Về một
NỀN DÂN CHỦ
PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Lê Minh Văn
Phần III : VIỄN TƯỢNG MỘT NỀN DÂN CHỦ DIÊN HỒNG
Chương 10 :
Nền dân chủ trong giai đoạn ổn định
Nhận định về Tổng thống chế
và Chế độ lập pháp
A.
Chính sự viện (Quốc Hội)
B.
Dân sự viện (Viện Diên Hồng)
C.
Tổng thống
D.
Thủ tướng Chính phủ
E.
Tòa Án Bảo hiến
Lời bạt
Các điều kiện chính trị, xã hội văn hóa Việt Nam với những nét
đặc thù đòi hỏi một cấu trúc chính trị và những định chế hiến
pháp có thể khác biệt với các khuôn mẫu dân chủ sẳn có. Hai thể
chế thông dụng ở các nước dân chủ tiên tiến là tổng thống chế và
đại nghị chế đều có những mặt không thích hợp với điều kiện Việt
Nam:
I. HAI MẪU HÌNH DÂN CHỦ PHỔ THÔNG :
- Tổng thống chế sở dĩ thành công được ở Hoa Kỳ
bởi truyền thống dân chủ lâu đời đã xây dựng được hai khuynh
hướng chính trị bổ túc nhau trong qui luật luân phiên chính trị
là Cộng Hoà bảo thủ, hữu khuynh; trong lúc đảng Dân Chủ có
khuynh hướng xã hội trong hầu hết các lãnh vực hoạt động của
quốc gia và sự hình thành cá nhân công dân. Nhưng tùy thuộc vào
bối cảnh chính trị từng giai đoạn, đường lối và chính sách theo
đuổi giữa đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa nhiều khi chỉ có những khác
biệt về tiểu tiết. Thí dụ điển hình là cựu Tổng thống Clinton
trước nhu cầu tranh cử và để đối phó với nguy cơ thâm thủng ngân
sách quốc gia có ảnh hưởng tai hại cho tăng trưởng kinh tế đã
không ngần ngại từ bỏ truyền thống cứu trợ xã hội của đảng, cắt
giảm và giới hạn những chương trình an sinh xã hội. Chủ trương
tiết giảm ngân sách, giới hạn người nhập cư kinh tế, phục hồi
nhân phẩm Mỹ vẫn là những khẩu hiệu tranh cử chủ lực và là
truyền thống của đảng Cộng Hòa.
Nhờ hệ thống lưỡng đảng chặc chẽ cùng chia xẽ một hệ thống giá
trị đặc biệt Mỹ đó mà thể chế tổng thống Hoa Kỳ khá ổn định kể
từ thời lập quốc. Ngoài một hiến pháp xưa cũ, tương đối phù hợp
với một xã hội đa chủng mà luật pháp luôn được coi trọng, bên
cạnh một tầng lớp luật gia thẩm phán đông đảo có nhiều quyền lực
mà các cơ chế dân chủ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã trở thành biểu
tượng cho nền dân chủ hiện đại. Trái lại, nơi những quốc gia
khác thiếu vắng những điều kiện tiên quyết đó, tổng thống chế
hầu như đã trở thành lệch lạc, không cân đối bởi một hành pháp
quá mạnh và tập trung đã lấn át hẳn lập pháp. Trước một tổng
thống được toàn dân bầu lên bằng thể thức trực tiếp, phổ thông,
các quốc hội không thấy mình có đủ trọng lượng để kiểm soát hành
pháp; đôi lúc lại biến thành công cụ biểu quyết luật theo ý muốn
và nhu cầu hành pháp. Luật pháp dĩ nhiên nằm gọn trong tay Tổng
thống biểu tượng cho quyền lực tối thượng và đóng vai trò tối
cao trọng tài quốc gia. Tình trạng này nhan nhản trong các chế
độ tổng thống ở Nam Mỹ, Nga, Trung, Ðông Âu và rõ rệt nhất là ở
VNCH cũ với các tổng thống dân cử Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu...
- Chế độ Lập pháp (représentatif) cũng thế, không
còn là mẫu mực chuẩn của các nền dân chủ Tây Âu nữa bởi các hiện
tượng sau đây :
- Các cử tri có khuynh hướng bầu khác nhau qua các cuộc bầu
cử. Các cuộc điều tra cho thấy số cử tri xác nhận tư cách chính
trị của mình lệ thuộc vào một đảng phái ngày càng ít đi.
- Những khác biệt giữa các khuynh hướng hoặc quan điểm về các
vấn đề xã hội trở thành giả tạo. Thí dụ trước cuộc khủng hoảng
của qũi an sinh xã hội Pháp, những chính phủ kế tiếp của những
liên minh RPR-UDF (Cánh Hữu), đảng Xã Hội (Cánh Tả), và ngày
nay, cánh hữu UMP, chưa cho thấy quan điểm rõ rệt nào khác cho
những giải pháp hữu hiệu (ngọai trừ trường hợp Tổng thống
Sarkozy mới đắc cử đang theo đuổi một chính sách kinh tế tự do
hòan tòan nghiêng về khuynh hướng tăng cường tăng trưởng dù ngân
sách thêm thâm thủng trầm kha và quyền lợi và mãi lực dân nghèo
bị hy sinh, trong lúc lời hứa tranh cử và những diễn văn đều hứa
hẹn những giải pháp xã hội mị dân).
- Chiến dịch tranh cử dựa trên sự tạo dựng những hình ảnh khá
mơ hồ, trong đó tư cách cá nhân người lãnh đạo chiếm vai trò ưu
thế hơn những hứa hẹn từ chính sách chủ trương của đảng mang
lại.
- Hình ảnh các chính khách được xây dựng từ những cá nhân phụ
thuộc vào môi trường sinh hoạt của những câu lạc bộ đặc biệt do
tính chất nghề nghiệp, văn hóa, lối sống... khác hẳn và cách
biệt với quảng đại quần chúng.
