Về một
NỀN DÂN CHỦ
PHÁP TRỊ VIỆT
NAM
Lê Minh Văn
Phần III : VIỄN TƯỢNG MỘT NỀN DÂN CHỦ DIÊN HỒNG
Chương 9 : Mẩu hình chuyển tiếp -Nhìn lại một quá trình-
A.
Thời kỳ tiền dân chủ
B.
Thời kỳ dân chủ chuyển tiếp
1.
Tổng thống
2.
Quốc hội lưởng viện: Hạ nghị viện và Hội đồng Thượng viện
3.
Thủ tướng Chính phủ
4.
Hội đồng Bảo hiến: Tòa án Bảo hiến và Tòa Phá án
Nhìn lại một quá trình :
Bức tường Bá Linh bị phá sập và khối Liên Sô - Ðông Âu tan rã đã
mang lại một niềm hy vọng không cùng cho một phần lớn nhân loại
chưa hề biết đến tự do.
Nhưng những chuyển biến dân chủ đã không tỏ ra thuận lợi như
mong đợi. Các quốc gia cựu cộng sản phần lớn đã phải trải qua
một thời kỳ chuyển tiếp dài và khó khăn. Những yếu tố tiêu cực
thường được kể như sau:
- Sự chuyển đổi toàn diện một cơ chế vận hành
về các phương diện kinh tế xã hội.
- Yếu tố con người chưa thích nghi với thị
trường và những điều kiện căn bản cần phải có để hồi phục nhân
phẩm và xác định các giá trị nhân quyền.
- Những lãnh tụ chính trị thiếu tầm vóc về
kinh nghiệm dân chủ đã dồn những xã hội chuyển tiếp vào bế tắc.
Những liên minh cơ hội lỏng lẻo đã được trắc nghiệm bởi tính
chất đặc thù của thể chế mới. Không phải những mô thức dân chủ
được biết đến từ trước đến giờ có thể thích nghi được với mọi
người, kể cả tầng lớp lãnh đạo mới ở các quốc gia hậu cộng sản.
- Một hậu phương dân chủ thiếu tin cậy vì các
quốc gia phát triển phương Tây phần lớn tỏ ra bất xứng với những
nguyên tắc dân chủ và những giá trị phổ cập của nhân quyền mà họ
rao giảng. Trường hợp duy trì chế độ Elsine ở Nga trong tình
trạng khủng hoảng toàn bộ xã hội và những áp phe bất chính của
cựu Tổng thống Nga và băng đảng cầm quyền trong vụ nhũng lạm
khủng khiếp qũi viện trợ FMI mà không hề bị kiểm soát; hoặc thái
độ thiếu cương quyết của Tổng thống Bush trước một Poutine đang
chà đạp dân chủ và hướng nước Nga trở lại con đường toàn trị Sô
Viết cũ. Tổng thống Chirac của Pháp còn đi xa hơn nữa, đem tặng
cho Poutine huy chương cao qúi nhất nước Pháp là «Bắc Ðẩu Bội
Tinh» hoặc thái độ vồn vập, chiều lụy vì những lợi ích kinh tế
cục bộ đối với Tổng bí thư Trung quốc Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm
Ðào, các tác giả của «biến cố Thiên An Môn» và chủ trương "diệt
chủng văn hoá Tây Tạng" đã là một sự sự sỉ nhục đối với truyền
thống nhân đạo và nhân quyền của dân tộc Pháp.
Trong tương quan với nhà nước Trung quốc giàu
có, các « đối trọng » dù Clinton hay Bush, Shroder hay Merkel,
Chirac hoặc Sarkozy thảy đều bị hóa giải bởi triết lý thực dụng
của người Tàu vốn là bậc thầy của trò chơi tiền bạc. Các lãnh tụ
phương Tây thăm viếng Trung quốc bao giờ cũng được tháp tùng bởi
đạo quân đông đảo những chủ nhân ông « siêu liên quốc ». Cho nên
những bài thuyết giảng về nhân quyền không có giá trị gì hơn
những sáo ngữ để gở thể diện trước khi hỷ hã ký những hợp đồng
khổng lồ. Hai chục tỷ Euro bán 160 máy bay Airbus và hai lò phản
ứng hạt nhân đời thứ ba mà Tổng thống Sarkozy mang về cho nước
Pháp sau chuyến viếng thăm 3 ngày 24-27/11/07 vừa qua là một hy
sinh lý tưởng nhân quyền vì một chinh sách ngọai giao thực
dụng ; khi nước Pháp phải thừa nhận Đài Loan và Tây Tạng là các
tỉnh của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ?
Chính những yếu tố tiêu cực này đã làm cho
"diễn trình sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa" ngừng lại ở các
nước CS Á Châu, ở vùng đất mà các giá trị phổ cập của nền dân
chủ Tây phương chưa được xác tín hoàn toàn. Ngoài bạo lực, các
chế độ chuyên chính vô sản dày dặn kinh nghiệm đã áp đặt được
một thứ "ổn định chính trị" trong đầu óc người bị trị vốn sợ hãi
những xáo trộn. Ðòn phản công tâm lý này đã tỏ ra có hiệu quả ở
các nước vẫn có khuynh hướng bài Tây phương do hoàn cảnh lịch sử
như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba.
Ở Việt Nam, sự trì trệ của tiến trình dân chủ
hoá tỏ ra rõ nét ở các khía cạnh:
·
Sự tự hủy của chế độ CS
đã giảm tốc. Khuynh hướng dân chủ - cải cách đã tỏ ra yếu thế
trước cánh bảo thủ chuyên chính luôn diển dịch tư tưởng Hồ Chí
Minh ở các khía cạnh đạo đức, dân tộc và xã hội chũ nghĩa. Trong
khuôn khổ ý thức hệ và kế thừa sự nghiệp của lãnh tụ quá cố, phe
cải cách thường lúng túng trong phương cách hành động và nửa vời
ở chủ trương tư tưởng nên thường bị đánh bại bởi phe bảo thủ
chính thống hơn.
·
Các khuôn mặt dân chủ
ngoài Ðảng hoặc thuộc chế độ miền Nam cũ đã bị trấn áp thẳng
tay nhằm ngăn chặn những âm mưu nổi dậy của dân chúng miền Nam
chống độc tài CS. Những lãnh tụ chính trị như Nguyển Ðình Huy,
Phạm Thái; hoặc những khuôn mặt dân chủ thuộc thế hệ mới như bác
sĩ Nguyễn Ðan Quế, giáo sư Ðoàn Viết Hoạt dù đã hy sinh toàn bộ
cuộc đời họ - và của cả gia đình họ vì lý tưởng dân chủ hoá đất
nước vẫn bị một vài khuynh hướng cực đoan hiểu lầm hoặc cố tình
không hiểu tâm tư và đường lối tranh đấu của họ.
