Về một
NỀN DÂN CHỦ
PHÁP TRỊ VIỆT
NAM
Lê Minh Văn
Phần II : VIỆT NAM VÀ CÁC VẤN ÐỀ
CỦA MỘT NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ PHÁP TRỊ
Chương 6 : Nền Dân chủ và vấn đề bảo hiến
A.
Thế chính thống
chính trị
B.
Tính chất của Nhà
nước Dân chủ Pháp trị
C.
Kiểu mẩu Nhà nước
Pháp trị nào thích hợp cho VN ?
1.
Những đặc tính của hệ thống pháp luật
phải xây dựng
2.
Vấn đề bảo hiến
3.
Tương quan Nhà nước Pháp trị - Công dân
Phụ lục 3. Những "quyền căn bản" qui định trong Hiến Pháp Cộng Hòa Liên
Bang Ðức (nguyên là "Ðạo luật Cơ bản" ban hành năm 1949 - TG
dịch từ chapitre III "les droits fondamentaux"- L'Allemagne: Loi
fondamentale du 23 mai 1949 - in "Textes constitutionnels" -
Stéphane Rials et Denis Barenger -NXB Presses universitaires de
France )
A. THẾ CHÍNH THỐNG CHÍNH TRỊ :
Một cách cụ thể tính chính thống chính trị của một nhà nước
nằm trong vấn đề tại sao và làm sao các cá nhân chịu tuân phục
trật tự xã hội do nhà nước ấy áp đặt?
Ở phương Ðông trong thời đại phong kiến các ý niệm "Thiên
mệnh" của Khổng Tử hoặc "Thiên ý" của Mặc Ðịch đã định nghĩa
tính chính thống của một nhà nước vương triều phù hợp với qui
luật vũ trụ, đẹp ý Trời.
Rousseau mở đầu thời đại mới với ý niệm "ý chí chung".
Tính chính thống chỉ có khi chế độ thuận lòng người, và chỉ nhằm
mục đích phục vụ quần chúng.
Các lý thuyết hiện đại về tính chính thống rộng rãi hơn trong
cái nhìn bao quát về các đặc tính ước lệ liên hệ đến nhiều lãnh
vực của đời sống mới. Những vấn đề môi sinh, phân phối lao động,
phân phối lợi nhuận, những tiện nghi cho đời sống quần chúng...
đã thẩm nhập vào đời sống chính trị và đòi hỏi nhà nước chính
thống phải giải quyết ổn thỏa; chứ không còn giản đơn là những
tương quan cai trị giữa nhà nước ấy và các công dân như trước
đây. Các lý thuyết khác còn nhắm vào những tiêu chuẫn tính tình,
tâm thức trong một sự đồng thuận với các vấn đề của đời sống xã
hội. Tính đồng thuận của các tầng lớp dân chúng đối với vấn đề
chính thống do đó rộng mở nhưng luôn thích nghi tương xứng.
Những nhà bảo thủ thì thường có khuynh hướng biện minh cho các
giới hạn của chế độ dân chủ tư bản dựa trên hiến pháp, do nhu
cầu tự nhiên. Phe tự do lại có khuynh hướng phân biệt tính chính
thống chính trị và tính chính thống kinh tế vốn là hai lãnh vực
có những tác động hổ tương trong nền kinh tế thị trường tư bản.
Các nhà bảo căn lại cố gắng ôm đồm một tổng thể những qui ước
biểu kiến tương ứng với sự đồng thuận của toàn dân. Nhưng quan
điểm này trong đời sống mới phức tạp của toàn cầu hoá đang tỏ rõ
tính không tưởng của nó (theo dictionnaire de la politique -
Légitimité - Hartier)
Chúng ta có thể rút ra một kết luận tổng hợp xuyên qua các
quan điểm này. Một nhà nước chính thống phải thể hiện ý chí
chung của quần chúng. Sự đồng thuận hiện diện nơi đa số đã bầu
ra họ trong những cuộc bầu cử dân chủ; và cả nơi quần chúng
thiểu số vì các quan điểm của họ được nhà nước và phe đa số tôn
trọng theo tinh thần đa nguyên.
- Trong lịch sử Việt Nam, nhà Nguyễn thật sự từ bỏ tính chính
thống khi Bảo Ðại trao ấn tín cho đại diện Việt Minh Trần Huy
Liệu năm 1945. Nhưng theo GS Nguyễn Thế Anh trong "Monarchie et
fait colonial au VN - L'Harmattan" vua Khải Ðịnh đã tỏ ra bất
xứng trong nhiệm vụ với Trời với Dân khi tự mình thu nhỏ trong
chiếc bóng của Tổng Khâm Sứ Pasquier. Ông luôn miệng nói thương
dân nhưng lại bỏ mặc quần chúng rên xiết vì sưu cao thuế nặng.
Tệ hơn nữa là vua cha đã tước bỏ tính chính thống của Thái tử
Vĩnh Thụy khi trối trăn cho nhà nước bảo hộ Pháp coi sóc bảo trì
tôn miếu sau khi ông chết. Theo tác giả Nguyễn Thế Anh khi một
linh ước (contrat spirituel) với Trời với Dân đã thật sự bị đoạn
tuyệt, vương triều ấy không biểu tượng tính chính thống nữa.
Việt Minh tiếp nhận tính chính thống khi giương cao được ngọn
cờ dành độc lập dân tộc từ 1945 đến 1954. Nhưng với Hiệp Ðịnh
Genève, tính chính thống đó chỉ còn một nữa khi tuyên bố áp đặt
chũ nghĩa xã hội lên miền Bắc, và để lộ bộ mặt người lính xung
kích của Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế. Ðể rồi sau khi cưỡng chiếm
miền Nam và thống nhất đất nước, tính chính thống đó càng mờ
nhạt hơn khi chọn quốc hiệu CH/XHCNVN, biến tổ quốc thành tổ
quốc xã hội chũ nghĩa, tự phong cho đảng CS nhiệm vụ lịch sử và
tính độc tôn chính trị. Do đó, theo lô gích, khi phong trào quốc
tế xã hội chủ nghĩa sụp đổ, tính chính thống của Nhà nước XHCNVN
cũng không còn tồn tại nữa. Trong thực tế, từ khi áp đặt chủ
nghĩa xã hội CS trên toàn cả nước, nhà nước XHCN ngày càng thoái
hóa, không thích ứng được với một thế giới đã đổi thay toàn bộ
và phát triển với một tốc độ chóng mặt. Cái chủ nghĩa xã hội mơ
hồ mà đảng CS cố tình không buông bỏ nói cho cùng chỉ là một
trò chơi chữ. Tính chính thống và công lao dành độc lập nhân
danh một cuộc kháng chiến toàn dân đã bị xét lại với những lầm
lỗi chính trị nghiêm trọng đã từng đưa đất nước tụt hậu xuống
hàng những quốc gia nghèo đói nhất thế giới. Tư cách của nhà
nước CH/XHCNVN bị thế giới xem thường bởi quốc nạn tham nhũng
bao trùm mọi cơ cấu đảng, chính quyền, và phổ quát trên mọi
sinh hoạt của đời sống quốc gia. Uy tín chính trị của chế độ bị
sứt mẻ vì những đàn áp tư tưởng và tôn giáo. Phẩm chất dân tộc
VN bị xuống cấp trong chính sách ngu dân (obscurantisme), hủy
hoại văn hoá và đạo đức con người.
Ðảng CS/VN đang đứng giữa ngả ba đường mà một chọn lựa đúng và
dứt khoát sẽ là một quyết định lịch sử. Nhưng buồn thay, một tân
Tổng Bí thư được bầu ra trong Ðại Hội 10 Ðảng CSVN giữa một bối
cảnh quyết liệt vẫn chọn con đường bảo thủ giáo điều để củng cố
quyền lực cá nhân và bè nhóm, mà chẳng hề đá động đến vấn đề
sinh tử là dân chủ hoá để sớm hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa
hiện tại.
Nhằm phục vụ mục tiêu "đổi mới" hay sát nghĩa hơn, một
sự cởi trói kinh tế nhằm cứu nguy chế độ, đảng CSVN và những nhà
lãnh đạo đương quyền đã đề cập đến việc xây dựng một "Nhà nước
pháp quyền" như một mục đích tuyên truyền, bao gồm một lối chơi
chữ sở trường để trấn an những nhà đầu tư ngoại quốc vẫn còn
rất e dè một nhà nước không có luật pháp, để hóa giải sức tranh
đấu của các phong trào đòi dân chủ, để ve vuốt nổi chán chường
tuyệt vọng của quần chúng trước một guồng máy hành chánh tệ hại
vừa mang tính công an trị của chuyên chính cực quyền, vừa nhũng
lạm thối nát trong số những nền hành chánh hủ lậu lạc loài giữa
thế giới tiến bộ của những nhà nước pháp trị mới.
Ðiều 4 Hiến Pháp dành vai trò độc tôn cho đảng CSVN đã mặc nhiên
phủ nhận những ý niệm mới về Nhà nước Pháp trị dân chủ trong
nghĩa đơn sơ nhất nhằm đối kháng với một Nhà nước Cảnh sát
trong đó chính phủ và hệ thống hành chánh có thể hành động một
cách tùy tiện; hoặc có thói quen xử dụng một loại công an chính
trị can thiệp trắng trợn vào đời sống chính trị bất chấp luật
lệ. Ngày 16.04.97 chính quyền CS đã ban hành một nghị định cho
phép công an có quyền tạm giam vô hạn định đối với các nghi can,
hoặc đặt trong tình trạng quản chế trong vòng hai năm các công
dân bị coi là nguy hiểm cho "an ninh quốc gia" mà không cần tòa
án. Những người bị bắt trong tình trạng quản chế sẽ không được
rời khu vực mình đang cư ngụ và sẽ phải theo các khóa cải tạo.