- Vũ đài chính trị hiện tại bị khống chế hoàn toàn bởi giới ký
giả, chuyên viên truyền thông (đặc biệt là TV) và các nhà thăm
dò dư luận. Các quyết định bầu cử do đó bị ảnh hưởng nặng nề làm
lệch lạc những ý nguyện trung thực của quần chúng cử tri. Cuộc
thắng cử Tổng thống Pháp tháng 04.07 vừa qua cho thấy lợi thế áp
đảo của ứng cử viên Sarkozy nắm trong tay tòan bộ giới truyền
thông đã áp lực rõ rệt trên kết quả cuộc bầu cử.
- Cũng qua các phương tiện truyền thông, người thắng cử thường
chỉ dựa trên tài ăn nói của họ, những yếu kém về thực tài quản
trị đất nước bị che dấu. Sự xa cách giữa chính quyền và xã hội,
giữa người dân biểu và quần chúng bầu ra họ do đó lớn dần (theo
Bernard Manin -Principes du gouvernement représentatif- Nxb
Calman Lévy).
Mặc dầu những lệch lạc đã nảy sinh trong bối cảnh một nền văn
minh kỷ thuật phát triển nhanh hơn nhiều lần những đáp ứng văn
hóa và sự mất cân đối của những xã hội thiên về khuynh hướng thụ
hưởng đã đặt ra những vấn đề không nhỏ mà tính hữu hiệu của các
cơ chế đại nghị đang bị thử thách, nền dân chủ Tây Âu vẫn thể
hiện những sắc thái căn bản nhất trong sinh hoạt dân chủ nghị
trường. Vấn đề đặt ra là các đảng hoặc những tập hợp chính trị
thường có khuynh hướng dè dặt, ngại chuyển đổi trong bối cảnh
kinh tế trì trệ ở cựu lục địa. Một nước Ðức sau thống nhất chẳng
hạn. Xã hội đã hoàn toàn đổi thay kể từ ngày sát nhập thêm 5
lander của Ðông Ðức với mức sống, cách sinh hoạt, tâm thức của
con người hoàn toàn khác biệt, cọng thêm những cơ chế vận hành
kiểu "cộng hòa dân chủ" ở các bang ấy đã làm chao đảo hẳn một
nền dân chủ mẫu mực và ổn định nhất của các thể chế phương Tây.
Các nhà lãnh đạo Ðức đã tỏ ra quá tự hào về tính chất nhất quán
của "Ðạo Luật Cơ Bản" được thảo ra từ 1949, mặc nhiên biến nó
thành Hiến Pháp Thống nhất. Họ có lý phần nào khi duy trì chiếc
khung mẫu ấy làm vũ môn cho các chú cá rách mướp Ðông Ðức hóa
rồng. Nhưng những cố gắng hội nhập trong thực tế đã tỏ ra khó
khăn, lâu dài đối vối những xã hội công dân Ðức hạng hai đã làm
lung lay những nguyên tắc căn bản nhất về trật tự hiến định của
dân chủ tự do, cơ sở xã hội của cơ chế thị trường, nhà nước bảo
trợ... Thế nhưng những đổi thay cần thiết cho cấu trúc của các
tổ chức và liên minh chính trị hoặc những tu chính hiến pháp cần
thiết cho những nhu cầu chuyển đổi xã hội trong thời đại mới
vẫn chưa xảy ra, hoặc rất giới hạn.
Ở Pháp cũng thế, người hùng giải phóng đất nước Charles De
Gaulle có đủ tư cách chính trị để trở thành một tổng thống lớn,
do đó có quyền tập trung trong tay những quyền hành rộng rãi
theo qui định của Hiến Pháp Ðệ Ngũ Cộng Hòa mà ông là cha đẻ.
Trong khuôn khổ một hiến pháp cho phép Hành Pháp rộng quyền hành
động trong lãnh vực kinh tế - tài chánh đã làm cho nước Pháp
phồn vinh nhanh chóng trong gần hai thập niên, nhưng sau ông
những khoảng trống chính trị đã xuất hiện. Những tổng thống kế
vị hoặc đã lạm dụng những quyền hạn quá rộng rãi dành cho tổng
thống để củng cố uy thế cá nhân như những hành vi tai tiếng đang
còn trong vòng nghi vấn về cựu tổng thống Mitterand; hoặc đã tỏ
ra thiếu liêm chính khi áp lực phe đa số cầm quyền của quốc hội
biểu quyết thông qua những đạo luật che chở cho cá nhân tổng
thống tránh né những thủ tục pháp lý liên quan đến những hành vi
thiếu trong sáng đã phạm trong những chức vụ trước khi đắc cử,
như trường hợp cựu Tổng thống Chirac (nhưng chỉ 6 tháng sau khi
bàn giao quyền hành cho người kế nhiệm ông đang bị xét xử với
nhiều tội danh trong đó « tội biển thủ công qủi » trong việc
tuyển dụng những công cán ủy viên ma lúc còn là Thị trưởng Paris
đã gây xao động chính trường Pháp về một thanh toán chính trị mà
tác giả không ai khác hơn là Tổng thống đương nhiệm Sarkozy, một
đệ tử cũ do chính Chirac đào tạo, cùng phe cánh hữu).