Sự phân hoá của những người dân chủ hải ngoại
đã làm cho lực lượng đối kháng với chế độ mỏng ra, yếu đi. Những
mủi tấn công do đó không làm nao núng một chế độ đã hầu như mất
hết lý lịch và lý do tồn tại, nhưng lại rất nhất trí trong việc
bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của một tầng lớp lãnh đạo đảng
chuyên chính.
Tình trạng phân hoá này cũng không tránh được
trong phạm trù tôn giáo, nơi những trung tâm của niềm tin và bảo
tồn đạo đức. Biến cố những chữ ký của "Bản Tuyên Bố Ðòi Tự Do
Tôn Giáo ở VN" là điều vô cùng đáng tiếc cho một đại cuộc. Những
người dân chủ VN nói chung đang nổ lực tối đa để vực dậy một khí
thế đòi dân chủ ở một lãnh vực nhạy cảm và thiêng liêng đối với
mọi người VN dù thuộc bất kỳ tôn giáo nào. Các bản lên tiếng ủng
hộ tuyên cáo của 4 tôn giáo lớn ở VN đã hội tụ lại một niềm tin
tưởng tương đối ở mọi khuynh hướng chính trị, sắc thái xã hội
và tuổi tác.
- Niềm tin dân chủ hoá đang được hâm nóng lại
với «Tuyên Ngôn Dân Chủ 8406» và sự ra đời của «Liên Minh Các
Lực Lượng Dân chủ và Nhân Quyền VN» vào tháng 10.2006. Ðổi thay
một hệ thống giá trị cho một kỷ nguyên mới có thể xuất hiện,
hoặc dân tộc sẽ phải mãi mãi đứng bên lề lịch sử tiến hoá của
nhân loại sẽ là một lựa chọn lịch sử.
Thiển nghĩ như người xưa, "mọi sự đến chổ
cùng sẽ biến", tác giả vẫn có một niềm lạc quan về tương lai mở
cửa của các «pháo đài xã hội chủ nghĩa» Trung Quốc và Việt Nam.
Niềm lạc quan đó đã được củng cố bằng một dấu hiệu đồng thuận
rất rõ nét sau "sự cố" chữ ký của các vị lãnh đạo tinh thần đòi
tự do tôn giáo cho VN, trong thực tế đã dẩn đến một Liên Minh
Dân Chủ kết hợp được khá nhiều tiếng nói trong và ngoài nước.
Niềm lạc quan đó sẽ còn được củng cố hơn nếu những người đối lập
dân chủ chứng tỏ được một khả năng suy nghĩ và viễn kiến chính
xác về những cơ chế, mô hình, phương thức dân chủ hoá và phát
triển đất nước.
Quan niệm như thế, người viết đã không ngại
kiến thức nông cạn của mình để góp ý kiến triển khai một thể chế
dân chủ đa nguyên trong những thao thức về một mẫu dân chủ Việt
Nam tương lai mà tướng Trần Ðộ hoặc Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang
và những nhà tranh đấu cho dân chủ ở trong nước vẫn canh cánh
trong lòng.
Dù quyết tâm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
(CS) của Ban lãnh đạo đảng CSVN hiện tại, các biến đổi lớn và
quyết liệt của một thế giới mới toàn cầu đầu thiên niên kỷ thứ
ba sẽ đồng nhất hoá một mô hình phát triển chung cho mọi quốc
gia muốn xuôi giòng lịch sử. Một tiền đề như vậy sẽ đòi hỏi một
dự phóng tốt nhất cho hướng tiến của đất nước ngày mai. Vấn đề
đặt ra không phải là không cấp bách. Hai hướng phát triển của
quá trình dân chủ hoá VN phải được tiên liệu:
1. Vì mục đích hóa giải chế độ CS
toàn trị, tập thể người dân chủ thuộc "thế hệ dở dang" dù có
những lý lịch chính trị và màu sắc tôn giáo khác nhau vẫn phải
kết hợp thành những xu hướng đối kháng với thế lực chính trị còn
mù quáng bám giữ độc quyền chính trị và chế độ tòan trị. Những
liên minh giai đoạn sẽ còn ổn vững khi còn nhu cầu đối đầu với
những gánh nặng chuyển tiếp khó khăn. Nhưng chúng sẽ rệu rã dần
trong sinh hoạt chính trị tự do của thể chế dân chủ mới, trong
lúc các tổ chức áp lực sẽ chiếm lĩnh dần những không gian chính
trị then chốt vì họ có những điều kiện thuận lợi để bén rể sâu
trong quần chúng do tính chất ngành nghề hoặc màu sắc xã hội
riêng biệt. Các tổ chức tôn giáo, xã hội, nghiệp đoàn có khuynh
hướng chính trị sẽ làm cho những liên minh ấy tan rã nhanh hơn,
ảnh hưởng nặng trên tiến trình xây dựng những cấu trúc dân chủ
chưa vững vàng. Những định chế chuyển tiếp do đó phải dự liệu
những hướng ổn định tình hình trong ngắn hạn mà quan trọng nhất
vẫn là một chế độ chính trị lâm thời hữu hiệu với hành pháp mạnh
được ủy quyền rộng rãi, trong thế liên kết chặt chẽ với một nền
tư pháp sinh động nhằm thực hiện cho kỳ được việc ổn định tình
hình trong thời hạn nhanh chóng nhất. Các hoạt động lập pháp
cũng phải thiết lập cho được chiếc khung mẫu của nhà nước pháp
trị, cung ứng những qui chế rõ rệt cho những tổ chức đảng phái,
hiệp hội chính trị phát triển đúng hướng.
2. Cái khó của Nhà nước chuyển tiếp
là phải thực hiện được những liệu chứng pháp có công hiệu tức
thời, nhưng cũng nhắm đặt những căn bản khởi phát một hành
trình dân chủ lâu dài. Những viễn kiến chính trị có thể vừa đáp
ứng nhu cầu giải quyết cấp thời các vấn đề chính trị, kinh tế,
xã hội; vừa điều chỉnh những cơ chế trong dự phóng tu chỉnh hiến
pháp, mở đường cho một giai đoạn mới ổn định dân chủ và phát
triển kinh tế song hành với công bằng xã hội.