Với hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức tại Hà Nội vào trung tuần
tháng 11.06 có sự tham dự của Tổng thống Bush, và có thể để ghi
dấu việc gia nhập «Tổ chức Thương Mãi Thế Giới WTO » ngày
07.11.06, chính quyền Hà Nội đã làm một cử chỉ cải đổi biểu
tượng là rút lại Nghị định 31-CP nói trên.
Tuy nhiên theo một vài nhà phân tích thời sự, một “Pháp lệnh
Xử lý Vi phạm Hành chính” ban hành ngày 01.10.2002 hủy bỏ và
thay thế ND 31-CP trong thực tế, tinh vi hơn, thẩm quyền áp dụng
rộng rãi hơn, và có hiệu quả hơn trong việc đàn áp dân chủ, vẫn
tồn tại.
B. TÍNH CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ PHÁP TRỊ :
Ðịnh nghĩa ngắn gọn nhưng minh bạch của loại hình nhà nước này
là một chính quyền "của dân, do dân và vì dân". Nó được
dựng lên bằng sự đồng thuận của quần chúng theo nguyên tắc
"đa số có tôn trọng thiểu số" để phục vụ những nguyện vọng
của dân tộc và quần chúng của nó theo tinh thần hiến pháp.
Dân chủ cần có hai điều kiện :
- Những người có trách nhiệm hoặc những cơ quan quản trị một
định chế công hoặc tư được sự ủy nhiệm minh thị và chính thức
của đa số trở thành những người hành xử quyền hành chính thống.
Tính chất "quyền tối thượng của người dân" vẫn là một nguyên tắc
tuyệt đối của hiến pháp Mỹ và các nền dân chủ phương Tây.
- Quyền hành ấy được hành xử làm sao cho mọi người đều cảm
thấy đã tham dự bao quát vào việc lấy quyết định và nhất trí tán
đồng về những phần then chốt của quyết định ấy.
Từ quan điểm dân chủ này, một nhà nước pháp trị phải tôn trọng
trước tiên Hiến Pháp như biểu tượng cao nhất trong đó sự phân
quyền là yếu tính quyết định của nền dân chủ. Nhà nước ấy cũng
phải bảo đảm những quyền căn bản nhất của con người (bao gồm cả
những quyền lợi xã hội) và tôn trọng thiểu số trong sinh hoạt
dân chủ.
Các cuộc tranh luận năm 1949 ở Ðức đã đưa đến những ý niệm mới
rất tiến bộ về nhà nước pháp trị trong đó các nhà soạn thảo
"Ðạo Luật Cơ Bản" (nay trở thành Hiếp Pháp CHLB Ðức thống
nhất) đã lấy lại những quan điểm khai phóng kiểu Hoa Kỳ về phân
quyền, và vị thế tối cao của Hiến Pháp và những quyền căn bản;
đồng thời vai trò các thẩm phán cũng được đặt nặng như một bảo
đảm cần thiết cho tính tối ưu của hiến pháp. Ðiểm nổi bật thứ
hai của ý niệm 1949 nhằm phối hợp nhà nước pháp trị ấy với nền
dân chủ. Ðiều này có nghĩa là chính những thẩm phán bảo vệ Nhà
nước pháp trị cũng có bổn phận bảo vệ và tôn trọng luật lệ.
Ðạo Luật Cơ bản 1949 đã đưa ra một khuynh hướng mới về hiến pháp
ở châu Âu với hai đặc tính nổi bật :
* Nới rộng hệ thống phân quyền thông qua chế độ liên bang;
phối hợp với ý niệm phân chia không gian kinh tế và không gian
chính trị thể hiện qua tính chất độc lập của ngân hàng trung
ương và nêu bật tính ưu tiên của cơ chế kinh tế thị trường xã
hội.
* Pháp chế hóa những tương quan chính trị và xã hội: tổng thể
những nhân tố chính trị, hành chánh, kinh tế và xã hội đều bị
chi phối bởi luật Hiến pháp bao gồm những qui định liên quan đến
tiền tệ, kinh tế, tài chánh công và những quyền lợi xã hội
(Hugues Potelli- Les régimes politiques Européens- NXB Le Livre
de Poche- Références).
C. KIỂU MẪU NHÀ NƯỚC
PHÁP TRỊ NÀO THÍCH HỢP CHO VN TƯƠNG LAI ?
Dân chủ là ý niệm tiến bộ nhất trong giòng tư tưởng chính trị
của nhân loại. Cho đến bây giờ, dù các nước phương Tây đã xây
dựng cho mình những cơ cấu tổ chức dân chủ tương đối ổn định,
tính toàn cầu hoá của nó vẫn đang còn ở giai đoạn phát thảo,
chưa hoàn chỉnh. Thí dụ hiển nhiên nhất là ở các quốc gia Mỹ
Châu La tinh, nhiều thập niên trôi qua vẫn chưa định hình được
nền dân chủ phải có, phải xây dựng. Ðể thoát ra khỏi tình trạng
chậm tiến họ đã xây dựng những nền cộng hòa nhằm hiện đại hóa
kinh tế. Nhưng những vấn đề xã hội luôn căng thẳng thường kéo
những nền cộng hòa son trẻ ấy đi lệch hướng. Hoặc trở lại độc
tài quân phiệt, hoặc rơi vào tay những chuyên viên kỷ trị
(technocrates). Ðiều nghịch lý là giới kỷ thuật gia không thể
một sớm một chiều tự cải biến thành những nhà lãnh đạo chính
trị. Và một khi mà những lực lượng chính trị, đảng phái tự ý từ
bỏ thiên chức lãnh đạo của mình trong đời sống chính trị quốc
gia cũng có nghĩa là Nhà nước ấy đã mất cân bằng, và nền dân chủ
trở thành mong manh.
Ở các nước Ðông Á, ngoại trừ Nhật Bản đã xây dựng những mô hình
dân chủ theo kiểu Tây phương (nhưng thường bị chỉ đạo bởi những
thế lực ngầm), các quốc gia son trẻ đã tiến vào hàng các nước
hậu kỹ nghệ như Nam Hàn, Ðài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba nền dân
chủ không tiến kịp những tiến bộ kinh tế. Người dân tuy có thu
nhập bình quân tăng cao nhưng những quyền căn bản của con người,
ngoài quyền phát triển được hiểu một cách hạn hẹp là quyền kiếm
tiền để làm giàu, hầu như không được bảo đảm hoặc bị hạn chế nại
cớ ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Nền dân chủ với những
đặc tính và điều kiện phổ quát chưa xuất hiện, hoặc nếu có cũng
chưa được xác định.
Lý do của các vấn nạn vừa kể nằm trong tính văn hóa của từ dân
chủ. Các định chế pháp lý quyết định sự toàn bích của cơ cấu dân
chủ. Nhưng nền tảng thiết thân nhất của dân chủ vẫn là yếu
tố con người được hun đúc trong một nền văn hóa bản địa đã
tích tụ chậm rãi và tự thăng hoa lâu dài qua nhiều thế hệ. Sự
phát triển của một nền dân chủ chỉ thực hiện được nơi một nền
văn hóa cấu thành bởi một tổng thể những đức tính luân lý và
chính trị chặc chẽ. Nền dân chủ phương Tây là thành qủa của tính
khai phóng cá nhân đối kháng với chủ nghĩa phù hợp mang tính thụ
động, nơi tinh thần dấn thân dám lấy quyết định và sáng tạo hơn
là ngoan ngoãn chờ và nhận lệnh. Trong tương quan xã hội, con
người dân chủ phải có quan điểm riêng nhưng đồng thời tôn trọng
tinh thần đa nguyên và ý kiến của người khác. Cùng với tinh
thần ấy, năng khiếu phê bình làm nảy sinh cái đúng và tiến bộ
cũng tỏ ra cần thiết. Tóm lại giáo dục luân lý và trí tuệ, bao
gồm cả giáo dục công dân và chính trị phù hợp với những yếu tính
của một nền văn hoá sẽ tạo điều kiện nảy sinh cho một cơ chế dân
chủ đúng nghĩa có thể xuất hiện và vận hành tốt đẹp.
Vấn đề xây dựng một Nhà Nước Pháp Trị Dân Chủ ở VN do đó là
một trình tự lâu dài, và đòi hỏi những điều kiện tiên quyết về
giáo dục và dân trí. Ðiều này bao hàm trong các chủ đề sẽ được
khảo sát sau đây :
C1. Những đặc tính của hệ thống pháp luật phải xây dựng :
- Xã hội truyền thống VN là một thực thể đa dạng. Yếu tính
đặc thù của văn hóa VN bộc lộ rõ nét nhất ở làng xã với những
định chế xã thôn đặc biệt. Nông thôn VN nói chung vừa có nét
sinh hoạt dân chủ thể hiện qua hương ước, hội làng và trong
việc phân cấp công điền công thổ nói chung; vừa có sắc thái khép
kín với dư luận có phần khắc khe. Tục và lệ trói buộc con người
vào một trật tự cứng ngắt. Hệ thống án lệ của luật pháp VN tương
lai không thể không lưu tâm đến tập tục và lệ làng.
- Tinh thần tuân trọng luật pháp của người dân VN nói chung
vẫn là một truyền thống nhiều khi thể hiện quá đáng do ảnh hưởng
giáo dục bị diễn dịch sai lệch hoặc nhà cầm quyền đã lợi dụng
tinh thần "trung quân" hoặc "tôn trọng công ích" để áp đặt tinh
thần thụ động có lợi cho nền thống trị hoặc đô hộ của họ. Tinh
thần tuân thủ dập theo khuôn mẩu trật tự xã hội Tống Nho phải
được xét định và gạn lọc lại, nhằm vất bỏ những tư tưởng lạc hậu
và triển khai những chiều hướng tích cực như xây dựng lương tri
con người, tinh thần dân vi qúi nơi tầng lớp "đại nhân" của tư
tưởng Mạnh Tử, cũng như quan điểm giáo dục tích cực của Tuân Tử;
và cả những quan điểm tiến bộ của phái Pháp Gia như tính chất
tối yếu của việc phổ biến luật pháp nơi tư tưởng Hàn Phi Tử
«những sắc luật và chỉ thị chỉ trở thành luật khi chúng được
niêm yết trong tất cả các cơ quan hành chánh và cho mọi người
biết rằng những trừng trị và hình phạt sẽ không chừa bất kỳ một
ai. Người được ghi nhận có tinh thần tuân thủ tốt sẽ được khen
thưởng, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt » (Marcel Granet- La pensée
chinoise- NXB Albin Michel).