Xã hội chính trị thu hẹp lại trong những lối mòn tư tưởng,
thiếu tính chất hấp dẫn của những sáng kiến chính trị. Khả năng
lãnh đạo yếu kém đã làm xói mòn uy tín của giới chính khách
trong lòng quần chúng. Alain Lancelot đã nhận định rất đúng
trong tiểu luận "L'influence du suffrage universel sur la vie
politique" in La France présidentielle - Presses de Sciences Po.
như sau : "để cho nước Pháp (sẽ) theo tổng thống chế khỏi rơi
vào hình ảnh một đấu trường khép kín trong đó những màn thăm dò
dư luận hoặc kỷ thuật thuyết phục thông qua tài biện luận của
các phe chuẩn tổng thống xâu xé nhau nhưng cùng chia xẻ chung
một tham vọng, cần phải mở rộng một không gian dân chủ đủ thoáng
đảng cho những tranh luận thật sự về những dự án luân phiên
chuyển đổi chính trị. Nhưng khẩn thiết hơn là phải tái huấn
luyện tinh thần công dân cho cử tri và cho cả những người
dân cử. Chế độ tổng thống của nước Pháp phơi bày rõ rệt ước vọng
tối cần đó".
Sự suy thoái tư cách công dân đang làm lệch hướng tất cả các
mục đích tốt đẹp của các thể chế dân chủ nói chung. Vấn đề mang
tính chất thời đại, phát sinh từ cơ chế vận hành của nền dân chủ
phải chuyển đổi cho phù hợp với những thăng tiến chóng mặt của
kỷ thuật và tăng trưởng kinh tế, đã bỏ lại đằng sau một nền văn
hóa èo uột đầy thương tích. Lancelot cho rằng nền dân chủ Pháp
phải làm những nổ lực cần thiết, khởi từ những điểm chuẩn hiện
tại tìm kiếm về cội nguồn của mình. Phải tái tạo lại tinh
thần công dân. Mỗi lứa tuổi có một tư cách công dân riêng,
đòi hỏi một nền công dân giáo dục thích ứng.
II. VIỄN TƯỢNG MỘT NỀN DÂN CHỦ DIÊN HỒNG ?
Từ tiêu điểm này, người viết đã tập trung những suy luận về
nền tảng của mọi định hướng phát triển dân chủ Việt Nam dựa trên
giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và giáo
dục chính trị.
Trong tầm nhìn dài hạn, một khi giai đoạn chuyển tiếp hoàn
thành, những nhu cầu dân chủ cấp bách đã giải quyết, những hạ
tầng cơ sở cho sự khởi phát một nền dân chủ xứng đáng đã chuẩn
bị được, VN bắt buộc phải gia tốc phát triển, bù lại khoảng thời
gian lãng phí của những trể hẹn lịch sử trong quá khứ, nhằm đuổi
kịp những tiến bộ cần thiết để đất nước có thể hội nhập trọn vẹn
vào một thế giới mới toàn cầu hoá. Những viễn tượng đó chỉ có
thể đạt được bằng những bước thực hiện tương đối táo bạo, những
suy nghĩ dám vượt những khuôn mẫu, ước lệ có sẳn. Một kỷ nguyên
VN mới sẽ chỉ mở ra được với sự trưởng thành song đôi của hai xã
hội chính trị và dân sự, bảo đảm cùng lúc những kỹ thuật phát
triển và lý tưởng công bằng xã hội trong đó nhân quyền và nhân
phẩm của người dân được bảo đảm, quyền lợi và nghĩa vụ công dân
được dung hòa.
Tương quan xã hội giữa các con người có những tư tưởng khác
nhau sẽ được xác lập trên tinh thần trách nhiệm và tôn trọng tha
nhân. Giữa hai thực thể nhà nước và công dân, tính phân
công mặc thị chính trị - xã hội phải tuần tự xuất hiện giữa
một xã hội chính trị chuyên trách mặt nhà nước và xã hội dân sự
đóng vai trò áp lực, phán xét, thúc đẩy các tác động phát triển
về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục.
Những điều kiện này sẽ tạo
dựng môi trường đồng thuận dân tộc để mọi sắc thái chính
trị, văn hóa và tôn giáo có thể ngồi lại với nhau, bàn thảo cùng
xây dựng đất nước như mong ước tác giả đã trình bày trong phân
đoạn 2/B chương 1 về "sắc thái tôn giáo-xã hội đặc biệt VN".
Với những triển vọng như thế, mô hình đề nghị về một cơ chế dân
chủ dựa trên sự phối hợp hài hòa hai không gian chính trị và dân
sự dù cần điều kiện, nhưng không phải là bất khả thi.
Ở các nước dân chủ non trẻ, nhìn chung chính phủ đại nghị
(parlementarisme) dễ tạo khung cảnh thể hiện tinh thần dân chủ
hơn, và cũng ứng hợp với cơ chế thị trường hơn là một chế
độ tổng thống với các vấn nạn thường thấy.
Thể chế bán tổng thống - bán đại nghị đã được đề nghị cho giai
đoạn chuyển tiếp dân chủ nhằm đáp ứng nhanh những nhu cầu khẩn
thiết và tự phát của giai đoạn này, đồng thời chuẩn bị những
thói quen dân chủ trong sinh hoạt bầu cử của cử tri và hoạt động
nghị trường của các đại biểu quốc hội.
Qua một thời gian tương đối đủ
dài cho các thay đổi căn bản về luật pháp, dân sinh dân trí,
sinh hoạt chính trị, hoạt động hiệp hội ngành nghề... các dự án
tu chính hiến pháp có thể dự phóng một thể chế Quốc hội độc viện
về phương diện chính trị, bên cạnh một viện Diên hồng (Dân sự
viện) vừa có tính cách đối trọng trong một chừng mực nào đó, vừa
đóng chức năng bổ túc cho Chính sự viện và tư vấn cho Hành pháp,
thăng bằng và cân đối hóa đời sống chính trị quốc gia với sự
hiện diện cần thiết của xã hội dân sự trong các định chế nhà
nước, đặc biệt là các hội đồng tham vấn:
A. Chính Sự Viện (Quốc Hội):
Tập hợp mọi khuynh hướng chính trị đủ tư cách đại diện. Các
dân biểu sẽ được bầu theo hai thể thức :
- Bảy mươi lăm phần trăm (thay vì 1/2 của giai đoạn chuyển
tiếp) trong tổng số dân biểu qui định cho Chính Sự Viện sẽ được
bầu theo thể thức đơn danh ở các đơn vị mà luật bầu cử đã
qui định. Mỗi Liên Minh chỉ có quyền đưa ra một ứng cử viên
chính thức và một dự khuyết ở mỗi đơn vị bầu cử.