Thoát thai từ một chế độ chuyên chính toàn
trị đã kềm hãm đất nước trong nhiều thập niên, con đường dân chủ
hoá VN sẽ khó nhận dạng và khó đi. Bối cảnh chính trị xã hội
phức tạp kéo dài sẽ ảnh hưởng không ít vào niềm tin và ý chí
thực hiện dân chủ hóa. Thừa hưởng gia tài rách nát của những giá
trị truyền thống đã hầu như tan vỡ trong những bối cảnh thực dân
rồi cộng sản, con người Việt Nam đã phân hoá, chia rẽ, nghi kị
nhau đến một mức độ đáng ngại. Những giá trị đa nguyên rất khó
xác định. Người trong nước có những lý do khá chính đáng xuất
phát từ sự biến thái của nền dân chủ Tây phương để nghi ngại nó,
dù trong thâm sâu họ vẫn mơ ước sự giải phóng và tự do. Người
Việt hải ngoại đang sống trong những môi trường đa nguyên thuận
lợi lại không chứng tỏ được sức thuyết phục của lý tưởng này
trong thực tế hành động của họ. Sự thể hiện đa nguyên giữa
những con người tự nhận là dân chủ với nhau khá tiêu cực. Ða
nguyên chỉ có nghĩa là sự khác biệt về những quyền lợi bản vị
manh mún. Xã hội VN truyền thống đã đánh mất trong quá trình suy
thoái của nó tính đồng nguyên về những quyền lợi tối thượng của
dân tộc nói chung, cao hơn bản sắc cục bộ của tôn giáo hay sắc
tộc. Con đường dân chủ hoá của Việt Nam trong tương lai có thể
là sự hội tụ khó khăn những đa nguyên quyền lợi chi phối mạnh
những xã hội công dân riêng lẽ. Một giá trị đồng thuận có khả
năng kết hợp được những khác biệt mới là chiếc chìa khóa mở
cánh cửa dân chủ thật sự. Những bước đi vững chắc phải được
thực hiện tuần tự tương ứng với từng giai đoạn xã hội với những
bối cảnh riêng. Tuyệt đối tránh ảo tưởng phổ quát của nền dân
chủ chưa hòan chỉnh của phương Tây, hoặc sự cóp nhặt thiếu suy
nghĩ về những mô hình có sẳn. Một nền dân chủ đích thực cho một
đất nước chỉ xuất hiện từ những hiện thực rất khách quan của mỗi
dân tộc.
Hai giai đoạn lớn của tiến trình xây dựng ấy
có thể được phân tích như sau :
A. THỜI KỲ TIỀN DÂN CHỦ:
Vào thời điểm này, các khuynh hướng chính
trị, kinh tế và xã hội sẽ nở rộ dưới nhiều hình thức và sắc thái
khác nhau, nhưng đa số chưa định hình được một hướng đi rõ rệt
vì những chương trình hành động chỉ mang tính cục bộ, ngắn hạn
xuất phát từ những quyền lợi nhất thời và mục đích tranh thắng
phiếu bầu. Phía cử tri lại chưa quen với dân chủ và các thể lệ
bầu cử, thường sợ sệt trước những áp lực hù dọa hoặc bị rỉ tai
tuyên truyền lệch lạc. Trong bối cảnh đó, một Quốc Hội Lập Hiến
chỉ có thể mang tính chất đại diện tương đối cho những khuynh
hướng chính trị nổi bật hoặc các đặc tính tôn giáo, sắc tộc, văn
hoá đặc thù của các địa phương mà thôi. Việc tổ chức bầu cử cũng
nên giản dị để dể dàng hoá việc kiểm soát, bảo đảm tính trong
sạch của cuộc bầu cử. Thể thức thích hợp nhất là bầu theo "danh
sách đóng", cử tri phải chọn toàn bộ một danh sách. Ðơn vị bầu
cử là cấp Tỉnh trên căn bản 200000 dân chọn một dân biểu, vì nền
hành chánh tỉnh thường được tổ chức chặt chẽ (truyền thống hành
chánh thời VN Cộng Hòa cũng như dưới chế độ Cộng Hòa XHCNVN đều
lấy Tỉnh làm đơn vị căn bản của nền hành chánh địa phương, vì
những đặc trưng mạnh về truyền thống thường tập trung trong phạm
trù một tỉnh).
·
Tỉnh nhỏ nhất có 230000
dân chẳng hạn sẽ được bầu một dân biểu. Trường hợp này mỗi đảng
hoặc liên minh chỉ cử một ứng cử viên chính thức và một dự
khuyết.
·
Các tỉnh có 2 ghế trở
lên được bầu theo "danh sách đóng"; nghĩa là cử tri chỉ có
quyền chọn danh sách A, B hoặc D hoặc E của các đảng, tổ chức
hay liên minh chính trị. Danh sách này đã ghi sẳn tên số ứng
viên chính thức tương đương với số ghế được chia +1 ứng cử viên
dự khuyết nếu đơn vị bầu cử dưới 3 ghế và +2 nếu đơn vị bầu cử
có từ 4 ghế trở lên.
·
Các thành phố lớn dân
số đông như Sài Gòn - Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng có thể chia
thành nhiều đơn vị bầu cử.
Thể thức bầu cử này vừa tương đối giản dị vừa
mang tính tranh đua quyết liệt vì chỉ có độc nhất một danh sách
được chọn. Do đó các khuynh hướng chính trị hoặc đảng nhỏ sẽ tìm
cách liên minh với nhau, đặc biệt với những khuynh hướng tôn
giáo hoặc sắc tộc để hy vọng tranh thắng với các đảng hoặc tổ
chức chính trị có tầm vóc lớn và ảnh hưởng mạnh tại địa phương.
Nhiệm vụ chính yếu của Quốc Hội Lập Hiến như
tên gọi là soạn thảo một bản hiến pháp đúng đắn, xác hợp với
tình hình quốc gia, đáp ứng được thực trạng kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước; đồng thời phải dự phóng được một tương lai
phát triển song hành với sự hoàn thiện dân chủ. Việc dự liệu một
thể chế chính trị cho tương lai cũng như những định chế tổ chức
nhà nước và nền hành chánh công quyền, đặc biệt là công tác
chỉnh trang lãnh thổ và phân vùng phù hợp với nhu cầu phát triển
phải được tiên liệu đầy đủ.
