Về một
NỀN DÂN CHỦ
PHÁP TRỊ VIỆT
NAM
Lê
Minh Văn
Phần II : VIỆT
NAM VÀ CÁC VẤN ÐỀ
CỦA MỘT NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ PHÁP TRỊ
Chương 5 : Diễn tiến Hoà bình và Dân chủ hoá
A.
Từ
« Mùa Xuân
Prague 68 » đến «Cách Mạng Nhung tháng 11.89»
B.
Từ
« CM Nhung Tiệp Khắc » đến phong trào Diễn biến Hoà bình ở VN
*
Phụ chú :
về thân thế, sự nghiệp của Havel Vaclav
* Phụ lục
2 : Tuyên
ngôn Hiến chương 77 (TG dịch từ texte "Manifeste de la
charte 77" in « Les Droits de l'Homme - Anthologie
composée » par Christian Biet - Nxb Imprimerie Nationale)
Cũng trong bối cảnh tan rã hệ thống Xã hội
chủ nghĩa, hai chế độ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và Cộng Hoà Xã
hội chủ nghĩa
Việt Nam đã trụ được một phần do thế địa lý chính trị xa cách
với các trung tâm quyền lực phương Tây và La Mã, phần khác là
các khung cảnh văn hoá đặc thù "Á Ðông - Khổng giáo" thuận lợi
hơn cho các chế độ toàn trị núp bóng "đổi mới" để thực hiện một
bước lùi chiến lược. Phân tích lại một bước chuyển ngoạn mục của
"người anh em Tiệp Khắc", ta sẽ nhận chân được vai trò quan
trọng của khiá cạnh văn hoá chính trị trong các quá trình chuyển
đổi có lợi cho tiến bộ xã hội, dân tộc và dân chủ.
A. Từ "Mùa Xuân
Prague 1968"
đến "Cách Mạng Nhung tháng 11.1989" :
Cuộc Cách Mạng xảy ra mùa thu năm 1989 ở Liên Bang
Tchécoslovaquie chấm dứt nền độc đảng toàn trị, và từ đó chế độ
cộng sản, là một tiếp nối mang tính lô gích của lịch sử Tiệp
Khắc. Chính xác hơn "Cuộc Cách Mạng Nhung" hoàn tất một quá
trình chuyển biến bắt đầu từ "Mùa Xuân Prague" 1968. Những người
cộng sản tiến bộ đứng đầu là Bí thư thứ nhất Gustav Dubcek chủ
trương một "chế độ cộng sản nhân bản" với những cải cách về kinh
tế, văn hóa, xã hội và cả trong lãnh vực chính trị đã làm Liên
Sô và khối Ðông Âu Varsovie lo ngại. Xe tăng 5 nước Cộng sản anh
em đã càn qua thủ đô Prague, đè bẹp nguyện vọng thay đổi của
quần chúng Tiệp. Dubcek bị loại khỏi chức vụ lãnh đạo, Husak
thay ông ở chức vụ Bí thư thứ nhất đảng Cộng sản Tiệp. Nhưng
những cố gắng "bình thường hoá" đời sống chính trị kinh tế, xã
hội của Liên Bang Tchécoslovaquie, chủ trương vừa tiếp tục cải
cách vừa thanh lọc cả hàng nửa triệu đảng viên các cấp và lưu
đày vô số chính khách, trí thức, nghệ sĩ, nhà báo và cả công dân
thường của tân Bí thư đảng đã không thực hiện được. Nhiều khuynh
hướng chính trị, ý thức hệ khác nhau nảy sinh sau "Mùa Xuân Tiệp
Khắc" đã làm cho đảng Cộng sản chia rẽ, yếu đi; bên cạnh sự hiện
diện nhức nhối của hai ý niệm dân tộc Tchèque và Slovaque. Husak
phải từ chức nhường chỗ cho Milos Jakes là người chủ trương phải
"bình thường hoá đảng Cộng sản Tiệp". Gọng kìm càng siết lại,
đời sống càng khó khăn, quần chúng càng phẩn nộ. Ngày 1.1.1977,
243 nhân sĩ đã ký tuyên ngôn đòi nhân quyền và cải tiến bộ mặt
xã hội Tiệp. Một cao trào bộc phát từ trong lòng quần chúng thầm
lặng lớn lên, không có khẩu hiệu náo nhiệt, nhưng rất thuyết
phục. Tuy không phải là một phong trào chính trị theo đúng nghĩa
của nó, Hiến Chương 77 đòi phục hồi nhân quyền và quyền sống,
hiện thực chúng từ những chương điều ẩm mốc của hiến pháp là một
thể hiện hùng hồn niềm tự hào và ước vọng của một dân tộc tha
thiết được sống một cách có nhân phẩm, được tự do tham gia vào
mọi công cuộc xây dựng lại một quốc gia đã từng đạt đến vị thế
hàng đầu trong số những nước phát triển nhất châu Âu và thế giới
giữa hai cuộc thế chiến. Những người cộng sản cải cách của "Mùa
Xuân Prague" trở lại sân khấu chính trị, sát cánh với Havel
Vaclav cùng những nhân vật đầu não của Hiến chương 77 mà đa số
thuộc thế hệ mới, đã dựng nên cao trào đối lập, đòi dân chủ hoá
đời sống Tiệp, làm cuộc "Cách Mạng Nhung" cuối tháng 11.1989,
đẩy đảng Cộng sản đến chỗ phải chịu thương thuyết, bỏ vai trò
đảng độc tôn, để tự tan rã dần và cuối cùng rời khỏi quyền lực.