- Hai mươi lăm phần trăm tổng số dân biểu bổ túc sẽ được chọn
theo phương thức tỉ lệ, chia cho tất cả các đảng phái
hoặc liên minh tham dự bầu cử có số ghế do các ứng cử viên đại
diện đảng đạt được trong vòng bầu cử đơn danh hơn 5% tổng số ghế
qui định, hoặc số phiếu đảng đạt được hơn 5% trên tổng số cử
tri, theo nguyên tắc và cách tính đã trình bày trong chương 9 -
dự phóng dân chủ 1.
Ở giai đoạn ổn định này các
danh sách đảng hoặc liên minh chính trị tham dự bầu cử sẽ lập
cho qui mô toàn quốc, chung cho tất cả các đơn vị bầu cử của
cả nước thay vì danh sách Vùng, và bầu theo đơn vị vùng như
trước đây. Mỗi cử tri trong cuộc bầu cử dân biểu khi vào phòng
phiếu cũng phải làm lần lượt hai động tác :
* Chọn dân biểu đơn danh trong số các ứng cử viên của đơn vị.
* Chọn đảng phái, tổ chức hay
liên minh chính trị tham gia ứng cử trên toàn quốc (trên phiếu
bầu in sẳn danh sách các ứng cử viên do đảng hay liên minh lập
theo thứ tự).
Tùy phân số tỉ lệ của kết quả đơn danh, các tổ chức đảng
phái hay liên minh chính trị vượt được cấp số 5% sẽ được chia
bổ túc thêm số dân biểu tương ứng chọn trong các ứng cử
viên có số phiếu bầu cao nhất theo thứ tự (thí dụ sau cuộc khui
phiếu Liên Minh XY dành được 90 ghế trên 420 ghế đơn danh (tỉ lệ
21,43%) Luật tổ chức bầu cử hiện hành chọn phương pháp tính số
ghế bổ túc theo phương pháp "số dư trung bình cao nhất" theo
khuynh hướng tăng cường các tập hợp lớn, Liên Minh này được chia
thêm 31 ghế bổ túc trong tổng số 150 ghế còn lại chọn trong
những người cao phiếu nhất từ 1 đến 31 trên danh sách liên
minh).
- Nhiệm kỳ của dân biểu là 4 năm
như thường thấy ở các nền dân chủ tiến bộ. Tư cách dân biểu bất
khả kiêm nhiệm với các chức vụ công cử và dân cử khác.
- Quyền lợi và nhiệm vụ của dân biểu không thay đổi.
B- Dân Sự Viện:
Ðịnh chế đóng vai trò giám sát và tham vấn, bao gồm số thượng
nghị sĩ bằng 1/3 dân biểu Chính sự viện, được bầu theo những thể
thức như sau :
* Hai phần ba số thượng nghị sĩ được bầu ở đơn vị Vùng
theo danh sách do người thụ ủy liên danh lập. Như tên gọi của
định chế, tính cách đại diện cho những sắc thái dân sự
vùng như tôn giáo, sắc tộc, hoạt động chuyên biệt hay uy tín
cá nhân của các nhân sĩ địa phương là then chốt. Do đó
thời gian cư ngụ liên tục ở địa phương ứng cử bắt buộc ít
nhất là 5 năm. (Các đảng phái chính trị không được quyền tham
gia vận động bầu cử. Các ứng cử viên gốc chính trị có uy tín ở
địa phương tham dự liên danh phải từ nhiệm tư cách đảng viên)
* Cử tri đoàn bao gồm các đại cử tri đã đề cập ở chương 9 -
Hội đồng Thượng viện.
* Một phần ba còn lại sẽ chia
tỉ lệ cho các tổ chức quyền lợi áp lực ngành nghề (các tổng
công đoàn lao động, tổng công đoàn chủ nhân, các luật sư đoàn,
thẩm phán đoàn, bác sĩ đoàn, phòng thương mãi, kỹ nghệ…) và
các hội đoàn xã hội, văn hoá, văn nghệ...có tầm cở quốc gia.
Một biên chế pháp (loi organique) sẽ qui định những điều kiện
liên quan đến tổ chức, nhân số, qui mô hoạt động của các hiệp
hội phong trào có tư cách cử đại diện vào Dân sự viện theo những
điều khoản qui định bởi Hiến pháp.
* Nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ
Vùng là 4 năm. Các thượng nghị sĩ do các hội đoàn cử nhiệm là 2
năm. Những thay đổi, bổ sung nếu có về tư cách đại diện của các
tổ chức, hội đoàn chiếu theo luật sẽ do Dân Sự Viện biểu quyết
chuyển qua Tổng Thống xét duyệt ít nhất 3 tháng trước khi các
thượng nghị sĩ dân sự mãn nhiệm.
* Thượng nghị sĩ không thể kiêm nhiệm các chức vụ công cử, dân
cử, và chức vụ gốc ở các tổ chức, hội đoàn cử nhiệm họ.
* Dân Sự Viện tư vấn hành pháp trong các vấn đề chiến tranh
hay hòa bình, ký kết các công ước quốc tế, cử nhiệm đại sứ tại
ngoại quốc.
* Dân sự viện đóng vai trò của
một Viện Giám Sát trong việc theo dõi các tranh tụng hành chánh
của cá nhân các công dân cũng như của các hội đoàn tổ chức dân
sự với chính quyền hành chánh (nhiệm vụ này cũng hàm chứa mặc
thị vai trò điều giải - médiateur của các thượng nghị sĩ).