Sau khi Hiến Pháp được ban hành, Quốc Hội này
có thể được lưu nhiệm tùy hoàn cảnh, biến thành một Quốc Hội Lập
Pháp trong một thời gian vừa đủ để có thể ban hành những luật
căn bản, những biên chế pháp (loi organique) hiện thực hoá những
đường hướng lớn do Quốc Hội Lập Hiến là tiền thân của nó đã vạch
ra.
B. THỜI KỲ DÂN CHỦ CHUYỂN TIẾP :
Dựa vào kinh nghiệm dân chủ hoá ở các quốc
gia Nam Mỹ, Ðông Âu và Nga, tác giả cho rằng thể chế chính trị
xét ra thích hợp nhất cho giai đoạn phức tạp xuất phát từ những
chuyển đổi xã hội sâu sắc là chế độ bán tổng thống - bán đại
nghị trong đó vị Nguyên Thủ Quốc Gia được toàn dân trực
tiếp bầu ra sẽ đại diện cho sự thống nhất dân tộc. Với vai trò
trọng tài, vị Tổng thống dân cử sẽ có đủ tất cả uy tín và quyền
hành cần thiết để đối phó hữu hiệu với những đột biến của tình
hình.
Bên cạnh đó một Quốc Hội cũng do dân bầu trực
tiếp từ hầu hết các khuynh hướng chính trị quốc gia sẽ đại diện
trực tiếp cho ý chí chung của quần chúng trong các hoạt động lập
pháp xây dựng chế độ dân chủ pháp trị nói chung và đưa ra những
đường hướng chính tổ chức lại nền hành chánh quốc gia xác hợp
với những con đường đi đúng và hữu hiệu nhất sớm đưa quốc gia
đến chổ giàu mạnh. Cũng do cơ chế bán đại nghị này, lãnh tụ của
đảng đa số hoặc liên minh đa số trong Quốc hội sẽ trở thành Thủ
tướng Chính Phủ, thi hành đường lối chính sách của Quốc Hội. Dù
trên nguyên tắc vị Thủ tướng phụ tá hành pháp được Tổng thống bổ
nhiệm và bải chức, nhưng các hành động này phải tuân theo những
qui định chặt chẽ của hiến pháp. Trong cơ chế đại ngh Thủ
tướng là người có thực quyền hành chánh, và cả chính trị.
Nếu Tổng thống chịu trách nhiệm Hành Pháp trước toàn dân để chủ
tọa Hội Ðồng Nội Các thì Thủ tướng là người thực thi ý nguyện
quần chúng thông qua những đường hướng lớn của Quốc Hội. Thủ
tướng do đó là người thực sự cai quản đất nước và chịu trách
nhiệm trước Quốc Hội.
Một bản hiến pháp khả thi và khả dụng ngoài
tính chất trong sáng, chính xác còn phải thích hợp với những
điều kiện hiện hữu của đời sống chính trị và bối cảnh xã hội của
một quốc gia, được soạn thảo trong tinh thần đồng thuận của
những nhà lập hiến có khả năng viễn kiến. Hiến pháp đó trước
tiên bảo đảm cho dân chúng những quyền căn bản nhất về nhân
phẩm, tự do, phát triển. Nó cũng phải tạo cơ hội cho những người
con ưu tú của dân tộc dấn thân phục vụ đất nước và dân chủ. Nó
phải có đủ những liệu pháp để ngăn chặn những khuynh hướng độc
tài cá nhân hoặc đảng phái; đồng thời khai mở dần hướng đi về
trật tự dân chủ tự do.
Trong tinh thần đó, những định chế căn bản
cho giai đoạn chuyển tiếp chính trị VN có thể dự liệu như sau:
B1. Tổng thống :
Trên danh nghĩa Quốc trưởng, Tổng thống đại
diện cho sự thống nhất đất nước với thẩm quyền toàn vẹn lãnh
thổ. Tổng thống đóng vai trò trọng tài quốc gia và chịu trách
nhiệm trước toàn dân đã trực tiếp bầu ra mình.
- Tổng thống có quyền gởi thông điệp đến Quốc
Hội dân cử về những tình trạng đặc biệt của đất nước. Tổng thống
cũng có quyền triệu tập các cuộc trưng cầu dân ý trong các
trường hợp khủng hoảng chính trị hoặc bất đồng ý kiến với Quốc
Hội về những vấn đề hoặc đường hướng lớn của quốc gia.
- Tổng thống ban hành Luật pháp. Ở cương vị
hành pháp Tổng thống cho phép Chính Phủ đệ nạp những dự án luật
trước Quốc Hội. Trong trường hợp cần thiết qui định bởi hiến
pháp, Tổng thống có quyền ra Sắc Luật hoặc Dụ có giá trị như
Luật.
- Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng Chính Phủ
trong phe đa số ở Quốc Hội và qua nhân vật này, bổ nhiệm các bộ
trưởng. Tổng thống cũng có quyền bãi chức Thủ tướng và từ đó
giải nhiệm Nội Các trong những trường hợp và điều kiện do hiến
pháp qui định.
- Tổng thống bổ nhiệm các trưởng nhiệm sở
ngoại giao, tiếp nhận các đại sứ và ủy nhiệm thư; có quyền ký
kết và phê chuẩn các hiệp ước quốc tế.
- Tổng thống bổ nhiệm và bãi chức các chức
việc cao cấp hành chánh và quân đội chiếu đề nghị của Thủ tướng
Chính Phủ.
- Tổng thống chủ tọa Hội Ðồng Nội Các và
trách nhiệm các đường lối đối ngoại. Về những vấn đề quốc nội,
Tổng thống vạch ra những đường hướng chính cho Thủ tướng thỏa
hiệp với Quốc hội thi hành.
- Tổng thống là Tổng Tư Lệnh Quân đội, chủ
toạ Hội Ðồng An ninh-Quốc phòng.
- Tổng thống có quyền giải tán Quốc Hội với
sự đồng ý của Thủ tướng và ý kiến thuận của các Chủ tịch Hội
Ðồng Thượng Viện và Hạ Viện, trong những trường hợp và thủ tục
do luật pháp qui định.
- Nhằm tăng cường một hành pháp
mạnh và đồng nhất, các sắc luật, dụ và sắc lệnh chỉ có giá trị
nếu được Thủ tướng Chính phủ phó thự.