Sự rà soát lại những ảnh hưởng sâu đậm của tinh thần cựu học
nhằm hai tác động:
* Bảo tồn những suy nghĩ truyền thống đã trở thành hồn của văn
hóa dân tộc.
* Khai thác những mặt tiến bộ và tích cực nơi tinh thần ấy để
chuyển dẫn những tư tưởng mới hơn của phương Tây hội nhập vào xã
hội truyền thống mà không gây ra những va chạm đáng tiếc. Căn
bản của vấn đề vẫn là những nền tảng giáo dục con người xã hội
và con người công dân nhìn dưới khía cạnh tích cực giữa Ðông và
Tây không có mấy khác biệt. Phải chăng nét phát thảo dân chủ
cần có cho VN là công trình hấp thụ những sắc thái dân chủ có
tính khoa học để sẽ hội nhập và phát triển trên nền văn hóa nhân
bản truyền thống VN?
- Xây dựng một hệ thống dân chủ pháp trị trong hoàn cảnh rất
phức tạp về chính trị và văn hóa VN hiện tại cần thời gian,
trong một tính toán có hệ thống và phù hợp nhất với những giai
đoạn chuyển biến lớn của tiến trình dân chủ hóa. Tinh thần hiến
pháp và các pháp chế phải uyển chuyển, có dự liệu những tu
chính, điều chỉnh hợp lý cần thiết.
- Ðiều quan trọng nhất phải khẳng định là tinh thần và tinh
yếu của luật pháp không phải để "tóm dân vào lưới" nhằm
phục vụ bất kỳ một tham vọng tập quyền toàn trị chính trị nào;
hoặc để thực hiện chuyên chính tư pháp. Tinh túy và yếu tính của
luật pháp luôn luôn nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của người cai
trị (dù nằm trong khuôn khổ pháp trị dân chủ chăng nữa),
hướng guồng máy công quyền đi đúng con đường thi hành công ích
cho người dân, bảo vệ họ cũng như bảo vệ cho chính bản thân của
chế độ dân chủ. Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, tư pháp chiếm một vị thế áp
đảo so với hành pháp và lập pháp nhằm thể hiện tinh thần pháp
trị này. Giới luật gia Mỹ thâu tóm trong tay những quyền hành
rộng lớn, nhưng một "chính phủ tư pháp" chưa bao giờ kết hợp
được và sự lạm quyền của giới thẩm phán rất ít xảy ra. Giản dị
chỉ vì nguyên tắc "dân là tối thượng" đã thành nếp trong sinh
hoạt dân chủ, mọi công dân Hoa Kỳ đều hiểu luật trong nghĩa đôi
vừa để bảo vệ mình, vừa tuân thủ và tuân trọng luật pháp và tôn
trọng quyền lợi người khác. Ðó là điểm đặc sắc nhất của nền dân
chủ Mỹ quốc.
- Việc xây dựng một hệ thống pháp chế thích nghi với những
điều kiện xã hội VN là điều cần thiết trong chiều hướng triển
khai những định hướng lớn của luật Hiến pháp nhằm ổn cố và phát
triển xã hội dân sự cả về vật chất (kinh tế) lẫn tinh thần cá
nhân trong chiều hướng chính trị hóa con người, phát huy giáo
dục dân chủ để đào tạo những công dân biết tư tưởng, biết phát
biểu nhằm đóng góp vào công ích xã hội và trật tự dân chủ
Giáo dục về luật pháp là một ngành chuyên biệt quan trọng
trong chiều hướng giáo dục mới vừa kể nhằm mục đích đào tạo một
thế hệ luật gia và thẩm phán mới trưởng thành trong khuôn khổ
dân chủ quốc gia và thích nghi với những điều kiện văn hóa nội
tại của xã hội. Một hệ thống thẩm phán xử án gốc nông dân không
có trình độ văn hóa tối thiểu, không cả những kiến thức sơ cấp
về luật pháp là điều tối thậm vô lý mà xã hội VN bất hạnh đã
trải qua. Vấn đề là liệu những nhà cầm quyền đương thời có nhận
thức được một cách chân thật rằng để có thể xây dựng một một hệ
thống pháp quyền đúng nghĩa, có liên hệ thiết thân với "đổi
mới", đảng CS phải tách khỏi chính quyền và chịu sự chi phối của
pháp luật quốc gia chứ không phải đứng trên hiến pháp và chỉ đạo
nhà nước như hiện tại. Luật pháp phải được tôn vinh qua việc
khôi phục một cách đầy đủ và có hệ thống các trường đại học luật
khoa Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Cần Thơ; giảng dạy theo một chương
trình hướng về tương lai và do các giáo sư và luật gia có thực
tài đảm nhận. Một nhà nước pháp trị thiếu những thẩm phán có
tư cách và những luật gia có kiến thức, có kinh nghiệm trong
tất cả các ngành chuyên biệt chỉ là một chiếc vỏ rổng tuếch mang
tính bịp bợm.
C2. Vấn đề bảo hiến :
Xây dựng một nhà nước thật sự dân chủ đã khó. Duy trì và bảo
vệ cho nhà nước ấy tránh lạc hướng, lạm quyền lại càng khó hơn.
Lịch sử dân chủ vẫn ghi nhận rằng nền dân chủ Hoa Kỳ vẫn được
xem như thành trì thể hiện những tư tưởng dân chủ Tây phương,
thông qua những cơ chế vận hành đặc thù thích hợp với lịch sử
lập quốc và những đặc tính cá biệt của người Mỹ. Nền tư pháp
chiếm ưu thế trong tam quyền phân lập. Hành pháp tuy mạnh do
Tổng Thống được dân bầu trực tiếp qua phổ thông đầu phiếu; nhưng
guồng máy công quyền lại xây dựng trên tính chất chuyên viên của
các cấp lãnh đạo hành chánh, không chuyên nghiệp như ở Pháp. Các
công chức Hoa Kỳ khi phạm luật sẽ bị các thẩm phán thường tụng
xét xử. Các thẩm phán còn có quyền phán đoán tính hợp hiến hay
không của một đạo luật nhân những vụ tranh tụng pháp lý. Luật sư
đoàn và thẩm phán đoàn do đó cấu thành một hệ thống quyền lực
mạnh trong nền dân chủ Mỹ và đóng vai trò đối trọng của cấu trúc
dân chủ ấy (Tocqueville- De la démocratie- NXB Folis).
Ở Anh, vai trò tài phán tối cao được giao cho các thẩm phán
đặc biệt chọn lựa giữa những nhân tài luật học có khả năng xây
dựng hệ thống án lệ nhằm bảo đảm cho những quyền căn bản. Tính
độc lập tuyệt đối của các thẩm phán tối cao này vượt trên các
khuôn khổ giám hộ về chính trị và hành chánh bảo đảm tính liên
tục của các quan điểm bảo hiến.
Các nhà nghiên cứu về luật hiến pháp hầu như nhất trí với nhau
rằng các cha đẻ " Ðạo luật Cơ Bản Ðức 1949 " đã đóng góp
những nét thực tiễn và tiến bộ trong các quan điểm bảo hiến và
bảo vệ nền dân chủ hiến định. Ðịnh chế "Toà Án Bảo Hiến
Karlsruhe" về các vụ tranh tụng và giải thích về tính chất hợp
hiến hay không của các hành vi, đạo luật; cũng như tổ chức các
Tòa án Hành chánh Liên bang cho các vụ tranh tụng hành chánh;
đồng thời với việc tín nhiệm giới công bộc ở vai trò then chốt
thi hành và bảo vệ trật tự dân chủ hiến định là những nét đặc
sắc. Tương quan hai chiều giữa nhà nước pháp trị và công dân
được đặt ra một cách rõ ràng nhằm hình thành một nền "dân chủ có
kiểm soát" cung cấp một ý niệm hữu ích cho những quốc gia
sắp sửa xây dựng dân chủ như VN. Những định chế kiểm soát được
dự liệu rất thực tế nơi các quốc gia có truyền thống dân chủ lâu
đời và các điều khoản minh bạch về quyền lợi đi kèm bổn phận
công dân Ðức rất được tán thưởng và nghiên cứu học hỏi.
- Tòa Án Bảo Hiến Karlsruhe:
Sau
thế chiến thứ hai, nổi ưu tư về sự trở lại của các chế độ phát
xít vẫn ám ảnh nặng nề những nhà làm luật hiến pháp Ðức quốc.
Nhằm bảo vệ những quyền căn bản của con người như một nhiệm vụ
tối thượng, Tòa Án Bảo Hiến đã được dự liệu như một định chế tối
cao vừa bảo vệ hiến pháp chống lại những đạo luật vi hiến; vừa
giải thích, triển khai những tinh yếu của hiến pháp nhân những
vụ tranh tụng. Các ý niệm về phân quyền, và vai trò các thẩm
phán thường tụng trong việc phán xét tính chất bất hợp hiến của
một đạo luật nơi hiến pháp Hoa Kỳ được các nhà lập hiến Ðức lập
lại; nhưng cơ cấu tổ chức và điều hành của Tòa Án Bảo Hiến
Karlsruhe khác với Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ :
* Về cấu trúc, Tòa Án Bảo Hiến có hai Viện. Mỗi viện có 8
thành viên bao gồm 3 thẩm phán xử án tối cao liên bang và 5 thẩm
phán thuộc thẩm phán đoàn. Tất cả 16 thành viên của Tòa Án Bảo
Hiến Karlsruhe không bị trói buộc bởi pháp chế và các định chế
chính trị; độc lập hoàn toàn với các đảng phái tiến cử họ và
với tất cả các quyết nghị liên hệ trong suốt nhiệm kỳ 12 năm
không gia hạn.