* Dân Sự Viện cứu xét sơ khởi
tính hợp hiến hay không của các phán quyết do các Tòa án thường
tụng ban hành gây tranh tụng. Nhiệm vụ này chỉ thu gọn trong
việc thu nhận hồ sơ từ các văn phòng thượng nghị sĩ, chuyển đến
Ủy ban chuyên trách của Viện cứu xét tính chất chính đáng hay
không của các khiếu nại hoặc tranh tụng sau đó chuyển đến các
Tòa Án Hành Chánh liên hệ xét xử, hoặc chuyển lên Tòa Án Bảo
Hiến cứu xét tùy trường hợp.
* Mỗi cuối năm Dân Sự Viện đúc kết một bản nhận xét về các
hoạt động của chính phủ và những khuyến cáo nếu có, chuyển qua
Chính Sự Viện và lên Tổng Thống xét duyệt.
* Dân Sự Viện họp chung với Chính Sự Viện trong các khoá họp
khoáng đại 6 tháng một lần nhân các buổi điều trần và chịu chất
vấn về các chính sách quốc gia của Hành Pháp.
* Dân Sự Viện cũng được Chính Sự
Viện mời biểu quyết trong các phiên họp bất thường đặt vấn đề
tín nhiệm hay không chính phủ đương nhiệm và trong những trường
hợp đặc biệt quan trọng khác liên quan đến trưng cầu dân ý hoặc
những vấn đề liên quan đến quyền lợi tối thượng của quốc gia.
* Dân Sự Viện cử nhiệm các đại diện tham gia các Toà Án Bảo
Hiến, Hội Ðồng Phát Triển Quốc gia và Tòa Án Ðặc Biệt theo luật
lệ qui định.
* Thượng nghị sĩ không được trả lương hàng tháng, nhưng được
hưởng một khỏan trợ cấp khóan cho văn phòng điều hành. Những di
chuyển, chi phí ăn ở trong các kỳ họp thường niên hoặc bất
thường được bồi hòan ; đồng thời một bồi khỏan đặc biệt cho các
kỳ họp.
* Về tổ chức, ngòai Văn phòng
Tổng Quản trị phụ trách các vấn đề hành chánh, Dân sự viện được
điều hành bởi một Văn phòng thường trực và thường vụ các Ủy ban
chuyên trách (các Thượng nghị sĩ thường trực được hưởng lương
như đã đề cập ở chương 9). Ở thời kỳ này các vấn đề chuyên biệt
về Văn hóa, Lao động-Xã hội, Tài chánh, Khoa học-Kỷ thuật nổi
trội bên cạnh các Ủy ban Ngọai giao là chức năng tham vấn chủ
chốt của Dân sự viện và Ủy ban Tư pháp-Định chế là một lãnh vực
nhạy cảm và bận rộn nhất trong tương quan dân sự-công dân với
Nhà nước hành chánh-chính trị.
C. Tổng Thống :
Ðảm trách chức vụ Quốc trưởng, trọng tài quốc gia, theo dõi
việc thực thi hiến pháp, thi hành luật pháp và các vấn đề an
ninh quốc gia.
- Tổng Thống là Cố vấn tối cao Hội đồng An ninh Quốc gia.
- Tổng Thống ban hành luật pháp
sau khi đã được Chính Sự Viện biểu quyết thông qua .
- Tổng Thống có quyền ký sắc luật và dụ có tính chất tương
đương với luật trong những trường hợp do hiến pháp qui định. Thủ
Tướng Chính phủ phải ký phó thự trên các văn kiện này.
- Tổng Thống bổ nhiệm các trưởng nhiệm sở ngoại giao sau khi
được Dân Sự Viện thông qua, tiếp nhận đại sứ và ủy nhiệm thư,
phê chuẩn các hiệp ước quốc tế (trong trường hợp liên quan đến
chiến tranh hay hòa bình phải được thông qua Dân Sự Viện ).
- Tổng Thống ra quyết định tổ chức trưng cầu dân ý chiếu đề
nghị của Thủ Tướng Chính phủ; hoặc của Chính Sự Viện kèm theo sự
đồng ý của Thủ Tướng.
- Tổng Thống giải tán Quốc Hội theo đề nghị hoặc với sự đồng ý
của Thủ Tướng Chính phủ.
- Nhiệm kỳ của Tổng Thống là 4 năm, không tái cử.
*Các ứng cử viên chức vụ Tổng
thống do Chính Sự Viện đề cử giữa các dân biểu tân nhiệm. Nếu số
ứng cử viên trên 2 người, Chính sự viện tổ chức bầu nội bộ chọn
2 ứng cử viên cao phiếu nhất, để cuộc bầu cử vòng 2 được tổ chức
một tuần lể sau. Ðoàn cử tri tham dự bầu cử chức vụ Tổng Thống
bao gồm các dân biểu, thượng nghị sĩ, nghị viên các hội đồng
Vùng, Tỉnh, Xã.
* Chức vụ Tổng Thống không kiêm nhiệm với tư
cách dân biểu. Nhiệm kỳ Tổng Thống là 4 năm tính từ ngày nhậm
chức.
* Trong trường hợp Tổng Thống bị bãi nhiệm trước nhiệm kỳ, vì
lý do bất xứng trong công vụ, phản bội tổ quõc, vi phạm nghiêm
trọng quyền lợi quốc gia; hoặc vì lý do sức khỏe không thể hành
xử chức vụ... Thủ Tướng Chính phủ kiêm nhiệm chức vụ này trong
lúc chờ Chính Sự Viện tổ chức bầu cử lại tân Tổng Thống.
D. Thủ Tướng Chính Phủ :
- Ðược đảng đa số hoặc liên minh đa số trong Chính Sự Viện tín
nhiệm đề cử. Tổng Thống bổ nhiệm và bãi chức Thủ Tướng Chính Phủ
theo đề nghị của Chính Sự Viện trong những trường hợp do luật
qui định.