B2. Quốc Hội lưởng viện :
B2a. Hạ Nghị Viện:
Bao gồm một tổng số khoảng 560 dân biểu trên căn bản 150 000
dân có quyền cử một người đại diện. Ðơn vị bầu cử lấy các đơn vị
liên xã làm căn bản. Số dân còn lại của tỉnh nếu vượt quá bán
(75 000) sẽ có thêm một dân biểu.
Phân nửa tổng số dân biểu được bầu theo thể
thức trực tiếp đơn danh. Nửa còn lại chia cho các đảng phái tham
dự theo tỉ lệ nếu có số phiếu đạt được trên 5% tổng số phiếu bầu
hợp lệ trên toàn quốc (do các ứng cử viên đại diện cho đảng dành
được, hoặc tổng số phiếu bầu cho đảng).
Nguyên tắc bầu cử kép như sau: Khi vào phòng
phiếu cử tri sẽ chọn ứng cử viên đơn danh bỏ vào phong
bì. Sau đó chọn tiếp phiếu bầu cho một đảng phái hoặc liên
minh chính trị (có in sẳn danh sách nhiều ứng cử viên đảng
thuộc vùng theo thứ tự) bỏ vào một phong bì thứ hai khác màu.
Thí dụ: Trong vòng bầu cử đơn danh, đảng C
dành được 12 trên 280 ghế trên toàn quốc (4,29%), nhưng số phiếu
bầu cho đảng đạt 5,02%. Trong vòng hai (bổ túc) ở Vùng Tây
Nguyên đảng C thu được 230000 phiếu bầu (trong lúc Liên Minh A
được 390000 phiếu, Liên Minh B thu 250000 phiếu, Ðảng D được
70000 phiếu và Danh Sách E về chót với 60000 phiếu bầu).
Ðể tính số ghế chia cho các Ðảng và Liên
Minh, trước hết phải định thương số tuyển cử, lấy tổng số
phiếu bầu chia cho số ghế qui định (1000000:10=100000). Tiếp đó
lấy số phiếu các liên minh, đảng phái thu đươc chia cho thương
số này, ta sẽ có số ghế cho từng danh sách. Nhưng thông thường
số ghế không chia hết vì luôn có số phiếu dư không tính. Nếu
muốn nâng đở các đảng nhỏ ta dùng phương pháp "số dư lớn nhất",
kết quả sẽ là : L/M A: 3+1 ghế (dư 90000 ph.), L/M B: 2 ghế (dư
50000 ph), Ðảng C: 2 ghế (dư 30000 ph), Ðảng D: 0+1 ghế (dư
70000 ph), D/S E: 0+1 ghế (dư 60000 ph).
Nhưng nếu muốn tăng cường các đảng hay tập
hợp lớn, ta có thể dùng phương pháp chia ghế dư theo phương pháp
"số dư trung bình cao nhất" (cách tính rất phức tạp), hoặc
phương pháp D'Hondt (thường được dùng trong các cuộc bầu cử theo
danh sách ở Bỉ, Ý và Tây Ban Nha) để tìm số ghế chia cho các
danh sách ở vùng Tây Nguyên như sau:
B2a1.- lấy số phiếu đạt được của từng danh sách lần lược chia cho
1,2,3,...
L/M A L/M B Ðảng
C Ðảng D D/Sách E
1 390000 250000
230000 70000 60000
2 195000 125000
115000 35000 30000
3 130000 83330
76660 23330 20000
4 97500 62500
57500 17500 15000
5 78000 50000
46000 14000 12000
B2a2.- do số ghế bổ túc là 10 ta lần lượt
xếp các con số từ 390000 (cao nhất) xuống 250000, 230000,
195000, 130000, 125000, 115000, 97500, 83330 và 78000. Thương số
thứ mười này (78000) được gọi là số phân phối dùng để
tính số ghế chia cho các Ðảng và Liên Minh ở vòng bổ túc.
Kết qủa sẽ như sau:
- Liên Minh A 390000 : 78000 = 5
ghế
- Liên Minh B 250000 : 78000 = 3
ghế
- Ðảng C 230000 : 78000 =
2 ghế
- Ðảng D 70000 : 78000
= 0 ghế
- Danh Sách E 60000 : 78000 = 0
ghế
Phương thức bầu bổ túc theo tỉ lệ này sẽ hợp
lý hoá sự hiện hữu của các tổ chức đảng phái, phong trào, tổ
chức chính trị (thường chỉ mạnh ở một địa phương nào đó trong
thời kỳ đầu mới thành lập) giúp họ có tiếng nói đồng đều ở Quốc
Hội. Ngoài ra, để có thể có hy vọng dành được một vài ghế biểu
tượng, các đảng và tổ chức nhỏ sẽ có khuynh hướng liên minh, tập
hợp tiếng nói và các phương tiện tranh cử với các đảng phái lớn
hơn; làm dể dàng khuynh hướng tự đào thải các đảng manh mún, quá
nhỏ, cục bộ trong thời kỳ đầu chuyển tiếp dân chủ.
Về phương diện tổ chức, cuộc bầu cử
các dân biểu quốc hội gồm 2 cấp:
Ủy Ban Bầu cử Trung ương:
- Soạn thảo và ban hành kế hoạch bầu cử, phân
phân phối số ghế đơn danh và số ghế bổ túc cho các Vùng, theo tỉ
lệ cử tri vùng so với tổng số cử tri toàn quốc.
- Bổ nhiệm ban bầu cử Vùng, đôn đốc và kiểm
soát tiến trình và kết quả bầu cử.
- Giải quyết các khiếu nại tại các đơn vị bầu
cử căn cứ trên biên bản của ban bầu cử vùng.
- Trong trường hợp sự việc gian lận, thiếu vô
tư hoặc tổ chức bầu cử thiếu sót tại đơn vị được kiểm chứng,
cuộc bầu cử liên hệ sẽ được hủy bỏ, và sẽ được tổ chức lại trong
thời hạn sớm nhất (việc chia ghế bổ túc cho các Ðảng phái và
Liên Minh do đó phải chờ kết quả của đơn vị bầu lại mới quyết
định được).
- Tuyên bố kết quả bầu cử trên toàn quốc.
Ban Bầu cử Vùng :
do Hội Ðồng Vùng đề nghị trong khuôn khổ luật lệ bầu cử do Trung
Ương ban hành; có nhiệm vụ giúp tổ chức, theo dõi và kiểm soát
các cuộc bầu cử tại các đơn vị bầu cử nằm trong hoạt vực Vùng.