* Về cơ cấu điều hành, ngoài nhiệm vụ theo dõi luật pháp hiện
hành, quyết định chấp nhận cứu xét hay không của một đạo luật
hoặc hành vi bị khiếu nại vi hiến, Tòa Án Karlsruhe còn có những
thẩm quyền khác bao trùm đời sống hành chánh, chính trị, tư pháp
Ðức.
* Hành vi kiểm soát cụ thể về tính hợp hiến có thể phát khởi
từ một thẩm phán thường khi đương sự nhận định một đạo luật hiện
hành trái với tinh thần hiến pháp. Vị thẩm phán này có quyền
ngưng thi hành đạo luật như ở Hoa Kỳ, nhưng phải chuyển tính
chất bất hợp hiến khác thường này lên Tòa Án Bảo Hiến Liên Bang
hoặc Tòa Án Bảo Hiến Bang cứu xét theo luật định.
b) Thủ tục tố tụng trực tiếp về tính hợp hiến đã được chấp
thuận cho các công dân Ðức kể từ năm 1969 khi cảm thấy những
quyền căn bản dành cho họ bị trực tiếp thương tổn, và sau khi đã
xử dụng mọi thủ tục tố tụng khác vẫn chưa được giải quyết. Những
khiếu nại thuộc loại này chiếm đến 95% những vụ tranh tụng về
tính hợp hiến hay không của một hành vi hoặc đạo luật. Do đó để
bảo đảm tính khả chấp của những tranh tụng từ công dân, một Ủy
Ban Ðặc Biệt Tiền Cứu Xét có nhiệm vụ xem xét trước các đơn
khiếu nại. Kết qủa là chỉ khoảng 85% các tranh tụng được đưa
lên Tòa Án Bảo Hiến thẩm xét. (Ở Pháp, Hiến Pháp Ðệ V Cộng Hòa
qui định quyền tranh tụng giới hạn cho Tổng Thống, Thủ Tướng,
các Chủ Tịch Quốc Hội và Thượng Viện. Kể từ Tu Chính Hiến Pháp
29.10.74 quyền tranh tụng được nới rộng cho 60 dân biểu hay
thượng nghị sĩ trở lên).
Tòa Án Bảo Hiến Karlsruhe ngoài thẩm quyền kiểm soát và xét
xử tính hợp hiến của các đạo luật còn có quyền diển dịch với
tính cách xây dựng nhằm hoàn chỉnh luật pháp, cho các chỉ thị
giải thích việc áp dụng hay sửa đổi các đạo luật có hà tì.
c) Tòa Án Bảo Hiến còn có những thẩm quyền lớn hơn tác động
trên sự điều hành những cơ quan quyền lực tối cao, làm trọng tài
cho những tranh tụng giữa hai cơ quan hiến định, theo dõi qui
chế các dân biểu và các nhóm trong quốc hội; xem xét cả việc tài
trợ các đảng phái chính trị. Trong lãnh vực lập pháp, Tòa Án
Karlsruhe đặc biệt theo dõi tính hợp hiến của các dự luật sửa
đổi hiến pháp nhằm bảo vệ sự tôn trọng những quyền căn bản và
phẩm giá con người (điều 79.3).
d) Cũng qua việc can thiệp vào các lãnh vực lập pháp và lập
qui, Tòa Án Bảo Hiến còn có khả năng chi phối cả đời sống chính
trị quốc gia. Quyết định ngày 28.5.93 của Tòa Án về việc xúc
phạm đến phẩm giá con người của dự luật phá thai, đồng thời cho
phép Bundestag biểu quyết một đạo luật tu chính Hiến pháp về đề
tài này đã dẫn đến một sự chuyển nhượng quyền hành chính trị vì
phe cầm quyền biết rõ không có khả năng hội đủ 2/3 tổng số dân
biểu để thông qua việc tu chính hiến pháp.
e) Thẩm quyền cứu xét các hiệp ước quốc tế cũng ảnh hưởng
không ít trên chính sách đối ngoại của chính phủ Ðức (phán quyết
ngày 23.3.93 về Hiệp Ước Maastrich đã áp đặt trên chính quyền
Ðức một quan điểm thiếu tin cậy vào Liên Hiệp Châu Âu).
f) Các đảng phái vì vậy thường cầu cạnh Tòa Án Bảo Hiến
Karlsruhe để thi hành chính sách đối ngoại của mình chống lại
các đối thủ chính trị. Ví dụ đảng FDP (Tự Do Dân Chủ) đã nhờ
Tòa Án xác định quyền các bộ trưởng có thể mặc nhiên gởi quân
đội Ðức ra nước ngoài chống lại đảng CDU (Liên Hiệp Dân Chủ
Thiên Chúa giáo). Lợi dụng cơ hội này, đảng SPD (Dân Chủ Xã Hội)
cũng mượn tay Tòa Án Bảo Hiến làm câm miệng luận điệu vi hiến
của chính các phần tử hòa bình và cực tả trong đảng chống lại sự
hiện diện của các chiến hạm Ðức trong vùng biển Adriatique (Anne
Marie La Gloanec- L'état de l'Allemagne- NXB La Découverte).
Ở đây ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt căn bản của hai cơ chế
dân chủ Pháp và Ðức. Hiến Pháp 04.10.58 của Ðệ Ngủ Cộng Hòa Pháp
chỉ trao quyền giám sát canh chừng cho Hội Ðồng Bảo Hiến (điều
58 quyền theo dõi tính hợp lệ của các cuộc bầu cử tổng thống
Pháp; đ.59 về tính hợp lệ của các cuộc bầu cử dân biểu, thượng
nghị sĩ trong trường hợp có tranh tụng; đ.60 theo dõi và tuyên
bố kết quả trưng cầu dân ý, đ.61 tuyên bố tính hợp hiến của các
đạo luật lập pháp và lập qui trước khi được ban hành...) Tổng
Thống Pháp trong thực tế đảm trách nhiệm vụ của Tòa Án Bảo Hiến
Ðức trong nhiệm vụ theo dõi hiến pháp (đ.5) và bảo đảm tính độc
lập của quyền tư pháp qua việc chủ tọa Thượng Hội Ðồng Thẩm
Phán như điều 64 qui định.
Ở Ðức những thẩm quyền tối hậu nằm trong tay 16 thành viên ưu
tú và thông thái của Tòa Án Bảo Hiến Karlsruhe đã làm cho nền
dân chủ Ðức (trước thống nhất) trở thành một trong những nền dân
chủ ổn định nhất của phương Tây. Trong lúc đó sự mất quân bình
giữa một hành pháp quá mạnh tập trung trong tay một tổng thống
được dân bầu trực tiếp đã chi phối hoàn toàn quốc hội (trong
trường hợp cùng phe đa số), bên cạnh quyền tư pháp quá yếu đã
làm nền dân chủ Pháp mất ổn định. Cuộc khủng hoảng chính trị đưa
đến chế độ cọng sinh chính trị lần thứ ba của Ðệ Ngủ CH giữa
Tổng Thống RPR Jacques Chirac (hữu) và Thủ Tướng Lionel Jospin
của đảng Xã Hội (tả) xuất phát từ hành động giải tán quốc hội
khó hiểu của Tổng Thống Chirac ngày 17.5.97 đặt một vấn đề khá
nghiêm trọng cho vai trò bảo hiến của Hiến Pháp Ðệ Ngũ CH và nền
dân chủ Pháp.
Ðối với những nước sắp sửa xây dựng dân chủ như VN, việc mô
phỏng mô hình Ðức là điều cần thiết cho lá chắn ngăn chặn sự
lạm dụng quyền lực chính quyền hành pháp thường thấy nơi các
quốc gia chậm tiến. Nhưng việc áp dụng nó trong thực tế không
phải dễ dàng nơi một nền dân chủ chưa chín tới, trong một khung
cảnh văn hóa dân chủ chưa được xác lập và nhất là với trình độ
các thẩm phán tối cao VN chắc chắn còn lâu vẫn chưa thể vượt lên
được những phạm trù xã hội, tôn giáo, màu sắc chính trị cục bộ.
Một mô hình bảo hiến dung hợp một tổng thống chịu trách nhiệm
tối cao về nền tự do dân chủ quốc gia trong chế độ đại nghị -bán
tổng thống (mà tổng thống được bầu bởi các định chế dân cử) xét
ra dễ áp dụng hơn với những thăng bằng quyền lực trong bối cảnh
tam quyền phân lập bổ túc bởi chế độ địa phương phân quyền.
- Ðiều 33.4 của Hiến Pháp Ðức đặt nặng vai trò bảo vệ nền
dân chủ và tự do hiến định là một sáng kiến quan trọng cho
việc soạn thảo Hiến Pháp VN trong tương lai. Nền hành chánh công
quyền VN trải qua những chế độ phong kiến, thực dân rồi cộng
sản đã hủ hóa và vô hiệu đến tận cùng. Việc tái tạo khả năng
chuyên môn của giới công bộc để có thể đảm đương nhiệm vụ
thi hành các chương trình công ích phục vụ dân chúng là nhiệm vụ
tối yếu cho một nhà nước pháp trị mới. Việc phục hồi hình ảnh
người công bộc trong lòng dân chúng bởi tư cách, ý thức phục vụ
và phẩm giá cũng cấp bách không kém. Trang bị cho họ một lương
tâm mới và một ý thức dấn thân tiến bộ về nhiệm vụ bảo vệ nền tự
do dân chủ, những quyền lợi cơ bản của con người và quyền công
dân phải chăng là công tác hàng đầu cho công cuộc cải tổ hành
chánh dọn đường cho nền dân chủ pháp trị xuất hiện? (Olivier
Duhamel- Les démocraties- NXB Seuil).