- Thủ Tướng đảm trách Hành Pháp,
chịu trách nhiệm trước Chính Sự Viện. Trong trường hợp bất tín
nhiệm, Thủ Tướng đệ đơn từ chức cùng toàn thể nội các trước Tổng
Thống.
- Thủ Tướng thi hành chính sách
đường lối do Chính Sự Viện vạch ra, phải điều trần và chịu chất
vấn trước hai viện trong những khóa họp định kỳ.
- Thủ Tướng chịu trách nhiệm về những dự luật của các Bộ
chuyển sang Chính Sự Viện biểu quyết. Nếu cần góp ý kiến, Chính
Sự Viện sẽ mời Thủ Tướng hoặc Bộ trưởng liên hệ ra giải thích.
Trong vòng hai tuần lể Chính Sự Viện phải chuyển hoàn dự luật
thỏa hiệp để Thủ Tướng chuyển lên Tổng Thống ban hành. Trường
hợp dự luật chuyển hoàn có ghi thêm ý kiến bổ sung mới, Thủ
Tướng có quyền từ chối.
- Thủ tướng cử nhiệm các viên chức cao cấp hành chánh, quân
đội, Viện trưởng các Viện đại học…
- Thủ Tướng chủ tọa Hội Ðồng Nội Các.
- Thủ tướng chủ tọa Hội đồng An ninh Quốc gia.
- Thủ Tướng chủ tọa Hội Ðồng Phát Triển Quốc Gia, đôn đốc,
kiểm soát các công tác phát triển Vùng trong khuôn khổ phát
triển quốc gia về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Thủ Tướng là công chức cao cấp nhất chịu trách nhiệm chính
quyền hành chánh trung ương và tính hữu hiệu của guồng máy công
quyền trong việc thi hành các chương trình công ích và bảo đảm
trật tự tự do, dân chủ hiến định.
- Mỗi đầu năm Thủ Tướng đọc thông điệp trước Ðại Hội Ðồng Dân
Sự Viện có sự tham dự của các đại biểu các Hội Ðồng Vùng và
Tỉnh.
E. Toà Án Bảo hiến :
Gồm 12 thành viên thông thái do Chính Sự Viện và Dân Sự Viện
cử nhiệm (4 thành viên mỗi định chế). Tổng Thống cử nhiệm 4
thành viên chọn lựa trong số thẩm phán xử án cao cấp (2) và thẩm
phán công tố (2). Vị Tổng Thống vừa mãn nhiệm là thành viên tự
nhiên theo luật định, nhưng không qúa hai nhiệm kỳ của Hội đồng.
Chức Chủ Tịch Tòa Án được chọn giữa số 12 thành viên tân cử theo
thể thức đề cử và bầu phiếu kín cho đến khi đạt đa số tuyệt đối.
Sau 3 vòng bầu, nếu không đạt kết quả, hai ứng viên cao phiếu
nhất sẽ tranh vòng chung kết. Nếu vẫn ngang phiếu bầu, lá phiếu
của cựu Tổng thống vừa mãn nhiệm có tính quyết định.
- Trong việc lấy phán quyết của Toà Án Bảo Hiến, khi số phiếu
biểu quyết ngang nhau, lá phiếu của Chủ Tịch có giá trị chung
quyết.
- Nhiệm kỳ của các thành viên Toà Án Bảo Hiến là 8 năm, tính
từ ngày nhậm chức.
- Tính chất bất khả kiêm nhiệm với bất kỳ chức vụ công cử, dân
cử hay trách nhiệm nào khác phải được tuyệt đối tôn trọng, nhằm
bảo vệ tính vô tư chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của các
thành viên.
- Cũng trong mục đích này họ được hưởng những qui chế đặc
biệt đã nói trong chương 9.
- Nhiệm vụ của Toà Án Bảo Hiến là bảo vệ Hiến Pháp và trật tự
hiến định, giải thích luật pháp như Toà Án Bảo Hiến Karlsruhe
của Cộng Hoà Liên Bang Ðức đã đề cập trong chương 5. Trong
giai đoạn ổn định này Toà Phá Án được chuyển trả về hệ thống Tư
Pháp.
*Uy tín của Chủ Tịch Toà Án Bảo
Hiến có thể bảo đảm toàn vẹn nhất chức Chánh Án Tòa Án Tối Cao
Ðặc Biệt trong trường hợp xét xử các cấp lãnh đạo quốc gia đương
quyền như Tổng Thống, Thủ Tướng, các Chủ Tịch Chính Sự Viện và
Dân Sự Viện. Tùy trường hợp phản quốc, có hành vi nguy hại đến
quyền lợi tối thượng của quốc gia, hoặc phạm pháp nghiêm trọng,
Chính Sự Viện và Dân Sự Viện cử nhiệm thêm những chuyên gia tham
dự các phiên tòa theo biên chế pháp qui định.
Ý niệm tổ chức các định chế đầu nảo của Nhà Nước dựa trên sự
phân nhiệm và phối hợp giữa hai lãnh vực dân sự và chính trị có
những lợi điểm sau đây :
- Phát huy một nền dân chủ pháp trị ở trình độ cao, xây dựng
trên sự quân bình của một nhà nước đại diện cho những khuynh
hướng đa số của xã hội chính trị, bên cạnh sự hợp tác rất cần
thiết ở tư cách tư vấn và kiểm soát của xã hội dân sự.
- Một sự tập hợp đầy đủ đại diện
các tầng lớp quần chúng từ tất cả các khuynh hướng địa phương,
sắc tộc, trào lưu tư tưởng tôn giáo, ngành nghề... trong một
định chế tối cao hiện hữu bên cạnh Nhà nước thể hiện một tập hợp
có tính nhất quán của tinh thần công dân với trách nhiệm cao độ.
- Các định chế chính trị và dân
sự sát cánh trong mọi lãnh vực hoạt động quốc gia thể hiện lý
tưởng đoàn kết truyền thống. Tinh thần Diên Hồng vẫn là biểu
tượng tồn tại và hưng thịnh quốc gia.