- Dân biểu có nhiệm kỳ ba năm. Tư cách dân
biểu bất khả kiêm nhiệm với các nhiệm vụ công cử hoặc dân cử
khác, ngoại trừ trường hợp đại diện Quốc Hội tham gia Hội Ðồng
Phát triển Quốc gia. Trong trường hợp được chọn tham gia Chính
phủ hoặc giữ những nhiệm vụ quan trọng khác trong các cơ cấu
hành pháp hoặc tư pháp, dân biểu dự khuyết sẽ thay chổ.
- Dân biểu được hưởng tư cách bất khả xâm
phạm, không bị truy nã, bắt bớ, giam giữ hay xét xử vì quan điểm
phát biểu hoặc quyết định bỏ phiếu trong khi hành xử nhiệm vụ
dân biểu của họ. Suốt trong thời gian khoá họp quốc hội, dân
biểu chỉ bị truy nã bắt giữ với sự cho phép của Quốc Hội do vi
phạm các tội đại hình hoặc tiểu hình, ngoại trừ trường hợp quả
tang phạm pháp. Ngoài khoá họp, một dân biểu chỉ bị bắt giử với
sự đồng ý của Văn phòng Thường trực Quốc Hội nếu không ở trường
hợp quả tang phạm pháp, bị án truy nã hay án chung thẩm.
- Ngoài các khoá họp thường kỳ và bất thường
dự liệu bởi biên chế pháp, Thủ tướng Chính Phủ hoặc đa số quá
bán tổng số dân biểu có quyền yêu cầu triệu tập những phiên họp
đặc biệt trong những điều kiện và thời hạn do luật qui định.
- Trong trường hợp bất đồng ý kiến với Tổng
thống về các dự án luật đi đến chổ bế tắc, hoặc có tranh cải về
các vấn đề cai trị, Quốc Hội với sự thỏa thuận của Hội Ðồng
Thượng Viện có thể đưa vấn đề ra trước Hội Ðồng Bảo Hiến cứu xét
khiá cạnh hợp hiến hay không của dự luật hay hành vi tranh cải.
- Trong trường hợp bội phản của Tổng thống
hoặc do hành vi công hoặc tư vụ gây phương hại nghiêm trọng cho
quyền lợi quốc gia, Quốc Hội với túc số 3/4 có thể đề nghị Hội
Ðồng Thượng Viện thông qua (với túc số quá bán) quyết định truy
tố Tổng thống trước Toà Án Ðặc Biệt thiết lập ở lưởng viện Quốc
Hội với thể thức và tổ chức qui định bởi hiến pháp. Án quyết có
tội mặc nhiên đưa đến sự bãi chức Tổng thống và cuộc bầu cử bổ
túc phải được tổ chức trong vòng hai tháng sau khi có án quyết.
Trong trường hợp bất khả thi hành nhiệm vụ
Tổng thống vì lý do tai nạn, bệnh tật Quốc Hội lưởng viện phải
triệu tập khoáng đại hội nghị và thông qua quyết định miễn nhiệm
của Tổng thống nếu hội đủ túc số 3/4. Thủ tục bầu cử bổ túc như
trường hợp bãi nhiệm nói trên.
B2b. Hội đồng Thượng Viện :
Danh xưng “Hội đồng” mang một ý nghĩa đặc biệt của giai đọan
chuyển tiếp khi định chế lớn này còn đóng vai trò cần thiết của
một “Viện trên” của cơ chế lập pháp hổ trợ cho Hạ nghị viện làm
luật phù hợp với ý nguyện của quần chúng; đồng thời tư vấn cho
Hành pháp trên các vấn đề đối ngọai phù hợp với truyền thống,
thực trạng dân tộc và giám sát nền hành chánh công trong các vấn
đề nội trị để quần chúng có thể được phục vụ hữu hiệu nhất.
Hội đồng bao gồm những thượng nghị sĩ đại
diện cho các Vùng. Ðơn vị bầu cử là vùng, theo thể thức liên
danh của tất cả các khuynh hướng chính trị, tôn giáo, sắc tộc,
hội đoàn, thân hào nhân sĩ có tổ chức cơ sở và họat động trong
Vùng.
Các thượng nghị sĩ được bầu bởi cử tri đòan
bao gồm các nghị viên Hội đồng Vùng, Tỉnh, Xã, các nhân viên
trong biên chế của các Ủy ban Hành chánh liên hệ, Ban trị sự Ấp
(thôn, làng) và 2 thân hào nhân sĩ đại diện cho cử tri ở mỗi ấp,
do Trưởng ấp thỏa hiệp với thôn dân đề nghị vào danh sách đòan
đại cử tri.
·
Hội Ðồng Thượng Viện có
tổng số thượng nghị sĩ bằng 1/3 tổng số dân biểu Hạ nghị viện
(khoảng 188 vị) chia đều cho các vùng theo tỉ lệ dân số.
·
Nhiệm kỳ của thượng
nghị sĩ là 4 năm.
·
Hội Ðồng Thượng Viện
họp các phiên thường lệ 3 tháng một lần. Các khoá họp không kéo
dài quá 10 ngày. Hội Ðồng có thể được triệu tập bất thường bởi
Chủ tịch Thượng Viện theo đề nghị của Tổng thống, Chủ tịch Hạ
Nghị Viện hay quá bán tổng số thượng nghị sĩ đề nghị.
·
Các thượng nghị sĩ
không hưởng lương ngoại trừ Văn phòng thường trực Thượng Viện,
bao gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch Thượng Viện và các Chủ tịch và ủy
viên thường vụ các Ủy ban Ngọai giao, Tư Pháp- Định chế, Sắc
tộc, Văn hóa-Giáo dục-Xã hội-Lao động, Quốc phòng-Nội vụ, Kinh
tế-Tài chánh và Khoa học-Kỷ thuật... Tuy nhiên các Thượng nghị
sĩ được hưởng khỏan thù lao đặc biệt suốt trong các khóa họp
thường lệ và bất thường cọng thêm các quyền lợi về di chuyển, cư
trú khác qui định bởi biên chế pháp. Một bồi khỏan cho Văn phòng
điều hành của Thượng nghị sĩ ở địa phương do Vùng đài thọ.