Không giống như các nước láng giềng Ba Lan, Hung Gia Lợi, Ðông
Ðức và cả Liên Sô trong quá trình tan rả hệ thống xã hội chủ
nghĩa, Tiệp Khắc đã chuyển hẳn từ chế độ chuyên chính toàn trị
qua chế độ cộng hoà với cuộc tuyển cử tổ chức ngay vào cuối
tháng 12.1989 trong đó Gustav Dubcek được bầu làm Chủ tịch Quốc
hội và Havel Vaclav ở cương vị Tổng thống Cộng Hoà Liên Bang
Tchécoslovaquie; không phải kinh qua thời kỳ "hậu Cộng sản" với
một đảng và nhà nước Cộng sản chuyển tiếp.
B. Từ "Cách Mạng Nhung" ở Tiệp Khắc 1989 đến "Phong Trào Diễn
Biến Hòa Bình" ở Việt Nam :
Phân tích những yếu tố lịch sử, văn hoá và con người Tiệp Khắc
nói chung trong giai đoạn 1968-1989, ta dể dàng nhận ra những
điểm tương đồng với bối cảnh chính trị của Cộng Hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam từ thời điểm thống nhất hai miền Nam Bắc 1975 đến
nay:
B1.
Hai dân tộc Tiệp và Việt Nam cùng chia xẻ một niềm tự hào dân
tộc đã từng hùng cường ở phía Tiệp hoặc đã từng làm nên những kỳ
tích lịch sử, bẻ gảy tất cả ý đồ thôn tính của các đế chế Bắc
phương ở Việt Nam. Chế độ cộng sản áp đặt bởi những người Liên
Sô chiến thắng ở Tiệp kể từ 1945 và ở Việt Nam bởi Nga, Tàu
trong đó ảnh hưởng của Mao Trạch Ðông mạnh nhất kể từ 1954 đã
đặt ra không ít vấn đề gay gắt trong tương quan ý thức hệ chủ
nghĩa cộng sản và dân tộc. Người Tiệp vẫn coi thường Liên Sô bao
gồm những dân tộc thiếu chiều dày lịch sử và chậm tiến hơn họ.
Cũng như người Việt Nam vẫn chán ghét những áp đặt của mô thức
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, qua những thể hiện lạ lùng trong
nét văn hoá kiểu Mao. Ðặc biệt kể từ ngày miền Bắc xã hội chủ
nghĩa thắng miền Nam cộng hoà và áp đặt một chế độ chuyên chính
vô sản cực kỳ khắc nghiệt với các chính sách cải tạo ác độc nhằm
trả thù những người từng đối kháng họ, lập vùng kinh tế mới và
cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh để cướp tài sản của
những người có máu mặt ở miền Nam mà họ coi như kẻ thù, đối xử
phân biệt với người dân miền Nam nói chung như những công dân
hạng hai trong cung cách những người chiếm đóng đã dấy lên phong
trào "vượt biên" của hàng triệu người lén bỏ nước ra đi, bên
cạnh những tổ chức bán chính thức của đảng để vơ vét vàng cho
đầy túi tham của những quan chức "đô hộ" mới và cho qũi đảng. Sự
thống nhất của đất nước ở bề mặt không che dấu được nổi thất
vọng cùng tột của tuyệt đại đa số nhân dân miền Nam -với sự
thông cảm của những người miền Bắc có những liên hệ họ hàng ruột
thịt- về sự cách biệt giữa hai mức độ phát triển kinh tế, xã
hội, hai mức sống cao thấp khác hẳn nhau. Quan trọng nhất là vấn
đề dị biệt văn hoá của dân chúng hai miền, không khác mấy trong
chế độ liên bang Tchecoslovaquie, đa số quần chúng Slovaque tỏ
ra nhiệt tình với ý niệm cộng sinh liên bang trong lúc người
Tchèque thường lạnh lùng coi họ như một gánh nặng.
B2.
Chế độ Cộng sản từ chỗ đối kháng với những ý niệm dân tộc, đã tỏ
ra thiếu hữu hiệu trong những cố gắng hàn gắn và phát triển quốc
gia. Ở Tiệp Khắc, sự áp đặt chủ nghĩa Cộng sản đã đưa cường quốc
kinh tế xếp hàng thứ 8 thế giới trước chiến tranh thế giới thứ
hai thành một quốc gia kém phát triển, đời sống dân chúng tuột
dốc thê thảm so với các quốc gia Tây Âu trước đây ngang hàng
hoặc thua kém họ. Mức độ khả tín của đảng lãnh đạo là tảng băng
rã lặng lẽ trong lòng quần chúng Tiệp. Bên cạnh đó, dù hiến pháp
liên bang có xác lập những định chế chung, nhưng những khuynh
hướng sắc tộc vẫn hiện diện sâu kín trong lòng những lãnh đạo
gốc Thèque hoặc Slovaque.
Ở Việt Nam, chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị giải thể trước cuộc xâm
lăng từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Một tân quốc gia thống nhất
gọi là Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập sau biến cố
30.4.75; nhưng những ý niệm phức tạp và hiện thực vẫn là những
con sóng ngầm âm ỉ dưới bề mặt thống nhất như Quốc - Cộng, Chính
- Ngụy, Cũ - Mới, Nam - Bắc. Trong lòng đảng những cán bộ gốc
Nam bị kỳ thị thấy rõ, không được coi là vô sản chính thống;
trầm trọng nhất là việc gạt bỏ những người lãnh đạo Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam sau chiến thắng 75. Về phương diện kinh tế,
văn hoá, xã hội, người dân Việt Nam ở cả hai miền đã chứng kiến
được một sự phá sản thê thảm của chế độ Xã hội chủ nghĩa về mọi
phương diện. Rõ nét nhất khi so sánh với các quốc gia láng giềng
Thái Lan hoặc Mã Lai Á chẳng hạn, sự tụt hậu quá đáng về phát
triển và mức sống của Việt Nam đã là một bản án không chối cải
được đối với đảng Cộng sản độc tôn vẫn muốn xây dựng "chủ nghiã
xã hội" và khi đất nước gần sụp đổ toàn bộ lại đổi mới theo
hướng "thị trường xã hội chủ nghĩa"; trong khi trước năm 1975,
Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam đã có mức phát triển tương đồng và
về một hai phương diện còn cao hơn hai nước này. Việc bám víu
vào Trung Quốc như thành trì Xã hội chủ nghĩa cho sự tồn tại của
chế độ Cộng sản cũng đặt ra biết bao nhiêu vấn đề phải bàn cải;
bởi Việt Nam có những điều kiện thuận lợi hơn về văn hoá, lịch
sử, cách tiếp cận với phương Tây, cộng đồng hải ngoại có những
liên hệ thiết thân với tổ quốc... để dân chủ hoá, củng cố nền
kinh tế, đưa đất nước hội nhập vào đà phát triển toàn cầu hoá
hơn là cứ nhất nhất cóp nhặt, lẽo đẻo chạy theo mô thức Trung
Hoa.