Một điều kiện duy nhất quyết định sự thành
công hay thất bại của thể chế chính trị đề nghị nằm ở vấn
đề văn hóa. Con người Việt Nam vào thời điểm chính trị ấy
đã sẵn sàng hay chưa ? Ở đây là Con Người viết hoa của một
truyền thống dấn thân vì công ích, với đầy đủ trách nhiệm về
quyền lợi và bổn phận của một người công dân đúng nghĩa,
giữa một thời đại mà Nhà Nước đã khá trưởng thành để có thể tạo
những điều kiện xứng đáng cho họ đóng góp.
*Vấn đề đặt ra cho cho mô hình này là 25% dân biểu bầu theo tỉ
lệ có thể hình thành một đa số lỏng lẽo ở Chính sự viện, đưa đến
một chính phủ thiếu ổn định, không nhất
*Tùy thực tế chính trị vào cuối giai đoạn này, một tu chính
hiến pháp có thể dự liệu "bầu cử đơn danh đa số" cho toàn
thể dân biểu Chính Sự Viện:
*Mỗi tổ chức hay đảng phái chính trị chỉ được quyền đề cử một
ứng viên duy nhất cho mỗi đơn vị bầu cử (chọn 1 ghế dân biểu).
*Qua vòng đầu nếu không có ứng cử
viên nào đạt đa số tuyệt đối (>50%), vòng 2 sẽ diễn ra một tuần
lể sau giữa hai ứng cử viên có số phiếu cao nhất.
Thể thức bầu cử này có thể hình thành lưỡng cực chính trị
và sự luân phiên cầm quyền. Một đa số tương đối đồng nhất ở
Chính Sự Viện sẽ thiết lập được một chính phủ hữu hiệu trong
việc thi hành các chính sách quốc gia.
Khi Nhà Nước Pháp Trị đã định hình rõ rệt những định chế quốc
gia, xã hội đa nguyên cũng phát triển và vận hành hòa hợp, tốt
đẹp song hành. Vào thời điểm mà ý thức công dân đã thành nếp
trong thói quen tuân trọng và tuân thủ luật pháp, cấu trúc
thượng tầng của một thể chế chính trị sẽ chỉ còn là vấn đề chọn
lựa tùy thực tế chính trị và khung cảnh phát triển. Chế độ
đại nghị như đã đề cập thể hiện tinh thần "Diên Hồng" của truyền
thống lịch sử. Tong lúc đó mô hình "tổng thống chế" kiểu Mỹ
với sự phân quyền rõ rệt giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp lại
thể hiện một tổ chức xã hội ở trình độ cao trong đó các "thẩm
quyền dân sự" đã hội nhập trở lại trong lòng xã hội thông qua
các thế lực mạnh của các nhóm quyền lợi (khoảng 850000 đủ các
khuynh hướng công quyền bên cạnh các khuynh hướng tư nhân, kinh
tế và có tầm cở quốc tế như Ủy Ban Công Vụ Israel ở Hoa Kỳ hoặc
Hiệp Hội Quốc Gia Mỹ của Người Ả Rập...) và vô số các tổ chức áp
lực của nghiệp đoàn, tôn giáo và hiệp hội tư.
Dĩ nhiên thực tế có thể sẽ biến đổi khác với những suy nghĩ
bây giờ. Một phát thảo cho tương lai cần kíp trước mắt, trong
lúc hiện thực trì trệ của đất nước có thể tiêu phí cả vài ba
chục năm nữa là một dự phóng khó bảo đảm tính chính xác. Nhưng
không phải là một việc làm vô ích. Cũng không phải là quá sớm.
LỜI BẠT (thay đọan Kết)
Một tư tưởng chính trị đúng đắn cần cho người cầm quyền đưa
đất nước đến giàu mạnh. Một nền văn hóa chính trị cũng thế, cần
cho một tổ quốc đặt chân mà đi tới.
Trong thời đại dân chủ hóa mang tính toàn cầu ngày hôm nay,
nhiều người ngại nói đến những nguyên tắc định hướng. Nhưng nghĩ
cho rộng và cho cùng, những điều này không hề trái với tinh thần
đa nguyên chính trị.Vì mục đích cuối cùng của đa nguyên vẫn là
tinh thần đồng thuận, đúng hướng. Nét tương hợp của một nguyên
tắc chung sẽ đưa tới gần những giá trị phổ cập nhằm xây dựng một
truyền thống chính trị.
Một quốc gia sẽ tồn tại trong thịnh trị bằng nền cai trị đúng
đắn với những nguyên tắc quản trị thích hợp. Một dân tộc sẽ đi
tới bằng những mơ ước chính trị không phải là thầm kín mà được
phát biểu rộng khắp. Thiếu những tưởng tượng phong phú về những
đường hướng, mô hình, những viễn kiến chính trị sẽ tàn lụi, đất
nước sẽ dẩm chân trên những giáo điều bảo thủ, trì trệ. Kẻ sĩ,
trí thức, người cầm bút có bổn phận vẻ nên ước vọng về những
chân trời mới.