·
Hội đồng Thượng viện
biểu quyết các dự luật (projet de loi) của chính phủ đã được Hạ
Nghị viện thông qua và các dự thảo luật - proposition de loi của
các dân biểu (Ở Pháp, các thượng nghị sĩ cũng có quyền đưa ra
sáng kiến dự thảo luật, nhưng thực tế không nhiều). Về các vấn
đề liên quan đặc biệt đến đời sống và sự phát triển bền vững của
xã hội dân sự, nếu cần các Ủy ban chuyên trách có thể xúc tiến
các cuộc nghiên cứu, điều tra sâu rộng để hoặc đề nghị tu chính
hoặc đồng ý thông qua. Trong trường hợp biểu quyết của Thượng
viện khác với Hạ viện, một Ủy ban hổn hợp gồm số Thượng nghị sĩ
và dân biểu ngang nhau sẽ thảo luận tìm một thỏa hiệp tương
thuận. Nếu không đồng ý, dự luật sẽ chuyển hòan lại Hạ nghị viện
thảo luận và biểu quyết thành luật.
·
Hội Ðồng Thượng Viện
tham vấn cho Hành Pháp về các vấn đề lớn của quốc gia, các hiệp
ước quốc tế, đề nghị chiến tranh hay hoà bình, tình trạng khẩn
trương...
·
Ủy ban Tư pháp-Định chế
trách nhiệm cứu xét tiên khởi các khiếu nại về những phán quyết
của Tòa án thường tụng bị nghi ngờ không hợp hiến, kết luận về
tính chính đáng hay không của khiếu nại để quyết định hoặc
chuyển lên Tòa Án Bảo hiến hoặc bác khước và chuyển hòan khiếu
nại. Về các khiếu tố liên quan đến các hành vi hành chánh của
các cơ quan công quyền, Ủy ban nghiên cứu chuyển hồ sơ đến các
Toà Án Hành Chánh liên hệ xét xử.
·
Mỗi cuối năm Hội Ðồng
Thượng Viện thông qua bản đúc kết về tình trạng thi hành dân
chủ, nhân quyền và công vụ của các cơ quan nhà nước, đề nghị
những biện pháp cải thiện.
·
Chủ tịch Hội dồng
Thượng viện xử lý chức vụ Tổng thống trong trường hợp vắng mặt
của viên chức này trong trường hợp công du, bệnh tật, hoặc bị
bãi nhiệm hay bãi miễn chờ tổ chức bầu Tổng thống mới.
B3.- Thủ tướng Chính Phủ :
Là lãnh tụ của phe đa số ở Quốc Hội, nhân
vật này thể hiện đường lối chính trị của Ðảng đa số trong việc
quản trị đất nước.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, các đảng phái
chưa được xây dựng và tổ chức đúng mức để có thể đảm đương nhiệm
vụ điều khiển quốc gia, thường phải tìm kiếm một thế liên minh
với các đảng phái khác thành lập phe đa số ở Quốc Hội. Liên Minh
này chắc chắn có tính chất hời hợt, giai đoạn. Theo đó uy thế
của Thủ tướng cũng trở thành trôi nổi, không ổn định. Vì thế
sống còn của chính phủ, vị thủ lãnh chính trị đa số phải tìm
kiếm thêm những nguồn yểm trợ khác từ các giáo hội, thủ lãnh
nghiệp đoàn, các hội đoàn áp lực chính trị... để có thể thi hành
chính sách của mình. Một chính phủ thiếu ổn vững hoặc vị Thủ
tướng không đủ mạnh không do tính nguyên tắc của cơ chế đại nghị
mà đến từ vấn đề thực lực các đảng phái chính trị đã suy yếu đi
vì nguyên tắc tổ chức không đáp ứng được nhu cầu chính trị ngày
càng phức tạp trong thời đại mới. Trong khung cảnh chuyển tiếp,
thế lực các nhóm quyền lợi và áp lực luôn luôn mạnh hơn các đảng
phái. Do đó, Nội Các và Thủ tướng thuộc đảng lớn nhất có thể trở
thành mong manh về phương diện chính trị trước những khuynh
hướng luôn chuyển đổi ở Quốc Hội theo những đề tài thời sự, hoặc
theo quyền lợi nhất thời của các thành viên Liên Minh hoặc Liên
Hiệp. Tùy khả năng cá nhân, người trách nhiệm chính phủ có thể
tìm kiếm thêm sự hậu thuẩn của các nhóm quyền lợi và áp lực đại
diện cho xã hội dân sự vì nhu cầu ổn định cần thiết. Tuy nhiên
những thỏa hiệp đó phải nhằm mục đích phục vụ cho công ích của
quần chúng xã hội nhiều hơn là quyền lợi riêng tư phe nhóm. Thực
tế chính trị vẫn cho thấy là hầu hết các đối tác chính trị - xã
hội thường đặt nặng quyền lợi cục bộ trên những nghĩa vụ đối với
quốc gia và lợi ích công cọng của xã hội.
Vai trò của Thủ tướng rất quan
trọng trong giai đoạn này. Một mặt Thủ tướng hiện thực hoá những
quyền hành hiến định của cơ chế đại nghị, đồng thời biểu dương
tư cách lãnh đạo của mình từ những thực lực chính trị kết hợp
được. Tuy nhiên quyền hành xử của vị Thủ tướng thường rất tế nhị
trước một Tổng thống dân cử trực tiếp.
·
Với vai trò Chủ tịch
Hội Ðồng Phát Triển Quốc Gia, Thủ tướng chịu trách nhiệm cao
nhất trong việc điều hành nền hành chánh công quyền ở đầu nảo
Trung Ương trong các chính sách hợp tác chặt chẽ với các Vùng
nhằm phát triển toàn bộ quốc gia trong mọi lãnh vực, định đường
lối giúp đở các Vùng phát triển đồng đều trong tinh thần tương
trợ đoàn kết quốc gia.
·
Thủ tướng cũng sẽ là
người đóng vai trò điều hợp quan trọng nhất trong việc thực
hiện các quốc sách thông qua những đạo luật chuyển qua Quốc Hội
từ các Bộ chuyên môn. Các vấn đề cấp bách của xã hội chuyển tiếp
có được giải quyết hữu hiệu và kịp thời hay không nằm ở vấn đề
then chốt là các thủ tục lập pháp có được quyết định thỏa đáng,
có bổ túc hoàn thiện trong thời hạn thảo luận và được biểu quyết
trong những điều kiện tốt đẹp nhất?
·
Ở vai trò trung tâm của
các tương quan quyền lực giữa Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp,
Thủ tướng Chính Phủ sẽ là người trách nhiệm cao nhất về sự thành
công hay thất bại của các định chế chuyển tiếp.