C. Quá trình những diễn biến ở Việt
Nam :
Một khuynh hướng cải cách đã hình thành
trong lòng đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu với cựu Ủy viên Bộ
chính trị Trần Xuân Bách, sau đó được công khai hoá với Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh, và rõ nét nhất với Thủ tướng Võ Văn Kiệt
cùng những đồng chí gốc miền Nam của ông. Khuynh hướng bảo thủ
miền Bắc tạm thời thắng thế; nhưng những nhân tố phát triển ưu
thắng của miền
Nam nói chung vẫn là một yếu tố
quyết liệt trong cán cân quyền lực và đường lối phải chọn lựa.
Thế dằng co của đảng Cộng sản Việt
Nam hiện tại tỏ ra khó hiểu hơn
nhiều so với thế ưu thắng hiển nhiên của phe cộng sản cải cách
Tiệp hơn 30 năm trước, tiền "Mùa Xuân Prague"! Lịch sử Việt Nam
có chậm sang trang, nhưng những qui luật khách quan của "diễn
tiến hòa bình" sớm muộn cũng sẽ sản sinh những đứa con ưu tú cở
Dubcek, Havel Vaclav, Jian Patocka, Komarek, hoặc Dlouhy...
Sự khác biệt giữa Tiệp Khắc và Việt Nam nằm trong mức độ văn
minh của hai dân tộc và khác biệt văn hoá nơi những con người.
Trong niềm tự hào dân tộc là nét chung, những đặc tính lịch sử
và địa lý chính trị Tiệp đã hun đúc cho quần chúng họ một tinh
thần công dân cao độ (thể hiện cả trong guồng máy đảng Cộng sản
cầm quyền), đặc biệt nổi bật trong giới trí thức, văn nghệ sĩ
(nòng cốt của Hiến Chương 77) và sinh viên là nòng cốt của Diễn
Ðàn Công Dân - Forum Civique đã làm nên cuộc Cách Mạng Nhung.
Người Tiệp và cả Slovaque đã kết hợp tuyệt diệu vì quyền lợi
chung của tổ quốc không hề chia rẽ, tị hiềm. Nền văn minh thực
tiễn cũng tạo cho họ một nguyên tắc kỹ luật chặt chẽ trong những
cuộc đình công, biểu tình hòa bình chống lại bạo quyền. Tinh
thần văn nghệ của các nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ đã thi vị hoá
những hành động chính trị, biến hí trường làm nơi đối thoại với
quần chúng, mượn những cuộc du ca để nói với người dân về những
vấn đề đất nước; hoặc hát và ngâm thơ trong những cuộc thịnh
diễn dân chủ. Nụ cười cũng luôn luôn thể hiện một cách ấm áp,
duyên dáng nhưng mang đầy sức mạnh tinh thần dân tộc Tiệp. Ví
như những biểu ngữ "một diễn đàn cho chính phủ độc đảng!",
"mọi gánh hát đều đình công, ngoại trừ Ủy Ban Trung Ương
Ðảng"... hoặc để diểu cợt những bài diễn văn rất kêu của
lãnh đạo hoặc những chương nhân quyền chỉ có trên giấy tờ, những
người biểu tình đáp lại với khẩu hiệu "đồng ý với tự do đọc
diễn văn; nhưng cũng phải có cái gì sau diễn văn chứ!"...
Không phải bởi bạo lực, nhưng là một tinh thần kỹ luật cao độ,
thể hiện qua tổ chức khéo léo của những người lãnh đạo, tính
công dân biết tự chế của mọi người tham dự, cùng tinh thần hòa
hợp và hoà bình của người dân không phân biệt Tchèque hay
Slovaque, các thế hệ trẻ già sát cánh bên nhau, những người bỏ
đảng và cả đảng viên ưu tú như Komarek, Dlouhy tranh đấu bên
cạnh những lãnh đạo đối lập của các đảng phái khác như Dân chủ
thiên chúa giáo hoặc đảng Xã hội, những người tự do văn nghệ sĩ
sinh viên, những phong trào bảo vệ nhân quyền, những khuynh
hướng chính trị xã hội khác nhau đã kết hợp lại, không phân
biệt, tị hiềm hoặc thù hận. Cũng không phải đơn thuần sự trở
lại sân khấu chính trị của cá nhân Dubcek và những lãnh đạo của
cánh Cộng sản Cải cách của "Mùa Xuân Tiệp Khắc 68" hay uy tín cá
nhân trên chính trường quốc nội và quốc tế của người chiến sĩ
nhân quyền Havel Vaclav đã quyết định sự thành công của “Cách
Mạng Mùa Thu 89” đưa đất nước Tiệp ra khỏi ách cộng sản trì trệ;
mà là sự kết hợp mẫu mực của mọi khuynh hướng chính trị, quần
chúng trong một thời điểm cần thiết cần đối đầu với kẻ thù chung
là nền độc tài đảng trị đã làm nên cuộc "Cách Mạng Nhung" tháng
11.1989 ở Liên Bang Tchécoslovaquie.