Thực trạng Việt Nam qua di sản thê thảm của 80 năm đô hộ thực
dân và nửa thế kỷ cộng sản đã tàn phá khủng khiếp nền văn hóa
dân tộc, trong đó văn hóa chính trị chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
Chính khách, người làm chính trị, những nhà hoạt động xã hội và
lớp trung lưu trưởng gỉa, nhà kinh doanh... không còn viễn kiến
mà chỉ có những quyền lợi ngắn hạn, cá nhân hạn hẹp. Tiêu biểu
nhất là những người cầm quyền đang nắm vận mạng dân tộc. Họ chỉ
là những nhân vật rất tầm thường, miệng nói cách mạng nhưng bụng
đầy tư lợi, hô hào dân giàu nước mạnh mà chẳng hề có chút ý thức
quốc gia, tảng lờ hoặc bất chấp mọi nguyện vọng tha thiết của
quần chúng... Những người làm chính trị đối lập thì ngoại trừ
một thiểu số đáng kính bất chấp đe dọa, tù tội, dám đem những
ngày cuối đời của mình trang trải những đam mê chính trị là
nguyện vọng dân chủ, phần lớn chống cộng và chủ nghĩa xã hội CS
vì quán tính, khi những quyền lợi và thói quen mất đi. Họ cũng
viện dẫn dân chủ làm mục tiêu, nhưng bản thân và cung cách hoạt
động của họ không hề phản ảnh những nguyên tắc dân chủ.
Một cách thật chính xác, công cuộc dân chủ hóa tương lai đất
nước nằm trong một cao trào nhằm tạo nên một cuộc cách mạng toàn
diện xóa tan nếp nghĩ trì trệ, và tâm thức thụ động để thay đổi
một nền hành chánh thư lại, chai cứng đang kềm kẹp tất cả mọi
khuynh hướng sinh động nhằm đưa dân tộc cất bước, chuyển đổi
toàn bộ cấu trúc và tổ chức chính trị hiện tại chỉ nhằm mục đích
duy nhất là duy trì những đặc quyền đặc lợi núp dưới chiêu bài
chủ nghĩa xã hội (?)
Chính những người dân chủ sẽ đảm đương vai tuồng nặng nề đó.
Họ phải chỉ rõ những nguyên tắc sai lạc đang kềm hảm dân tộc
trong những lối mòn suy nghĩ, cục bộ, đóng khung trong một ổn
định đầy nghi hoặc. Phải đòi hỏi quyền sống, quyền con người,
quyền công dân và một nhà nước bởi dân, do dân và vì dân. Phải
xây dựng cho được một tư tưởng làm nền cho tương quan những con
người mới và tiến bộ, đặc biệt là những nhân tố mới trong khung
cảnh một nền dân chủ pháp trị, nhằm xây dựng thịnh vượng quốc
gia, bên cạnh những bảo đảm xã hội cho an sinh, phúc lợi con
người và những cơ hội đồng đều cho mọi công dân.
Những dự kiến về các định chế dân chủ chẳng
mới mẻ gì trong các xã hội dân chủ phát triển phương Tây; nhưng
với tri thức chính trị Việt Nam hiện tại, cách đặt vấn đề ở đây
có thể còn xa lạ, và dự phóng về một mô hình cho giai đoạn ổn
định có lẽ phải chờ thêm một thế hệ nữa cũng nên. Nhưng qui luật
khách quan của thế giới phát triển toàn cầu hoá hiện nay đã chỉ
dấu rõ ràng một con đường dân chủ, có khác nhau chăng là nơi
những sắc thái văn hoá - xã hội đặc thù của mỗi dân tộc ứng hợp
với những mô hình thích nghi.
Những lý luận cũng có thể thiếu chính xác khi còn là dự phóng,
hoặc chủ quan khi tình thế chính trị của đất nước chưa hé lộ
một lối thoát; hoặc giả tư tưởng phát biểu có mang tính khai
phóng chăng nữa thì những ý kiến đề đạt của những người dân chủ
nói chung vẫn vô cùng cần thiết cho cuộc đấu tranh. Bởi 3 lẽ:
1. Sức tưởng tượng phong phú
là tiền đề cho những phát hiện về cái mới, cái hay, sự tiến bộ.
Những đụng chạm sẽ chỉ giúp cho chân lý đến gần hơn, bằng rà
soát những định hướng dò dẩm và soi sáng con đường phải chọn.
2. Nhiệt tình đó so ra còn trong
sáng và đáng trân trọng hơn nhiều những nguyên tắc chỉ hướng đầy
tính giáo điều chai cứng, bất động, trì trệ của chế độ hiện tại.
Người dân sẽ có cơ hội để nhận định, so sánh và lựa chọn một
thái độ chính trị.
3. Ngòi bút của họ sẽ gom
góp từng chút lửa hâm nóng lại nhiệt tình chính trị và những ước
mơ về tương lai dân tộc từ lâu hờ hửng, nguội lạnh vì những bịp
bợm dối trá của nhiều thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhau làm băng hoại
đất nước...
Thôi thúc vì tinh thần công dân trước tổ quốc và vận nước, tác
giả đã bạo dạn đóng góp phát biểu về một lãnh vực không thuộc
chuyên môn. Mong được những bậc thức giả chỉ bảo, trên một đồng
thuận về sự dấn thân và nhắm đến một kết luận cụ thể về công
cuộc dân chủ hoá đất nước.
Trong thời đại mà sự tha hóa chính trị nảy sinh từ sự đổ nát
của một ý thức hệ vẫn còn ngự trị trong bóng tối của lương tri
đảng lãnh đạo, tiếng nói của những người cầm bút dấn thân sẽ là
tiếng nói phụng sự sự thật. Họ sẽ được hưởng ứng trong quảng đại
quần chúng đang khao khát những đổi thay cần thiết.
Tập tiểu luận này là một tổng hợp
những tham luận, góp ý mà một phần đã được đăng rải rác trên các
báo ở Pháp, Hoa Kỳ và tuyển tập «Những góp ý cho nước VN tương
lai» do Tổng hội Cựu Sinh viên QGHC chủ trương (1995), được sửa
chửa lại một phần cho hợp với những diễn tiến và sử kiện mới.
Những hiệu đính này tuy chưa được tòan vẹn nhưng thiển nghĩ
những phần viết cũ và mới cũng đóng góp được phần nào cho những
gợi ý về tương lai đất nước. Mong được dư luận đón nhận và bổ
túc cho những cái thiếu và những điểm sai sót.
Trân trọng.
Lê Minh Văn
- HẾT -
|