- Kiểm soát các hành vi hành chánh Trong
các chế độ dân chủ pháp trị đã thành nếp, ngoài các định chế
hiến định như Tòa án, Hội đồng bảo hiến và các Tòa án hành
chánh, ý thức công dân về các quyền lợi và trách nhiệm, hiểu
luật đã giúp giảm thiểu các hà lạm hành chánh.
Ở Thụy Ðiển chẳng hạn, theo truyền thống một viên chức cao cấp
của vương quyền đặc trách thu nhận các khiếu tố gởi lên Vua,
liên quan đến các vấn đề lạm dụng quyền hạn hay các hành vi hành
chánh tồi tệ. Ðến năm 1809 nhân cuộc tu chính hiến pháp, thẩm
quyền lập pháp là « Ständerna » được giao trách nhiệm cử nhiệm
viên chức này. Từ đó có tên gọi là « Ombudsman »
(médiateur-Người điều giải của Quốc hội). Do vị thế độc lập
hẳn với Vua, với chính phủ, nền hành chánh công quyền và với
chính Quốc hội đã bầu ra mình, Ombudsman có thẩm quyền và tính
độc lập cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn của mình, đứng
bên cạnh quần chúng chống lại những áp bức hà lạm công quyền.
Cũng trong năm 1809 này, một Ombudsman tiên tiến cho nền tư
pháp cũng đã ra đời.
Ðịnh chế tiến bộ này đã vượt biên giới Thụy Ðiển vào thế kỷ
20, thẩm nhập vào đời sống hiến định các quốc gia Bắc Âu khác
như Phần Lan năm 1919, Ðan Mạch năm 1955 và na Uy năm 1962. Thập
niên 1960 đã đánh dấu sự thành công của định chế « Ombudsman »,
được áp dụng rộng rãi trong các quốc gia thuộc khối « Thịnh
vượng chung » và Âu châu, như ở Tân Tây Lan năm 1962, ở Anh và
phần lớn các tỉnh của Gia Nã Ðại năm 1967, Tanzanie năm 1968, Do
Thái năm 1971, Porto Rico, Áo và Úc năm 1977, Pháp năm 1973, Bồ
Ðào Nha năm 1975,
Tây Ban Nha và Hòa Lan năm 19881 (theo
http://fr.wikipedia.org/).
Cũng theo từ điển này, các Ombudsmans là người cưu mang
« những than thở » của công dân, người hưởng dụng các dịch vụ và
cả những người tiêu thụ. Ombudsman thường chú tâm vào tính dai
dẳng của một khiếu kiện. Thông thường thì « Người điều giải »
chuyển đạt hồ sơ và yêu cầu nha sở liên hệ giải quyết. Trong bản
tường trình hàng năm, Ombudsman đưa ra các đề nghị cải thiện
chất lượng các dịch vụ hay giải pháp và cả chất lượng các tương
quan giữa cơ quan bị khiếu kiện và người khiếu kiện.
Dĩ nhiên Ombudsman phải thông hiểu rành rẽ các kiến thức và
thủ tục, thông lệ hành chánh hầu có thể biết đích xác và nhanh
chóng ai là người có thẩm quyền nhất phải nói chuyện. Trong
trường hợp Ombudsman nhận khiếu nại nhưng cần thời gian nghiên
cứu hồ sơ, một bản tường trình về các nghiên cứu và đề nghị
những giải pháp cho vụ tranh tụng phải được công bố. Khi hành vi
khiếu tố đã thành hiệu, Ombudsman chờ và theo dõi giải pháp
thích ứng của cơ quan liên hệ nội vụ khiếu kiện.
Ở Phần Lan, Ombudsman của Quốc hội kiểm soát tính chất hợp
pháp của các hành vi công vụ nói chung. Tính kiểm soát này có
hiệu lực ở bất kỳ định chế nào quản lý các công vụ.
Quốc hội Phần Lan cử nhiệm « Người Ðiều giải quốc hội » và hai
phụ tá, tất cả có nhiệm kỳ 4 năm. Những viên chức này hành xử
quyền hành ở vị thế trung dung và độc lập hẳn với Quốc hội. Tuy
nhiên Ombudsman phải gởi phúc trình hàng năm về hoạt động của
họ, và nếu cần các bản tường trình đặc biệt cho Quốc hội đã bầu
ra họ (www.oikeusasiamies.fi/)
Ở Pháp, một định chế gọi là « Médiateur de la République-
Người Ðiều giải Quốc gia » được ấn định nhằm cải thiện tương
quan giữa Nhà nước Pháp và công dân. Với nhiệm kỳ 6 năm liên
tục, không bãi miễn, Ðiều giải viên Quốc gia khảo sát từng
trường hợp một tính bất cập của những văn bản, thủ tục hoặc
những hành vi bất xứng. Mediateur đề nghị những giải pháp cho
mỗi trường hợp và những cải cách sâu rộng về cách thức giải
quyết các vấn đề liên hệ.
Những trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của các
Ðiều giải viên :
* các tranh tụng giữa tư nhân với nhau
* các tranh tụng giữa các cơ quan hành chánh và các nhân viên
đương cuộc thuộc quyền
* các can thiệp trực tiếp nơi một quan tòa nhằm chuyển hướng
một thủ tục đương hành hoặc
ảnh hưởng đến quyết định của toà án.
(www.mediateur-republique.fr/)
Cũng như các quốc gia khác, việc nhờ các médiateur giải quyết
các khiếu nại tranh tụng đều miễn phí. Ngày nay định chế người
điều giải hiện diện trong khắp các chuyên ngành và cả trong các
cơ sở công quyền.
Hành pháp nói chung và người công chức mọi ngành thuộc hệ
thống công quyền của một nhà nước mới phải tuân thủ những
nguyên tắc chung là tính thượng tôn luật pháp (cho quốc
trưởng, thủ tướng và các thành viên nội các) và tinh thần
tuân trọng luật pháp cho mọi viên chức công quyền (phải
hiểu rõ luật và tuân thủ mọi điều khoản)
Ngoài ra các nguyên tắc hành xử sau đây phải được áp dụng:
a. Các hà tì hành chánh như lạm quyền, uổng dụng quyền thế,
không lý do chính đáng... phải được thu hồi và bồi thường thiệt
hại.
b. Bước thủ tục qui định phải được tôn trọng. Ví dụ việc lấy
khẩu cung bằng tra tấn sẽ vô hiệu trước pháp đình; hoặc nếu
không thông báo trước nghi can có quyền im lặng (áp dụng ở Mỹ).
c. Việc câu thúc thân thể phải tuân theo các thủ tục luật pháp
qui định.
d) Ðiều khoản vô luật, vô tội xác định nếu không có luật thì
không thể lấy tư kiến của nhà cầm quyền để giam giữ.
e) Một khi nghi can được xem là vô tội cho đến khi bị kết án,
có quyền được tại ngoại hầu tra (GS Ðổ Qúi Sáng -CS/VN không
thể tạo dựng được một hệ thống pháp quyền- Tập san Hoài Bão Quê
Hương 13).
Dự Luật Cải Tổ Hành Chánh của Tổng Thống Alfonsín ở Á Căn Ðình
thập niên 80 cũng cho ta một vài gợi ý hữu ích. Nhóm nghiên cứu
Roulet (cựu sinh viên QGHC- ENA của Pháp) phối hợp với Học Viện
QGHC Công quyền Á Căn Ðình đã soạn thảo dự án cải biến nền hành
chánh nước này thành dạng chuyên nghiệp ở cung cách điều hành,
tuyển dụng, huấn luyện, lượng giá...Về tranh tụng hành chánh,
ngoài những thanh tra nội bộ thường xuyên, một định chế "người
bảo vệ quần chúng" chống những hà lạm hành chánh được nghiên cứu
đề nghị theo hình ảnh các "Ombudsman" của Thụy Ðiển.
Thành phố Buenos Airès đã chấp nhận định chế này. Nhiệm vụ của
Ombudsman là kiểm tra tính nghiêm trọng và xác thực của những
vấn đề bị tranh tụng, đề nghị cơ quan hữu trách có thẩm quyền
thực hiện những sửa đổi thích nghi. Ðịnh chế "người bảo vệ quần
chúng" hoạt động độc lập với các quyền hành pháp, lập pháp và tư
pháp nhằm tăng cường tính hữu hiệu của nó. Nhưng hàng năm một
bản tường trình phải được đệ nạp ở Quốc hội.
Lý thuyết tuy tốt đẹp, nhưng dự án không thi hành được do truyền
thống độc tài và bất công vẫn ngự trị một cách ngạo nghễ và
thường trực ở xã hội Á Căn Ðình, bên cạnh những ngột ngạt về
kinh tế. Nhưng dẫu sao đây cũng là một trăn trở có tính chất gợi
ý về tính trì trệ của nền hành chánh công ở các nước chậm tiến.
"Ðệ tứ quyền" của Alfonsín không mới, nhưng thể hiện rõ nét dân
chủ và nhằm bảo vệ quần chúng công dân chống lại những áp bức và
hà lạm công quyền rộng rãi hơn ý niệm bài trừ tham nhũng nặng
tính hành chánh đã được nghiên cứu theo khuôn mẩu Ðài Loan và
đưa vào Hiến Pháp Ðệ II Cọng Hòa VN dưới định chế gọi là Giám
Sát Viện.
Trong một nước chậm tiến như VN vấn đề kiểm soát và giải quyết
các khiếu tố hành chánh trở thành vấn đề quan trọng hàng
đầu. Viện Kiểm Sát Nhân dân của CHXHCNVN hiện tại còn thiếu hữu
hiệu hơn vì chính định chế kiểm soát tối cao này cũng đã tham
nhũng theo trào lưu và nhất là thực chất của nó chỉ là công cụ
của Ðảng toàn trị khi vị chủ tịch tân cử không thuộc hàng thẩm
phán tối cao hoặc nhân tài luật học, mà là một tướng công an.