Yếu tố tối hậu này Việt Nam chưa có. Trong nước nhiều tiếng nói,
bài viết đòi nhân quyền và dân chủ đã xuất hiện một cách can
đảm. Nhưng cũng chỉ là những phát biểu cá nhân riêng lẽ của một
Nguyễn Ðan Quế từ chế độ miền Nam cũ; hoặc từ trong lòng đảng
như nhóm Ðà Lạt của những Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh
Quốc; Nguyễn Hộ, Ðổ Trung Hiếu, của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng
Chiến Cũ; các nhà khoa học Phan Ðình Diệu, Nguyễn Thanh Giang;
các nhà văn Lữ Phương, Dương Thu Hương, Hoàng Tiến; và đặc biệt
Tướng hồi hưu Trần Ðộ, nhà văn nhân bản đã từng giữ nhiều chức
vụ quan trọng trong guồng máy đảng và quốc hội đặt vấn đề đổi
mới đảng, dân chủ hoá chế độ, hoặc mươi đảng viên lão thành và
vài chuyên viên trẻ chất vấn chính phủ về vấn đề tham nhũng và
cải tổ guồng máy hành chánh...
Ở hải ngoại từ lâu những nhà ly khai như Bùi Tín, người đại diện
phe chiến thắng tiếp nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa Dương Văn Minh, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người tù của
lương tâm nhân loại, nhà văn Vũ Thư Hiên, nạn nhân của "đêm giữa
ban ngày" cũng đã dấn thân như những người dân chủ. Ðặc biệt là
nhà "ly khai" Ðoàn Viết Hoạt, một chiến sĩ dân chủ nổi tiếng
quốc tế đã được phóng thích từ nhà tù cộng sản và bị tống xuất
thẳng sang Mỹ. Sau thời gian nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe và
hàm dưỡng tinh thần, ông đã quyết định dấn thân vào con đường
tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam. GS Ðoàn Viết Hoạt đã tiếp xúc
với các cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, chu du Gia Nã Ðại, Pháp,
Anh, Ðức, Hoà Lan nói chuyện với quần chúng, làm việc với các
giới văn hoá chính trị Việt Nam và quốc tế để vạch một đường lối
chung. Những bài diễn văn của người chiến sĩ nhân quyền mẫu mực
này khá chính xác, sâu sắc, thể hiện đúng suy nghĩ của những
người Việt Nam hải ngoại vẫn luôn hướng về tổ quốc với những
nguyện vọng không khác mấy những người Việt ưu tư về vận mệnh
dân tộc còn sống ở trong nước. Nhưng vấn nạn lớn nhất hầu như
vẫn chưa được khai thông. Tín hiệu hoà hợp từ những lấn cấn chia
rẽ là căn bệnh trầm kha của người Việt chưa được rõ ràng lắm.
Bước đi cụ thể đầu tiên của sự kết hợp thông qua một nhận định
chung về tình hình chính trị Việt Nam và những nét phát thảo về
nhân quyền Việt Nam chưa đạt được. Bao giờ những người dân chủ
hải ngoại có thể ngồi lại được với nhau, tích cực hỗ trợ cho
những nhà ly khai, những người dân chủ ở trong nước xây dựng cao
trào dân chủ hoá? Ðến bao giờ thì sự kết hợp mong đợi ấy có thể
dẫn đến một Tuyên Ngôn Nhân Quyền Việt Nam thực tế và công hiệu
cở “Tuyên Ngôn Hiến Chương 77 Tiệp Khắc” đã ra đời ba mươi năm
trước? Hy vọng những dấu hỏi sẽ không còn mãi mãi là những dấu
hỏi. Sự kết hợp sẽ là hiện thực của tinh thần đồng thuận trước
nguy cơ, chứ không còn là những diễn văn, bài nói, phát biểu...
Sự hình thành một “Tổng Công Ðoàn Ðộc Lập Việt Nam” của Nguyễn
Khắc Toàn theo mô thức “Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan” hay một “Liên
Minh Dân Chủ-Nhân Quyền Việt Nam” của những nhà ly khai mới là
kỹ sư Ðổ Nam Hải, GS Nguyễn Chính Kết, cựu sĩ quan quân đội nhân
dân Trần Anh Kim, chuyên viên Nguyễn Phong trong Ban điều hành
cùng sự nhất trí, ủng hộ về mục đích thành lập của Hòa thượng
Quảng Ðộ cuả Phật giáo Việt Nam Thống nhất và sự góp mặt trong
phong trào của các đại diện tôn giáo như cụ Lê Quang Liêm Hội
trưởng Phật giáo Hòa hảo (thuần túy), Bác sĩ Nguyễn Ðan Quế của
Cao trào nhân bản, Các LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn
Hữu Giải, Chân Tín, các mục sư Nguyễn Hồng Quang, Ngô Hoài Nở;
cùng một số nhà ly khai nổi tiếng như Nguyễn Hộ, cựu Chủ tịch
Tổng Công Ðoàn Việt Nam, các giáo sư Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn
Chính Kết, các cựu sĩ quan quân độ Phạm Quế Dương, Vũ Cao
Quận... bên cạnh sự ủng hộ nồng nhiệt của các nhà dân chủ, nhân
sĩ và hội đoàn hải ngoại cho phép ta tin tưởng một điều rằng ý
thức công dân trước viễn tượng tương lai đất nước Việt Nam đã
chín tới. Tuy nhiên vấn đề vẫn là tinh thần tự chế, biết hy sinh
cá nhân cho một đồng thuận của lý tưởng dân chủ hoá, khả năng lý
luận và tổ chức, cung cách hành động và triển khai về dân chủ để
tạo phấn kích trong quần chúng, nhất là giới trẻ, để nuôi dưỡng
và phát triển niềm tin rộng khắp về một viễn tượng mới ổn định,
phúc lợi, công bằng xã hội và phát triển bền vững hơn vẫn còn là
những vấn đề nan giải phải đặt ra cho những khả năng kết hợp
thành công; chưa nói đến kỹ thuật luồn lách, chia rẽ và phá vỡ
tinh vi của chính quyền và công an Việt Nam. Những thông báo,
thông cáo, xác minh của một vài đầu não phong trào 8406 làm cho
những nhà dân chủ chân chính e ngại về sự trưởng thành của tư
tưởng dân chủ trong hiện tình đất nước, bên cạnh sự đề kháng và
đánh phá quyết liệt của chính quyền, so với những gì các chính
khách, nhân sĩ và nhà hoạt động Tiệp của Phong Trào “Hiến Chương
Tuyên Ngôn 77 “ mà Tiệp Khắc đã làm được ba thập niên trước.
