tỉ US$ năm 2005) Nguyên nhân phần lớn do thiếu hệ
thống bảo đảm thất nghiệp, người Trung Hoa bắt buộc phải tiết
kiệm, trung bình khoảng phân nửa số thu nhập của họ để phòng khi
đau ốm, bất trắc. Số tiết kiệm này sẽ được đổi ra đồng đô la để
tích trữ, nhưng phần quan trọng hơn được đem đầu tư trong các xí
nghiệp, đường sá, bến cảng... Một hiện tượng thường thấy là
nhiều xa lộ ở Trung Quốc không có nhiều xe cộ lưu thông hoặc
trong vài lãnh vực sản xuất như thép chẳng hạn, số đầu tư qúa
dồi dào đã dẫn đến sản lượng 190 triệu tấn, trong lúc nhu cầu
thép chỉ có 115 triệu tấn mà thôi. Tình trạng càng khó khăn hơn
bởi lẽ các chính quyền tỉnh do nhu cầu phát triển cục bộ và để
sung dụng tối đa việc làm đã không chịu giảm đầu tư theo khuyến
cáo của trung ương. Trong lúc đó lợi tức của nông dân ngày càng
giảm sút so với đà phát triển công, kỹ nghệ. Nhà nước Trung Hoa
thấy rõ nhu cầu tái định hướng, cân bằng sức phát triển bằng các
biện pháp tài trợ cho nông dân, tăng cường vấn đề chăm sóc sức
khoẻ cho các hợp tác xã viên, trợ cấp giáo dục. Nhưng vấn đề
thực tế là ngân sách thực hiện không có.
Về môi sinh, bầu khí quyển vùng Bắc Kinh và duyên hải miền Ðông
đang bị những cột khói ozone đe dọa nặng nề là hậu quả trực tiếp
của sức tăng trưởng không kềm hãm này. Các sông ngòi bị nhiễm
độc do chất thải bừa bãi của các nhà máy đe dọa nghiêm trọng đời
sống dân chúng hai bên lưu vực, nặng nề nhất là vụ sông Tùng Hoa
hứng trọn chất độc benzen do nhà máy bị nỗ đổ tuôn xuống, chảy
lan sang cả sông Áp Lục của Nga. Trong lãnh vực hầm mỏ, dù chính
quyền đã đóng cửa 2652 mỏ than nhỏ thiếu an ninh và tổng số mỏ
dự trù đóng cửa năm 2007 là 4861 thì vẫn còn khoảng 17000 mỏ
đang hoạt động trong những điều kiện an ninh tồi tệ và vẫn còn
gây ra 1824 tai nạn trong 8 tháng đầu năm 2006 (giảm 13,6% so
với cùng thời kỳ 2005) đã làm 2900 thợ mỏ thiệt mạng (dù đã giảm
25,5% so với 8 tháng đầu năm 2005).
Những bất công xã hội đầy dẫy, và sự thiếu vắng một hệ thống an
sinh y tế - sức khỏe, bảo hiểm thất nghiệp, hưu bổng, cùng một
hệ thống giáo dục yếu kém với đầu tư của nhà nước không quá 2%
PIB (Produit
Intérieur Brut), bên cạnh vấn đề ô nhiễm môi sinh
trầm trọng đã và đang là những vấn nạn cấp thiết của chính quyền
trung ương. Trong những điều kiện tệ hại như vậy, sức phát triển
quá nóng như hiện nay thật sự là một mối đe dọa to lớn của nước
Tàu trong dài hạn.
Dù Hội nghị Trung Quốc - Châu Phi trong những
ngày từ 3 đến 5.11.06 đã thành công rực rỡ với sự có mặt của hầu
hết các lãnh tụ nặng ký của lục địa đen và những kết ước quan
trọng với tổng số trao đổi mậu dịch Trung Quốc-Phi Châu sẽ lên
đến 50 tỉ US$ đưa vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc lên cao so
với Tây Phương và Hoa Kỳ; cũng như vài cơ sở truyền thông quốc
tế đã viện dẫn những cái nhất của kinh tế Trung Quốc, thí dụ
trong lãnh vực sử dụng và sản xuất điện thoại cầm tay (334 triệu
người xử dụng và khoảng 500 triệu điện thoại di động sản xuất
năm 2005 trong đó có gần 100 triệu xuất cảng) cũng như thông qua
những thành tựu kinh tế to lớn như mức xuất cảng tăng hàng 100
tỉ US$ mỗi năm (từ 436 tỉ năm 2003 lên 575 tỉ 2004 và 660 tỉ năm
2005), trữ kim luân chuyển tăng hàng 25 triệu US$ mỗi tháng,
tiêu thụ của các hộ tư nhân tăng 12%, đầu tư trực tiếp của ngoại
quốc tăng từ 53 lên 60 tỉ US$ năm 2004 (tài liệu HEC Eurasia
Institute - TOPIC tháng 01.2005)... thì bên cạnh đó trên 137
triệu người xử dụng internet (tính đến cuối năm 2006) hoàn toàn
không có tự do, bị thẩm nhập và kiểm soát thường xuyên, bị chế
tài với các biện pháp thô bạo nếu thông tin trệch hướng đã làm
cho thế giới bên ngoài phẩn nộ và quan ngại. Quốc Hội Châu Âu đã
ra nghị quyết yêu cầu Trung Quốc cải cách. Trong lãnh vực xa lộ
thông tin, Ủy Ban Châu Âu cũng đã tố cáo Trung Quốc làm áp lực
và móc ngoặc với các công ty Yahoo, Google, Microsoft truy cập
và tố giác những nguồn thông tin dân chủ bất lợi cho chế độ toàn
trị Bắc Kinh, cũng như việc công an Trung Quốc yêu cầu xí nghiệp
“Cisco Systems” cung cấp những trang thiết bị dùng cho việc theo
dõi người xử dụng và phát hiện những người có tư tưởng chống đối
chế độ trên mạng internet...
Dẫu sao, về phương diện chính trị, đến thế kỷ
21 Trung Quốc cũng sẽ trở thành siêu cường; nhưng là một siêu
cường mang tính chất "đế quốc độc tài dân tộc chủ nghĩa cực hữu"
(sách đã dẫn ở 3) mà tương quan căng thẳng với Nhật Bản trong
những năm gần đây, hoặc những biện pháp trừng phạt đối với đàn
em nguy hiểm Bắc Triều Tiên đang lăm le sản xuất vũ khí nguyên
tử đã tỏ rõ. Lạc quan hơn Domenach và Godemet nhận định truyền
thống Trung Hoa không đến nỗi bất động, chai cứng; mà là một
truyền thống hàm chứa tính sáng tạo, tiến hoá sống động. Cho nên
nước Trung Hoa sẽ thay đổi khi thoát ra khỏi thời kỳ "hậu Mao"
và sẽ không tránh được những ảnh hưởng ngoại lai mà quan trọng
nhất vẫn là tư tưởng dân chủ của Tây Phương (5).
Xem tiếp
:
B. Khẳng
lập một nền văn hoá chính trị Việt Nam
|