- Về thủ tục tố tụng hành chánh,
Các quốc gia dân chủ phương Tây tùy truyền thống riêng có những
cách áp dụng khác nhau. Ở Hoa Kỳ tất cả mọi người công dân
đều có quyền truy tố các công chức của hệ thống công quyền trước
các tòa án thường tụng; và các thẩm phán các tòa này có
quyền kết án các nhân viên hành pháp khi họ vi phạm luật. Thủ
tục của Pháp dè dặt hơn khi qui định mọi công chức nhà nước
ngoại trừ hàng Tổng, Bộ Trưởng có thể bị truy tố trước các tòa
án thường sau khi có quyết định của Hội Ðồng Nhà Nước (Conseil
d'Etat ). Hệ thống Ðệ Ngũ CH Pháp cũng dự liệu một hệ thống
xử án kép đối với các tranh tụng hành chánh. Tòa án Tư pháp
giải quyết những tranh tụng giữa những cá thể (cá nhân và hội
đoàn) ở khía cạnh hình luật; trong lúc Tòa Án Hành Chánh thường
có thói quen xử những tranh tụng của các cá thể chống lại chính
quyền hoặc giữa những cơ quan công quyền với nhau (J.L.
Quermonne- Les régimes politiques Occidenteaux- NXB Essais)
C3. Tương quan Nhà nước pháp trị - Công dân :
Trong các chế độ dân chủ nói chung, Nhà nước có bổn phận bảo
vệ những quyền căn bản thiêng liêng của con người. Ngược lại
người công dân cũng phải có bổn phận tôn trọng hiến pháp; và
hành xử quyền tự do của mình trong sự tôn trọng người khác. Ðạo
Luật Cơ Bản 1949 Ðức diễn dịch rõ hơn tương quan này trong liệt
kê cụ thể các quyền căn bản của con người công dân từ các điều 2
về quyền sống cho đến điều 17 qui định quyền thỉnh nguyện, thưa
gởi.
Thoạt nhìn, những quyền này không những giới hạn "thẩm quyền
tối thượng của quần chúng" nói chung, còn hạn chế cả những quyền
cá nhân. Thí dụ điều 4 về quyền tín ngưỡng có dự liệu những
bảo đảm không bị phân biệt đối xử trong khi thi hành nghĩa vụ
quân sự vì lý do luân lý hay tôn giáo trong thời chiến. Ðiều 5
giới hạn tự do phát biểu trong mục đích bảo vệ giới trẻ và danh
dự cá nhân, điều 9 tự do lập hội trong ổn cố hiến định, điều 10
về tự do bí mật thư tín nếu không phương hại tự do dân chủ, điều
11 về tự do lưu thông cũng thế....
Tóm lại, một công dân có thể bị tước bỏ những quyền căn bản
nếu lạm dụng những quyền này hoặc khi có hành động chống lại
trật tự qui định. Ðiều 18 qui định rạch ròi tính « kiểm soát »
này của nền dân chủ pháp trị Ðức (xem thêm phụ lục 3).
Thế giới phương Tây đang bước vào giai đoạn hậu tiên tiến với
những suy thoái rất dễ nhận thấy nơi cuộc khủng hoảng dân chủ
đã chớm bắt đầu với sự lên ngôi của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ...
Ðặt ra một vài hạn chế hợp lý cho những quyền tự do cá nhân có
thể bị lạm dụng và sự lạm dụng thường thấy đó có thể trở thành
nguy hiểm cho sự ổn định của tự do dân chủ, những cha đẻ Hiến
Pháp Ðức năm 1949 đã tiên liệu những nút chặn, và đã phát thảo
khá chính xác những ý niệm dân chủ phải có ở ngày mai.
Trong khung cảnh một xã hội VN Hậu Cộng Sản đã suy thoái đến
tận cùng trong đó hầu như mọi hệ thống giá trị đều bị hủy hoại,
những tương quan con người về đạo đức, kinh tế, văn hoá, xã hội,
chính trị đều phải được phục hồi hầu có thể phát khởi tiến trình
dân chủ hóa. Luật Hiến Pháp Ðức trong một chừng mực nào đó phải
chăng có thể cung cấp những nguyên tắc và định hướng căn bản cho
những nhà soạn thảo bản hiến pháp VN tương lai ?
Phụ lục 3 :
NHỮNG QUYỀN CĂN BẢN ghi trong Ðạo Luật Cơ bản ban
hành ngày 23.05.1949 của CHLB Ðức
Mở đầu : Ý thức trách nhiệm của mình trước Thượng Ðế và
Con Người, và cũng khởi từ ý nguyện phục vụ cho hòa bình thế
giới với tư cách thành viên của Châu Âu thống nhất, dân tộc Ðức
quốc tán đồng Ðạo Luật Cơ Bản hiện hành, chấp nhận Ðạo Luật xuất
phát từ những thẩm quyền hiến định...
Ðiều 1 (Nhân phẩm, đặc tính phải có của những quyền căn
bản trước công quyền ):
a) 1. Phẩm giá con người toàn vẹn. 2. Mọi cơ quan quyền lực
có bổn phận tôn trọng và bảo vệ nó.
b) Từ hệ quả này, dân tộc Ðức thừa nhận con người có những
quyền bất khả xâm phạm và bất khả hủy hoại, như là căn bản của
mọi cộng đồng nhân loại và hoà bình công lý trên trái đất.
c) Những quyền căn bản kể sau ràng buộc những thẩm quyền Hành
pháp, Lập pháp, Tư pháp phải tôn trọng như những quyền trực
tiếp khả thi.
Ðiều 2 (quyền tự do hành động, quyền tự do cá nhân):
a) Mọi người đều có quyền tự do phát triển nhân cách của mình
miễn là không xâm phạm đến quyền lợi của người khác, không làm
trở ngại trật tự hiến định, hoặc những nguyên tắc đạo đức.
b) 1. Mọi người đều có quyền sống và quyền bảo vệ toàn vẹn
thân thể. 2. Tự do cá nhân là bất khả xâm phạm. 3. Chỉ có luật
pháp mới có thể động chạm đến các quyền này
Ðiều 3 (bình đẳng trước pháp luật):
a) Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
b) 1. Ðàn ông và phụ nữ bình quyền. 2. Nhà nước cam kết thực
hiện sự bình đẳng về quyền lợi giữa đàn ông và đàn bà, và sẽ
phải can thiệp nhằm hủy bỏ những bất bình đẳng còn tồn tại.
c) 1 Mọi phân biệt hay đặc quyền đặc lợi theo giới tính, gốc
gác, chủng tộc, ngôn ngữ, tổ quốc gốc, tín ngưỡng, quan điểm tôn
giáo hay chính trị đều vô hiệu. 2 Người tật nguyền cũng không
bị phân biệt đối xử.
Ðiều 4 (tự do về tín ngưỡng, hành đạo và thể hiện lòng
tin):
a) Tự do về tín ngưỡng, hành đạo và tự do thể hiện lòng tin
tôn giáo hoặc chính trị, triết lý đều bất khả xâm phạm.
b) Tự do thờ phượng được bảo đảm.
c) 1. Không ai có quyền làm khó dể hay trì chiết một cá nhân
vì lý do tín ngưỡng trong khi thi hành nghĩa vụ quân sự trong
thời chiến. 2. Một đạo luật liên bang sẽ qui định mọi điều khoản
thi hành.
Ðiều 5 (tự do quan điểm):
a) 1. Mọi người đều có quyền phát biểu và tự do phổ biến quan
điểm của mình bằng lời nói, bút tự và hình ảnh; có quyền sưu
tầm mọi nguồn tin tức dành cho tất cả mọi người. 2. Tự do báo
chí và tự do truyền thông qua đài phát thanh, truyền hình và
phim ảnh được bảo đảm. 3. Không có kiểm duyệt.
b) Những đạo luật tổng quát sẽ qui định những giới hạn quyền
này liên quan đến việc bảo vệ trẻ thơ và tôn trọng danh dự cá
nhân.
c) 1. Nghệ thuật, khoa học, nghiên cứu và giảng dạy đều được
tự do. 2. Tự do giảng dạy phải trung thành với tinh thần hiến
pháp.
Ðiều 6 (hôn nhân và gia đình, con ngoại hôn):
a) Hôn nhân và gia đình được đặt dưới sự bảo vệ đặc biệt của
nhà nước.
b) 1. Nuôi dạy con trẻ là quyền tự nhiên của các bậc cha mẹ
và là một nghĩa vụ ưu tiên. 2. Nhà nước theo dõi cung cách hành
xử những nhiệm vụ này.
c) Không thể nhân danh luật để buộc con cái phải phân ly với
gia đình trái với ý muốn của cha mẹ, hoặc các bậc thẩm quyền
được ủy nhiệm của cha mẹ trong trường hợp những người này thiếu
bổn phận; hay khi vì những lý do nào khác khiến những đứa trẻ có
thể bị bỏ rơi.
d) Mọi bà mẹ đều được cộng đồng bảo vệ và trợ giúp.
e) Quyền Lập pháp phải bảo đảm cho con ngoại hôn những điều
kiện bình đẳng với con chính thức trong các lãnh vực phát triển
vật chất, tinh thần và các thân trạng xã hội.
Ðiều 7 (giáo dục học đường):
a) Toàn thể nền giáo dục đều được đặt dưới sự kiểm soát của
nhà nước.
b) Những người được ủy nhiệm từ các thẩm quyền cha mẹ có quyền
quyết định cho con cái mình tham dự vào việc học giáo lý.
c) 1. Giáo dục về tôn giáo là một tiết mục giảng dạy định kỳ ở
trường công ngoại trừ những trường không thừa nhận tín lý. 2.