Sự thật vẫn là giai tầng trí thức, lãnh đạo và quần chúng Việt
Nam, trong bối cảnh nhiểu loạn của hằng thế kỷ dài suy thoái đã
đánh mất không ít tinh thần công dân. Nền văn hoá chính trị
không định hướng đang đổ dốc chưa cung ứng được một chiếc nền đủ
dày, đủ chắc cho những nhân tố chính trị xây dựng cao trào dân
chủ. Viễn cảnh nguy hại nhất là một thế hệ trẻ lớn lên không có
đủ hiểu biết về lịch sử đất nước, bị ru ngủ bởi những giá trị
vật chất nhất thời, thiếu niềm tự hào chính đáng về những công
trình chống ngoại xâm và dựng nước của cha ông mình. Một sự kết
hợp mẫu mực của những người "lớn" nhằm đánh thức niềm tin nơi
tầng lớp sinh viên học sinh "trẻ" vẫn là công thức sinh tử cho
lối ra và tương lai của dân tộc. Có lẽ mọi người Việt Nam chúng
ta không nên quên điều đó.
Phụ Lục 1 :
Về thân thế và sự nghiệp của nhà văn, kịch tác gia Havel Vaclav
:
Tổng thống Liên Bang Tchecoslovaquie từ tháng 12.1989 đến tháng
7.1992 và sau đó được tái tín nhiệm ở chức vụ Tổng thống Cộng
Hoà Tiệp sau khi Slovaquie tách ra khỏi liên bang và thu hồi chủ
quyền riêng :
-
Cuối năm 76: Chuẩn bị Tuyên Ngôn 77 mà ông là phát ngôn nhân
(cùng với GS Jian Patocka).
-
21.5.77: ngay sau khi được phóng thích, Vaclav từ chức Phát
Ngôn Viên.
-
27.4.78: ông lập Ủy ban VONS (Ủy Ban Bảo Vệ những người bị
truy bức bất công).
-
Tháng 8.78 gia nhập PEN club, Văn Bút Thụy Ðiển.
-
Tháng 11.78: trở lại chức vụ Phát Ngôn Viên nhóm Hiến Chương
77.
-
17.12.78: Husak bị thay thế ở chức vụ Tổng bí thư đảng Cộng
sản Tiệp, nhường chỗ cho Milos Jakes. Tân lãnh đạo đảng đánh
giá thấp các "phong trào diễn tiến hòa bình" đòi nhân quyền.
Thấy các cuộc xuống đường lúc đầu không qui tụ được nhiều
người, Jakes ra lệnh bắt giam Havel Vaclav, linh hồn nhóm Hiến
Chương 77 và xử tù các nhà ly khai khác như Otakar Vevrerka,
hội viên của "Câu Lạc Bộ Hoà Bình John Lennon" (12 năm tù
giam), Jana Petrova của "Hiệp Hội Hòa Bình Ðộc Lập" (6 tháng
tù giam), Sasa Vondra, phát ngôn viên HC 77 (2 tháng tù giam),
David Nemec, người ký HC 77, cùng lúc hội viên các nhóm đối
lập khác (6 tháng tù treo), Stanislav Penc thuộc "Câu Lạc Bộ
Lennnon" (2 tháng tù treo), Petr Placak, sáng lập viên "Những
Người Con Của Tổ Quốc Boheme" (2 tháng tù treo), Jana
Sternova, cựu Phát Ngôn Nhân nhóm HC 77 (4 tháng tù treo).
Tổng bí thư Jakes đã phạm lầm lỗi chính trị nghiêm trọng nhất.
Phạm đến Vaclav cùng những nhà ly khai khác, đảng Cộng sản
Tiệp đã phải đương đầu với làn sóng phản đối và phẩn nộ của
các tầng lớp dân chúng và tôn giáo (Ðức Hồng Y Tomacek, 90
tuổi, Tổng Giám Mục Prague đã biên thư can thiệp với chính
phủ). Cả dư luận quốc tế cũng chú ý đến vụ án. Ngay trong đầu
não các chính quyền Cộng sản như ở Varsovie - Ba Lan, Nhà nước
đã cho diễn các vỡ kịch của Vaclav có sự tham dự của Thủ
tướng. Những cuộc du lịch của các thành viên chính phủ dự trù
trước cũng bị hủy bỏ...
-
21.11.89: Vaclav bị toà kết án 9 tháng tù ở với tội danh "xúi
dục dân chúng tụ tập bất hợp pháp" và "chống lại nhân viên
công lực" (sau khi kháng án, Toà rút xuống còn 8 tháng tù ở).
-
17.5.89: được tạm thả có điều kiện.
-
17.11.89: nhân dịp lễ tưởng niệm một sinh viên Tiệp tên Jan
Optelel bị phát xít Ðức sát hại năm 1939, một cuộc biểu tình
lớn đã được tổ chức ở Prague. Cảnh sát đàn áp thô bạo, đã làm
dấy lên làn sóng biểu tình liên tục. Ðó là thời kỳ Tiền Cách
Mạng Nhung.
-
Cuối tháng 11.89 Vaclav và Dubcek biểu tình sát cánh với những
nhà ly khai ở các quảng trường Vencelas và Letuá.