B4. Hội Ðồng Bảo Hiến :
Là cơ quan tối cao bảo vệ nền dân chủ tự do
non trẻ, củng cố những thể chế hiến định; cùng lúc xây dựng và
hoàn thiện một hệ thống pháp luật thể hiện được những nguyên tắc
của nền dân chủ pháp trị, Hội Ðồng Bảo Hiến phải hội đủ những tư
cách độc lập hẳn với các tổ chức chính trị, với hành pháp và lập
pháp.
·
Hội Ðồng có thể bao gồm
14 thành viên trong đó 3 vị do Tổng thống chỉ định, 3 do Hạ Nghị
Viện và 3 do Hội Ðồng Thượng Viện đề cử. Năm vị còn lại do Hội
Ðồng Thẩm phán tối cao chọn lựa chiếu đề nghị của thẩm phán đoàn
(2 thẩm phán xử án, 2 thẩm phán công tố) và luật sư đoàn (1 vị).
Các thành viên chỉ định hay đề cử bắt buộc phải có kiến thức sâu
rộng về luật hiến pháp và công luật, xuất thân từ các giáo sư,
thẩm phán cao cấp hay luật sư dày kinh nghiệm, các nhà nghiên
cứu hoặc dân cử đã đóng góp thành tích rực rỡ cho các hoạt động
lập hiến và lập pháp.
·
Ðể bảo đảm tính chất
trung thực và độc lập với các định chế đã bầu ra hay các tổ chức
chính trị mà họ trực thuộc, các thành viên của Hội Ðồng Bảo Hiến
được hưởng những qui chế đặc biệt về lương bổng và các tiện nghi
phụ thuộc, đứng ngoài luật pháp (chỉ chịu sự xét xử của Toà Án
Tối cao Ðặc biệt như Tổng thống, Thủ tướng và các Chủ tịch Hạ
Viện và H Ð Thượng Viện trong trường hợp vi phạm luật pháp vì
công vụ hay hành vi cá nhân). Nhiệm kỳ của họ được ấn định là 8
năm không gia hạn. Trường hợp mệnh một hoặc bị truất quyền, định
chế chỉ định hay đề cử hội viên liên hệ có nhiệm vụ cử người
thay thế. Các tân hội viên này mãn nhiệm đồng thời với Hội Ðồng.
Chủ tịch Hội Ðồng được bầu trong phiên họp đầu tiên. Chủ tịch đề
nghị Hội đồng cử nhiệm các Chánh Nhất và Phụ Thẩm các Tòa Án Bảo
Hiến và Tòa Phá Án trong số hội viên của Hội đồng.
B4a. Tòa Án Bảo Hiến
xét xử những tranh tụng về tính chất hợp hiến hay không của của
các phán quyết, luật lệ, quyết định hành chánh... theo các
trường hợp sau đây :
·
Cá nhân các công dân có
thể tranh tụng về tính chất hợp hiến của một phán quyết do một
toà án thường tụng tuyên bố, theo thể thức do luật pháp qui định
thông qua Ủy Ban tiền cứu xét của HÐ Thượng Viện. Chỉ có những
tranh tụng hợp lệ và chính đáng mới được chuyển lên Toà Án Bảo
Hiến xét xử.
·
Các tổ chức chính trị,
hiệp hội, nghiệp đoàn có tầm vóc quốc gia có quyền khiếu tố
thẳng lên Tòa Án Bảo hiến những đạo luật, quyết định được xem là
vi hiến.
·
Tổng thống, Thủ tướng,
các Bộ trưởng, Dân biểu, Thượng nghị sĩ và các thành viên khác
của Hội Ðồng Thẩm phán Tối cao với tư cách cá nhân có thể khiếu
tố thẳng lên Tòa Án Bảo hiến về tính chất bất hợp hiến phát hiện
được trong lúc thừa hành nhiệm vụ.
·
Trong trường hợp có
tranh chấp hay bất đồng ý về tính chất hợp hiến hay không của
các đường lối chính sách quốc gia giữa các cơ chế hiến định,
Hành Pháp và Lập Pháp; hoặc giữa Tổng thống và Thủ tướng trên
phương diện thực hiện những quốc sách chẳng hạn, Hội Ðồng Bảo
Hiến sẽ triệu tập những phiên họp khoáng đại cứu xét. Trong
trường hợp Hội đồng tuyên bố vô thẩm quyền, sẽ đề nghị Tổng
thống tổ chức trưng cầu dân ý.
·
Với tư cách là định chế
tối cao bảo vệ và phát triển dân chủ, Hội Ðồng Bảo Hiến ngoài
thẩm quyền xét xử còn có nhiệm vụ giải thích hiến pháp ở những
điều khoản không được rõ ràng, minh bạch.
B4b. Tòa Phá Án
có nhiệm vụ ban hành những án lệ với mục đích hoàn thiện luật
pháp quốc gia.
·
Toà Phá Án xử chung
thẩm, trong một lần duy nhất các kháng án do các Tòa Thượng Thẩm
chuyển lên. Nhằm mục đích làm sáng tỏ luật pháp, các phán quyết
của Tòa Phá Án phải giải thích rõ ràng những lý do chấp thuận
hay bác khước các quyết định của Tòa Thượng Thẩm. Trong những
trường hợp đặc biệt và có tính chất điển hình của vụ án, Toà Phá
Án ban hành những án lệ bổ túc các pháp chế liên hệ.
·
Trong giai đoạn chuyển
tiếp chính trị còn tồn tại những vấn đề pháp luật tế nhị, khi mà
những thay đổi đến tận gốc rể xã hội với vô vàn những vấn đề mới
nảy sinh, Tòa Phá Án còn có nhiệm vụ theo dõi sự vận hành nhanh
chóng đúng qui lệ của các tòa án và các thủ tục pháp lý nói
chung.
·
Việc thống thuộc Hội
Ðồng Bảo hiến và những thẩm quyền đặc biệt tạm thời này của Tòa
Phá Án nhắm mục đích xét xử kịp thời những tội phạm và những tệ
nạn tiêu cực nảy sinh trong lúc giao thời. Tính răn đe, ngăn
chặn này phải đi kèm với mục đích tinh yếu khác của luật pháp là
giáo dục, phổ biến luật pháp sâu rộng trong quần chúng, gây dựng
tinh thần trọng pháp. Khi mọi người đều hiểu luật và biết rõ cái
giá của những trừng phạt, tệ nạn xã hội và những tội phạm sẽ
giảm bớt.
- Hết Chương IX –
Xem
tiếp
Chương X :
Nền dân chủ trong
giai đoạn ổn định
|