Giáo dục tôn giáo được miễn trừ một cách thích hợp với các
nguyên tắc điều hành của những cộng đồng tôn giáo, nhưng không
làm phương hại quyền kiểm soát của nhà nước. 3. Không một nhà
giáo nào có thể bị ép buộc phải miễn trừ việc giảng dạy tôn giáo
ngược với ý muốn của họ.
d) 1. Quyền lập trường tư được bảo vệ. 2. Những trường hợp
trường tư bỗ trợ cho trường công lập phải được Nhà nước thỏa
hiệp cho phép và chịu sự chi phối của luật các Lander. 3. Sự
thỏa hiệp phải được chấp nhận khi trường tư có trình độ ngang
với trường công về các chương trình giảng dạy, cơ sở và kiến
thức khoa học của các nhân viên giảng dạy; và không làm lợi cho
sự tách biệt của những học sinh có cha mẹ giàu có. 4. Sự thỏa
hiệp này có thể bị từ chối và không thành hiệu nếu tình trạng
kinh tế hay pháp lý của nhân viên giảng dạy không đủ bảo đảm.
e) Một trường tiểu học tư chỉ được cho phép nếu các thẩm quyền
thẩm tra công quyền thừa nhận một ích lợi đặc biệt về sư phạm
hoặc khi những pháp nhân đại diện cha mẹ yêu cầu thiết lập một
trường bá nghệ, đạo giáo hay triết lý vì không có những trường
công lập loại này trong xã.
f) Những trường dự bị chuyển tiếp còn hiện hữu phải bị xóa bỏ.
Ðiều 8 (quyền hội họp):
a) Tất cả mọi người Ðức đều có quyền hội họp hoà bình, không
vũ khí, khỏi cần phải tuyên bố hoặc xin phép trước.
b) Nếu hội họp ngoài trời, quyền này có thể bị giới hạn bởi
một đạo luật hoặc sắc luật.
Ðiều 9
(tự do lập hội):
a) Tất cả mọi công dân Ðức đều có quyền tự do lập hội hoặc hiệp
hội.
b) Những hiệp hội mà mục đích hay hoạt động trái với hình luật
hoặc chống lại trật tự hiến định hay lý tưởng hoà hợp giữa các
sắc tộc đều bị cấm.
c) 1. Quyền lập hiệp hội để bảo vệ hoặc nhằm thăng hoa những
điều kiện lao động và kinh tế được bảo đảm cho mọi người và cho
mọi nghề nghiệp. 2. Những qui ước nhằm hạn chế hay có khuynh
hướng ngăn trở quyền này đều vô hiệu và tất cả các biện pháp
qui định trong chiều hướng này đều bất hợp pháp. 3. Những biện
pháp xuất phát từ các điều 12a, đ.35 đoạn (b) và (c), đ.87 a
đoạn 4 và điều 91 không được xử dụng chống các tương tranh lao
động do các hiệp hội phát động theo đúng nghiã câu đầu đoạn này
nhằm bảo vệ và thăng tiến những điều kiện lao động và kinh tế.
Ðiều 10
(bí mật thư tín, về bưu điện, viển thông):
a) Bí mật thư tín cũng như bí mật bưu điện, viển thông đều bất
khả xâm phạm.
b) 1. Những hạn chế phải do sắc luật qui định. 2. Nếu sự hạn chế
có mục đích bảo vệ trật tự hiến định vì tự do dân chủ, hoặc vì
sự tồn tại và an ninh liên bang hay lander, luật có thể qui định
rằng đương sự sẽ không được thông tri về các lý do này, và kháng
cáo tư pháp sẽ được thay thế bởi sự kiểm tra của các cơ quan
(chính thức) hay bổ trợ do cơ cấu đại diện dân chúng chỉ định.
Ðiều 11
(tự do lưu thông, cư trú):
a) Tất cả mọi công dân Ðức đều được hưởng quyền tự do lưu thông
và cư trú trên toàn lãnh thổ liên bang.
b) Quyền này chỉ bị giới hạn bởi đạo luật hay sắc luật, và chỉ
trong trường hợp độc nhất khi cá nhân không có những điều kiện
sống tối thiểu khiến địa phương phải gánh thêm những phí tổn
đặc biệt; cũng như trong các trường hợp cần thiết để tránh nguy
hại đe dọa đến sự tồn tại trật tự hiến định về tự do dân chủ
cuả Lander hay Liên bang; hoặc để chống lại các nguy cơ bệnh
dịch, các tai ương thiên nhiên hoặc thảm họa đặc biệt nghiêm
trọng; hoặc để bảo vệ con trẻ khỏi nguy cơ bị bỏ rơi hoặc để
tiên báo những hành động phạm pháp.
Ðiều 12
(tự do nghề nghiệp, cấm lao động khổ sai):
a) 1. Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc
làm và trường học nghề. 2. Việc hành nghề có thể do một đạo luật
hoặc sắc luật qui định.
b) Mọi việc làm khó dể hay áp đặt vào một việc làm chỉ định đều
vô hiệu nếu không nằm trong khuôn khổ những nghĩa vụ công cọng
liên quan đến việc đóng góp những dịch vụ có tính chất truyền
thống, tổng quát và bình đẳng đối với tất cả mọi người.
c) Lao động khổ sai chỉ được phép trong khuôn khổ một hình phạt
khi cá nhân bị tước đoạt quyền tự do do tòa án qui định.
Ðiều 12a
(nghĩa vụ quân sự và dân sự cưỡng bách):
a) Mọi người kể từ tuổi 18 có thể bị bắt buộc phục vụ trong các
lực lượng quân sự, trong các cơ quan liên bang bảo vệ biên giới
hay trong các nhóm dân phòng.
b) Bất kỳ ai từ chối hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong thời
chiến, bởi lý do tín ngưỡng, có thể bị buộc phải hoàn tất một
nghĩa vụ bổ trợ khác. Thời hạn của nghĩa vụ này không thể kéo
dài hơn nghĩa vụ quân sự. Cách thức thi hành được qui định bởi
đạo luật không thể làm tác hại đến tự do quyết định tùy theo
tín ngưỡng của họ; đồng thời cũng phải tiên liệu khả năng thi
hành một nghĩa vụ phụ không liên hệ gì đến các đơn vị quân đội
và các đơn vị bảo vệ biên giới của Liên bang.
c) 1. Trong thời kỳ phòng hộ, những người thi hành nghĩa vụ quân
sự và cả những người không bị triệu tập thi hành những nghĩa vụ
nói ở đoạn (a) hoặc (b) có thể bị trói buộc bởi đạo luật hay
sắc luật để phải cung ứng những dịch vụ thuần túy dân sự nhưng
lại có mục đích quốc phòng, kể cả những dịch vụ dân phòng tương
ứng với công việc làm của mình; những sự bổ nhiệm trong lãnh vực
công luật nhằm bảo đảm những nhu cầu cảnh sát hay các sứ mạng
hành chánh của bộ máy quyền lực nhà nước phải hội đủ những tiêu
chulẫn liên hệ đến chế độ công luật. 2. Những tương quan nghề
nghiệp như đã dự liệu trong câu (1) cũng có thể thực hành trong
các lực lượng quân sự, trong lãnh vực cai quản, cũng như trong
lãnh vực hành chánh công quyền. Riêng trong lãnh vực tiếp liệu
của dân phòng điều này chỉ được phép thực hiện khi có những nhu
cầu sinh tử hay để bảo đảm phòng thủ.
d) 1. Trong thời kỳ phòng hộ, nếu những nhu cầu về cung ứng dịch
vụ dân sự không được bảo đảm bởi các đợt tự nguyện trong các
cơ quan y tế và bịnh viện dân sự cũng như những quân y viện cố
định, một đạo luật hay sắc luật có thể triệu dụng những phụ nữ
tuổi từ 18 đến 50 cung ứng những dịch vụ vừa kể. 2. Những phụ nữ
này không thể bị buộc thi hành nghĩa vụ quân sự.
e) 1. Trong suốt thời gian trước khi ban bố tình trạng phòng hộ,
những nghĩa vụ qui định ở đoạn (c) chỉ có thể thiết lập trong
các điều kiện của điều 80 a, đoạn thứ nhất. 2. Ðể chulẫn bị
cho những nhu cầu cung ứng dịch vụ nói ở đoạn (c), nếu những
điều kiện về trình độ am tường hoặc kiến thức đòi hỏi, một đạo
luật hay sắc luật có thể qui định những khoá huấn luyện bắt
buộc. 3. Trong trường hợp này, câu thứ nhất của đoạn này không
áp dụng.
f) 1. Nếu trong tình trạng phòngn hộ, nhu cầu nhân công tỏ ra
cần thiết cho những lãnh vực nêu ở đoạn (c), câu 2 chỉ có thể
bảo đảm bởi những đợt tự nguyện, quyền tự do của công dân Ðức
thôi hành xử một nghề nghiệp hay thôi giữ một chức vụ chỉ có thể
bị hạn chế bởi luật hay sắc luật nhằm bảo đảm những nhu cầu ấy.
2. Ðoạn (e) câu 1 cũng có hiệu lực bởi tính tương đồng trước khi
xuất hiện tình trạng phòng hộ.
Ðiều 13
(sự bất khả xâm phạm của cư sở):
a) Cư sở không thể bị xâm phạm.
b) Những lục soát phải do quan tòa cho lệnh; cũng như khi có
tổn thất trong cư sở, phải do các cơ quan khác cho lệnh theo
luật qui định, và thực hiện theo các khuôn khổ qui định.
c) Khi có những yếu tố đánh tan được nghi ngờ một đương can hình
sự đặc biệt nghiêm trọng do Luật dự kiến, những kỹ thuật nghe
lén cư sở trong đó nghi can hình sự lẫn trốn có thể được xử dụng
nhằm trấn áp sự phạm pháp, trên căn bản một trát tòa trong
trường hợp mà mà sự thẩm tra bằng các phương tiện khác tỏ ra khó
khăn hơn nhiều biện pháp này hoặc đã chứng tỏ là không hiệu qủa.