-
Dưới áp lực của những Ủy ban Diễn đàn Công dân - Forum Civique
và Phân Ban Slovaque mang tên “Quần Chúng Chống Bạo Lực” quyền
lực đảng độc tôn tan vỡ. Husak từ chức chủ tịch nước.
-
28.12.89: Dubcek được bầu làm Chủ Tịch Quốc Hội.
-
29.12.89: Vaclav được bầu làm Tổng thống Cộng Hòa
Tchslovaquie.
Tài liệu tham khảo :
* Bài nói chuyện của GS Ðoàn Viết Hoạt ở Paris ngày 31.1.99.
* La révolution de velours - Yves Barelli -
Éditions de l'aube.
* Histoires des pays Tcheques et Slovaques -
Antoine Marès - NXB Hatier.
* Histoires des pays Tcheques - Sous la
direction de Pavel Belina, Petr Tornej et Jiri Pokorny -NXB
Ponts- Histoire.
* Petite histoire des pays Tcheques - Otto
Urban - Traduit du Tchèque par Milena Braud - NXB Institut
d'Études Slaves.
Phụ lục 2 :
Tuyên Ngôn Hiến Chương 77
(TG
dịch từ texte "Manifeste de la charte 77"
in « Les Droits de l'Homme - Anthologie composée » par
Christian Biet - Nxb Imprimerie Nationale).
Ngày 23 tháng 10 năm 1976 Văn khố các đạo
luật của nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc đã đăng dưới
số thứ tự 120 các Công Ước Quốc Tế về các "Quyền Dân Sự và Chính
Trị", và về «các quyền Kinh Tế Xã Hội và Văn Hoá » mà nước Cộng
Hòa chúng ta đã ký năm 1968, sau đó được phê chuẩn ở Helsinski
năm 1975, và bắt đầu có hiệu lực ở nước ta kể từ 23.03.1976. Kể
từ ngày ấy, các công dân trên nguyên tắc đã có quyền, và Nhà
nước phải có những bổn phận như các công ước qui định.
Những quyền tự do và quyền con người bảo đảm
bởi hai công ước này thể hiện những giá trị văn minh quan trọng
mà qua giòng lịch sử, vô số những lực lượng tiến bộ đã cố công
thực hiện; việc công bố những giá trị đó đã góp phần có ý nghĩa
vào sự phát triển con người ở xã hội chúng ta.
Ðó là lý do tại sao chúng tôi đã hoan nghênh
sự tham gia của nước CH/Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc vào hai công
ước ấy.
Thế mà đồng lúc với việc phổ biến các công
ước, chúng tôi nhận ra rằng trước khi một trật tự mới có thể
xuất hiện, việc thực thi một số quyền công dân căn bản thực tế
chỉ có trên giấy tờ.
Thí dụ điều 19 của Công Ước thứ nhất bảo đảm
quyền tự do phát biểu trong lúc ở đây hoàn toàn là ảo
tưởng:
Hàng chục ngàn công dân đã bị cấm làm việc
trong ngành chuyên môn của họ cũng chỉ vì đã dám ủng hộ những
quan điểm khác biệt với quan điểm chính thức của nhà cầm quyền.
Ðồng thời họ cũng thường là đối tượng của những phân biệt đối xử
và bị chính quyền cùng các tổ chức xã hội chụp mũ. Hoàn toàn
không có khả năng đề kháng, rõ ràng họ đã trở thành nạn nhân của
nạn kỳ thị và phân biệt đối xử.
Hàng trăm ngàn công dân khác bị phủ nhận
quyền được "giải phóng mọi nổi sợ hải" (ghi trong phần mở
đấu công ước thứ nhất) bởi vì họ bị buộc phải sống thường trực
trong nguy cơ sẽ bị mất công ăn việc làm nếu họ dám bày tỏ quan
điểm.
Trái ngược với điều 13 của công ước thứ hai
nhằm bảo đảm cho mọi người quyền được học hành, ở đây
người ta lại cấm cản vô số thanh niên theo đuổi học vấn cũng chỉ
vì chính họ, và cha mẹ của họ đã dám phát biểu. Vì thế vô vàn
công dân Tiệp đã sống trong nổi lo sợ rằng chính họ hoặc con cái
họ sẽ bị tước đoạt quyền được học hành nếu họ phát biểu tư tưởng
hoặc quan điểm riêng.
Sự đòi hỏi quyền "được nghiên cứu, nhận và
phổ biến tin tức cũng như mọi thể loại quan điểm, từ mọi biên
cương khác nhau hoặc bằng khẩu thuyết, bằng bút tự hoặc thông
qua báo chí" hoặc qua cả "trung gian tiếng nói của nghệ
thuật" (đoạn 2 điều 13 của công ước thứ nhất) thường dẫn đến
những truy bức bất chấp luật pháp hoặc bị lôi ra tòa ngụy danh
tội hình sự (như vụ án hiện hành trù dập những nhạc sĩ trẻ trong
số những vụ án khác chứng minh rõ ràng điều này).
Quyền tự do phát biểu trước công chúng
đã bị khuynh loát vì những phương tiện truyền thông, mọi cơ cấu
văn hoá và in ấn đều tập quyền về trung ương. Không một quan
điểm triết học, chính trị, hay khoa học, cũng như không một
khuynh hướng nghệ thuật nào được xuất bản nếu chúng chỉ hơi đi
trệch một chút những khuôn khổ ý thức hệ chật hẹp hoặc không phù
hợp với quan điểm chính thức về thẫm Mỹ. Mọi phê phán về các
bế tắc xã hội không có, mọi khả năng biện hộ công khai chống lại
những những tấn công thô bạo và dối trá của bộ máy tuyên truyền
nhà nước bị tước đoạt (bởi vì sự bảo vệ pháp lý chống lại
những xúc phạm danh dự và thanh danh được bảo đảm bởi điều 17
của công ước thứ nhất trong thực tế không hiện diện ở đây).
Người ta không thể nào bác khước được những lời cáo buộc giả
dối, mọi trông cậy vào công lý để bổ khuyết hoặc điều chỉnh
những sai lầm đều vô vọng. Trong lãnh vực phát minh khoa học và
sáng tạo văn hoá, mọi tranh luận công khai đều bị cấm chỉ.
Bằng chứng là vô số những nhà khoa học và văn hoá, cũng như
nhiều công dân khác trước đây đã cho xuất bản hợp pháp và tranh
luận công khai những quan điểm của họ lại bị nhà nước hiện hành
kết án.
Quyền tự do thờ phượng tôn giáo được
nghiêm nhặt bảo vệ bởi điều 18 của công ước thứ nhất đã bị cấm
cản có hệ thống qua sự bạo hành của quyền lực : các hoạt
động của giới tu sĩ bị cắt tỉa hoặc bị đè nén, chính quyền
thường trực đe dọa từ chối cho họ làm nhiệm vụ hoặc rút lại sự
thừa nhận quyền hành đạo; những biện pháp chế tài - thông qua
những phương tiện hiện hữu và có thể cả những phương cách khác
nữa - thường được dành cho những ai biểu tỏ hoặc bằng lời nói
hay hành động những tín lý của tôn giáo họ, và mặt khác, hạn
chế việc dạy giáo lý...
Những định chế và tổ chức nhà nước có quyền
hạn chế hoặc cả thẩm quyền tước bỏ toàn bộ quyền công dân
bị đặt dưới sự chỉ đạo chính trị của bộ máy đảng thống trị mà
quyền quyết định thường do vài cá nhân riêng lẽ nắm quyền lực
then chốt. Không phải là Hiến Pháp Nước CH Tiệp Khắc, cũng không
phải là những đạo luật hoặc các qui chế hợp pháp của quốc gia có
quyền hành trong việc sáng tạo hay thực hiện những quyết định về
cả hình thức lẩn nội dung. Những quyết định ấy đôi khi chỉ là
khẩu lệnh, quần chúng không được biết và cũng không kiểm soát
được; các tác giả của nó chỉ chịu trách nhiệm bản thân và trước
cấp chỉ huy cao hơn trong đẳng cấp đảng mà thôi. Tuy vậy chúng
lại mang tính chất áp đảo trong các hoạt động lập pháp và hành
pháp của Nhà nước, trên nền hành chánh, tư pháp, những tổ chức
xã hội là các công đoàn hoặc các hội đoàn áp lực này khác, trên
các đảng phái khác, trên các xí nghiệp, cơ quan, các học viện
khoa học, các văn phòng, trường học và các định chế khác, vì
lệnh ấy có sức nặng tương đương như một đạo luật. Trong sự diễn
đạt về quyền lợi và bổn phận, khi mà các tổ chức và công dân
hành xử trái với các chỉ thị, họ chẳng thể tìm ra một cơ chế
trọng tài vì các cơ chế như vậy không hề hiện diện. Tất cả điều
đó nói lên tính cách nghiêm trọng của việc hạn chế những quyền
lợi như điều 22 của Công Ước thứ nhất qui định (quyền hiệp hội
và cấm chỉ việc làm ngưng trệ các quyền này dù là dưới hình thức
nào), hoặc điều 25 (bình đẳng quyền lợi trong việc tham dự vào
việc quản trị những vấn đề quốc gia thuộc lãnh vực công), và cả
điều 26 (thủ tiêu mọi hình thức phân biệt trước pháp luật).
Những thực tế đó gây trở ngại cho các công nhân và người lao
động trên nguyên tắc có quyền tổ chức nghiệp đoàn hay các hình
thái khác nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế và xã hội, quyền tự do
đình công (đoạn 1 điều 8 của Công Ước thứ hai).
Những quyền công dân khác, bao gồm việc ngăn
cấm nghiêm nhặt liên quan đến "tất cả mọi động chạm đến đời
tư và gia đình, cư sở và thư tín" (điều 17 của Công Ước thứ
nhất) đã bị vi phạm thô bạo do sự kiện bộ trưởng nội vụ kiểm
soát bằng nhiều phương cách khác nhau đời tư của công dân: nghe
lén điện thoại, đặt máy thâu âm trong nhà, kiểm soát thư từ,
giao dịch, lục soát, mạng lưới săn tin bởi những tên chỉ điểm
(thường nhận việc vì bị cưỡng bức đe doạ hoặc vì những hứa
hẹn)... Bộ trưởng Nội vụ cũng can thiệp vào quyết định của giới
chủ nhân, xen vào nền hành chánh và các tổ chức khác, thực hiện
các hành vi trấn áp, áp lực lên các cơ quan tư pháp; và thông
qua các phương tiện truyền thông điều khiển các chiến dịch tuyên
truyền. Hoạt động này không do một đạo luật nào cho phép: nó
hoàn toàn bí mật và người công dân không có bất kỳ một quyền
khiếu tố nào để chống lại.
Trong các truy tố hình sự nhân danh những lý
cớ chính trị, các cơ quan điều tra và tư pháp thường vi phạm
những quyền được bảo đảm bởi điều 14 liên quan đến việc phạm tội
và quyền bào chửa của Công Ước về quyền dân sự chính trị ;
cũng như những người bị kết án thường bị đối xử trái với nhân
phẩm con người ở trong các nhà tù, sức khỏe tổn hại và tinh thần
bị suy đốn.
Theo nguyên tắc chung, đoạn 2 điều 12 của
Công Ước thứ nhất nhằm bảo đảm cho công dân quyền được tự do
rời bỏ xứ sở cũng bị vi phạm : lấy cớ "bảo vệ an ninh lãnh
thổ" (đoạn 3), quyền này đã bị trói buộc với những điều kiện
không chấp nhận được. Sự bức chế cũng tương tự trong trường hợp
cấp chiếu khán nhập cảnh cho các kiều dân nước ngoài, một số
thành phần không được quyền đến viếng Tiệp Khắc chỉ vì một lý do
thật giản dị là họ có những liên hệ thân hữu hay liên hệ công
tác với các phần tử là đối tượng trấn áp ở nước chúng ta.