Biện pháp này chỉ có tính chất lâm thời. Trát lệnh phải do 3
quan tòa quyết định. Nếu có tổn thất trong cư sở, biện pháp này
cũng có thể chỉ do một quan tòa quyết định.
d) Nhằm thanh thỏa những hiểm nguy nghiêm trọng cho an ninh
chung nhất là nguy cơ công cọng, hoặc nhằm khống chế một tổn
thất nhân mạng, những biện pháp kỹ thuật theo dõi cư sở chỉ được
thi hành trên cơ sở một án lệnh của tòa án. Nếu có tổn thất
trong cư sở, biện pháp này có thể do một thẩm quyền khác cho
phép theo luật định; phán quyết có thể can thiệp vô kỳ hạn.
e) Khi những phương tiện kỹ thuật được đặc biệt dự kiến nhằm bảo
vệ các cá nhân phải can thiệp trong các cư sở, biện pháp thi
hành có thể do một cơ quan luật định ra lệnh. Việc khai thác các
kiến thức cũng như phương cách hành xử nhằm một mục tiêu khác
chỉ được cho phép vì một mục đích duy nhất là truy nã tội phạm
hình sự hay để dự phòng một nguy cơ, và chỉ với điều kiện là
phương án thi hành đã được quan tòa khán nghiệm; nếu có tổn thất
trong cư sở, phán quyết phải can thiệp vô thời hạn.
f) Chính phủ Liên bang phải thông tri cho Quốc hội hàng năm
những xử dụng kỹ thuật xử dụng trong khuôn khổ đoạn (c), và liên
quan đến những vụ việc của Liên bang, phải nằm trong khuôn khổ
điều (d) cũng như điều (f) khi quan toà phải thực hiện một kiểm
sát tư pháp. Một viện do Quốc hội bầu ra sẽ thực hiện thẩm quyền
kiểm sát hiến chế trên căn bản thông tri này. Các Bang cũng phải
thực thi những kiểm sát hiến chế tương tự.
g) Các tước đoạt hay hạn chế khác liên quan đến tính bất khả xâm
phạm cư sở chỉ được tiến hành nếu có một nguy cơ tập thể, nhằm
tránh những thiệt hại đe dọa nhân quần, hoặc là nhân danh luật,
nhằm tiên báo tình trạng an ninh và trật tự công cọng đang bị đe
nghiêm trọng; đặc biệt là để tu sữa lại những hư hại của chổ ở,
nhằm chống dịch họa, hoặc nhằm bảo vệ con trẻ đang ở trong tình
trạng hiểm nghèo.
Ðiều 14
(tài sản, quyền thừa kế và truất hữu):
a) 1. Tài sản và quyền thừa kế được bảo đảm. 2. Nội dung và
những hạn chế đều do đạo luật qui định.
b) 1. Quyền tư sản là bắt buộc. 2. Sự hành xử quyền này đồng
thời cũng phải phù hợp với lợi ích chung
c) 1. Sự truất hữu tài sản chỉ được cho phép vì quyền lợi tập
thể. 2. Nó chỉ được thực hiện bởi một đạo luật hoặc sắc luật có
qui định về phương cách và biện pháp bồi thường. 3. Tiền bồi
thường phải được qui định công bằng, hợp lý các quyền lợi đôi
bên giữa tập thể và các đương sự. 4. Trong trường hợp tranh tụng
liên quan đến khoản tiền bồi thường, những tòa án thường tụng là
cơ quan có thẩm quyền.
Ðiều 15
(hiệp hội):
a) 1. Vì mục đích lập hội, những đất đai, tài sản thiên nhiên,
và những phương tiện sản xuất có thể được đặt dưới chế độ công
hữu hoặc dưới một hình thức quản trị chung; một đạo luật sẽ ấn
định cách thức và những biện pháp bồi thường. 2. Ðiều 14 đoạn
(c), các câu 3 và 4 cũng áp dụng bởi tính tương đồng như trường
hợp bồi thường.
Ðiều 16
(quốc tịch, trục xuất):
a) 1. Quốc tịch Ðức không thể bị thu hồi. 2. Sự mất quốc tịch
chỉ có thể khởi từ một sắc luật, và không mang tính cưỡng chế
đối với một đương sự trong trường hợp mất quốc tịch vì ly hương.
b) Không một công dân Ðức nào có thể bị trục xuất ra nước ngoài.
Ðiều 16a
(quyền tị nạn):
a) 1. Những người bị ngược đãi về chính trị có quyền xin tị nạn.
b) 1. Ðoạn (a) này không thể được viện dẫn cho trường hợp người
nhập cư vào lãnh thổ Ðức từ một nước thành viên Cộng đồng châu
Âu hoặc từ một quốc gia trong đó Công ước liên quan đến qui chế
tị nạn và Công ước bảo vệ quyền con ngưòi được bảo đảm áp dụng.
2. Những quốc gia không phải là thành viên Cộng đồng châu Âu hội
đủ những điều kiện của câu (1) sẽ do một đạo luật có sự thỏa
thuận của Bundesrat ấn định.
3. Trong các trường hợp tiên liệu ở đoạn (a) những biện pháp
chấm dứt tình trạng cư trú có thể được thi hành riêng, không
dính dáng gì đến những khoản cam kết ngược lại những biện pháp
này.
c) 1. Một đạo luật có sự chấp thuận của Bundesrat có thể ấn định
danh sách các quốc gia thi hành luật pháp và chính sách chính
trị chung theo chiều hướng bảo đảm nhà nước pháp trị, không có
bạo hành chính trị, không có những hình phạt và đối xử vô nhân
đạo, hoặc không đúng mức. 2. Một người ngoại quốc gốc gác ở một
quốc gia nào đó có thể không được xem như là bị đối xử bạo ngược
chừng nào y ta không trưng được những sự kiện cấu thành giả
thiết bị bạo hành chính trị.
d) 1. Trong trường hợp dự liệu ở đoạn (c) và trong trường hợp
những thỉnh nguyện khác được xem như không có cơ sở hoặc bị nhận
xét như thế này hoặc như thế khác, tòa án chỉ được tuyên bố hoản
thi hành các biện pháp chấm dứt tình trạng cư trú khi có những
nghi ngờ nghiêm trọng về các biện pháp giải quyết; trong trường
hợp này cường độ kiểm soát có thể thu hẹp và những biện pháp tối
hậu có thể được miển trừ. 2. Các cách thức thi hành do một đạo
luật ấn định.
e) Những đoạn (a) và (d) không làm trở ngại gì cho các hiệp ước
quốc tế ký kết giữa các thành viên của Cộng đồng châu Âu hoặc
với các quốc gia đệ tam có qui định những nguyên tắc thẩm quyền
trong việc cứu xét đơn xin tị nạn, bao gồm cả sự thừa nhận hổ
tương các quyết định của nhau liên quan đến vấn đề tị nạn, tất
cả nhằm tôn trọng các nghĩa vụ liên quan đến công ước về qui chế
tị nạn và công ước bảo vệ quyền Con người và quyền Tự do căn
bản, mà sự thi hành phải được bảo đảm trong các quốc gia thành
viên kết ước.
Ðiều 17
(quyền thỉnh nguyện) :
Tất cả mọi người đều có quyền viết thỉnh nguyện hoặc kháng cáo,
có tính cách cá nhân hoặc liên kết tập thể với những người khác,
gởi lên các chức quyền hữu trách và các dân biểu.
Ðiều 17a
(những hạn chế trên một vài quyền căn bản do các đạo luật mang
lại liên quan đến quốc phòng và các nghiã vụ bổ trợ) :
Những đạo luật liên quan đến nghĩa vụ quân sự hay các nghĩa vụ
bổ trợ có thể dự liệu những hạn chế đối với người liên hệ suốt
trong thời gian nghiã vụ của họ về những quyền căn bản như phát
biểu hay thông đạt một cách tự do các quan điểm của họ hoặc bằng
lời nói, bút tự hay hình ảnh (điều 5 đoạn (a), phần 1 của câu
1), quyền tự do hội họp (điều 8), và quyền thỉnh nguyện (điều
17), nếu đương sự hành xử quyền đạo đạt thỉnh nguyện tập thể
liên kết với các kẻ khác.
b) Những đạo luật liên quan đến phòng vệ kể cả dân phòng có thể
dự liệu những hạn chế về quyền căn bản của tự do lưu thông và cư
trú (điều 11), và cư sở bất khả xâm phạm (điều 13).
Ðiều 18
(việc tước bỏ những quyền căn bản):
1. Bất kỳ ai lạm dụng quyền tự do phát biểu quan điểm, đặc
biệt là quyền tự do báo chí (điều 5 đoạn a), tự do giảng dạy
(điều 5 đoạn c), tự do hội họp (điều 8), tự do lập hội (điều 9),
bí mật bưu tín (điều 10), tự do tài sản (điều 14), hay quyền tị
nạn (điều 16a) để chống lại trật tự hiến định về tự do và dân
chủ sẽ bị tước quyền tự do căn bản.
2 Việc tước quyền và mức độ truất quyền do Tòa Án Bảo Hiến
tuyên bố.
Ðiều 19 (những hạn chế của các quyền căn bản):
a) 1. Theo Ðạo Luật Cơ Bản, khi một quyền căn bản bị giới hạn
bởi một đạo luật hoặc sắc luật, đạo luật này phải có hiệu lực
tổng quát chứ không phải chỉ cho một trường hợp đặc biệt. 2.
Ngoài ra đạo luật phải hài rõ quyền căn bản, chỉ danh rõ ràng
điều khoản liên hệ.
b) Trong tất cả mọi trường hợp đạo luật này không được làm tổn
hại đến tinh yếu của quyền căn bản.
c) Những quyền căn bản được áp dụng đồng đều cho mọi pháp nhân
cấp quốc gia nếu bản chất pháp lý cho phép.
d) 1. Bất kỳ ai bị các cơ quan công quyền làm tổn hại các
quyền của mình đều có thể kháng tố trước pháp đình.
2. Nếu không một cơ quan tài phán nào đủ thẩm quyền, việc
kháng tố có thể thực hiện trước pháp chế thường tụng.
3. Ðiều 10, đoạn (b) câu 2 không có hiệu lực trong đoạn này.
-
Hết Chương VI
-
Xem tiếp
chương VII :
Tản quyền hành chánh và Phát triển bền vững
|