Một số các công dân với tư cách riêng đã cảnh
giác dư luận về các địa điểm công tác, hoặc tố cáo công khai
những vi phạm có hệ thống về nhân quyền và quyền tự do dân chủ
thông qua các phương tiện truyền thông ngoại quốc, đồng thời kêu
gọi những sự cải thiện tình hình trong những trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên tiếng nói của họ thông thường không được đáp ứng, mà
chính họ còn trở thành đối tượng của các truy bức.
Dĩ nhiên trách nhiệm thực thi các quyền công
dân trong nước thuộc về các thẩm quyền chính trị và Nhà nước.
Nhưng không phải chỉ có chính quyền mà thôi. Mỗi cá nhân đều có
trách nhiệm về tình hình chung. Muốn thực thi công ước phải phê
chuẩn. Không phải chỉ có chính phủ đơn phương cam kết, mà chính
tất cả mọi người công dân cũng phải nhận lấy trách nhiệm thực
thi các công ước này.
Chính bởi ý thức cùng chia xẻ trách nhiệm, với thiện chí dấn
thân của người công dân bằng lòng tin tất thắng, và cũng do nhu
cầu chung cùng tìm kiếm một phương cách diễn đạt mới và hiệu quả
hơn về ý thức này đã đưa đẩy chúng tôi thỏa thuận với nhau trên
Hiến Chương 77 tuyên bố ngày hôm nay.
Nhóm Hiến Chương 77 là một cộng đồng tự do,
không rập khuôn mẫu nào và mở rộng cho mọi người thuộc về những
quan điểm, tin tưởng và nghề nghiệp khác nhau, cùng tập họp lại
bởi thiện chí dấn thân, nhân danh cá nhân hay tập thể, tranh đấu
cho sự tôn trọng quyền con người và quyền công dân ở đất nước
chúng ta cũng như ở mọi nơi trên trái đất - những quyền mà hai
công ước quốc tế có giá trị như đạo luật, thông qua Hiệp Ước
Chung cuộc của Hội Nghị Helsinski, và bởi vô số những văn bản
quốc tế khác chống chiến tranh, chống bạo lực và chống lại mọi
ức hiếp xã hội và tinh thần, theo đúng tinh thần Tuyên Ngôn QT
Nhân Quyền LHQ.
Hiến Chương 77 cũng có tính chất tự phát
trong lãnh vực liên đới và hữu nghị giữa những người cùng quan
tâm và cùng ưu tư về những lý tưởng chung, đã và vẫn còn ràng
buộc với nhau trong đời sống và trong sự nghiệp chung.
Hiến Chương 77 không phải là một
tổ chức, không có qui chế và cơ quan thường vụ, cũng không có cả
những điều kiện dành cho các hội viên muốn gia nhập. Hội viên
chính là tất cả mọi người đồng ý với các nguyên tắc căn bản của
HC, tham gia công tác và nâng đở, hỗ trợ nó.
Hiến Chương 77 cũng không phải là nền tảng
của những hoạt động chính trị đối lập. Nó chỉ muốn phụng sự công
ích, thông qua vô vàn sáng kiến tương tự mà công dân ở các quốc
gia khác nhau từ Tây qua Ðông đã đề đạt. Vì vậy HC không muốn
kiến tạo những chương trình cải cách và biến đổi chính trị cũng
như xã hội, mà chỉ muốn theo đuổi trong phạm trù sinh hoạt của
mình một cuộc đối thoại xây dựng với chính quyền và nhà nước,
chú tâm vào những trường hợp cụ thể về những vi phạm về quyền
con người và quyền công dân, đồng thời chuẩn bị những tư liệu
phù hợp và đề nghị những giải pháp, trình bày những gợi ý khác
nhau một cách tổng quát và dể cảm nhận hơn nhằm khảo sát sâu sắc
những quyền lợi và bảo đảm cần thiết cho những quyền lợi đó,
đồng thời cũng hành động như cấp trung gian trong những trường
hợp mà sự bất công đã gây ra tranh chấp...
Cũng bởi danh tự có tính cách biểu tượng,
Hiến Chương 77 nhấn mạnh rằng nó đã được khai sinh trên thềm Năm
Mới được mệnh danh là "năm của các tù nhân chính trị" và cũng
trong năm này Hội Nghị Belgrade sẽ phải nghiên cứu đến việc thực
thi những cam kết đã ký ở Helsinski.
Nhân danh những người đã ký vào bản tuyên
ngôn này, chúng tôi ủy nhiệm Giáo Sư Jian Patocka, Vaclav Havel
và giáo Sư Jiri Hájek là Phát Ngôn Nhân của Nhóm Hiến Chương 77.
Những phát ngôn nhân này có toàn quyền đại diện Nhóm trước các
cơ quan nhà nước cùng các tổ chức khác; cũng như trước dư luận
trong nước và thế giới, và chữ ký của họ trên các tư liệu này có
giá trị chính thống. Họ sẽ tìm kiếm giữa nhóm và trong hàng ngũ
công dân những cộng sự viên để phụ tá họ trong các cuộc vận động
cần thiết, đảm trách những nhiệm vụ riêng và chia xẻ cùng họ
toàn thể trách nhiệm chung.
Chúng tôi tin tưởng rằng Hiến Chương 77 sẽ
góp phần mang lại cho toàn thể các công dân Tiệp Khắc quyền được
làm việc và quyền được sống như những con người có tự do.
Ngày 01 tháng 01 năm 1977.
- Hết Chương V -
Xem tiếp
Chương VI :
Nền Dân chủ và vấn đề bảo hiến
|