Hòa giải,
một nhu cầu có thật
Khi
có hai hay nhiều người, nhiều bên bất đồng, bất hòa với nhau, để “xí
xóa chuyển cũ” mong làm hòa, làm lành, làm quen lại, người ta thường
đi tìm cách “hòa giải”.
Trầm trọng hơn, ở tầm mức một dân tộc, một quốc gia hay nhiều quốc
gia, hố sâu không chỉ bất hòa, bất đồng mà còn do thù sâu, hận lớn gây
nên, thí dụ như ở nước Nam Phi, người dân đa số da đen bị người thiểu
số da trắng cai trị, đàn áp hàng trăm năm - Cuối cùng khi những nạn
nhân chế độ kỳ thị chủng tộc này được giải phóng, những nhà lãnh đạo
thức thời, nhìn xa và can đãm của Nam Phi đã tiên phuông kêu gọi “hòa
giải”. Ở nước Đức thống nhất, ở Ba lan hậu Cộng sản cũng thế.
Như vậy, giữa một thế giới ngửa nghiêng, đầy xung đột thì chuyện hòa
giải là chuyện có thật, một nhu cầu có thật! Trong trường hợp Việt
Nam
mình chắc cũng không ngoại lệ!?
Tháng 4 năm 2007, trên đài BBC đã phát thanh nhiều lần, nhiều đoạn về
cuộc phỏng vấn của phóng viên Xuân Hồng với nguyên cố Thủ Tướng nhà
nước Việt Nam Cộng sản, ông Võ Văn Kiệt. Trên trang nhà của BBC cũng
đăng lại bài phỏng vấn này, nhưng cứ nhẩn nha, thong thả, tuần tự giới
thiệu, “nhả ra” từng chút một . . . Lạ thật, một cơ quan truyền thông
quốc tế mà cũng cần lối quảng cáo “câu khách” hay sao? Hẳn không phải
vậy. BBC đang muốn dư luận có thời gian “ngấm” chất liệu “mới” của bài
phỏng vấn. Họ đang giúp ông Kiệt đo phản ứng của người Việt bên ngoài
nước - Đối tượng chính lời nói của ông Kiệt.
Chủ đề lần xuất hiện này của ông Kiệt là “Hòa giải dân tộc”. Thật ra,
đây không phải là một điều gì quá mới đối với ông Võ Văn Kiệt, vì từ
đôi năm nay, những bài viết, những phát biểu của ông Kiệt được đăng
tải trên các báo chí trong nước, đặc biệt là các báo phía Nam đã
chuyên chở những điểm căn bản tư tưởng có thể gọi là “phá cách” của
ông Võ Văn Kiệt. Cái đáng lưu ý của lần lên tiếng này, chính là ông
Kiệt đưa vấn đề đi xa hơn, có vẽ “tha thiết” hơn, có vẽ “thật” hơn
(chẳng biết vì lối phát âm miền Nam, trầm ấm, sâu lắng có giúp ông tạo
cho người nghe nghĩ rằng “ông Kiệt đang nói thật” hay không?) Ngay
thời điểm lên tiếng, ông Kiệt cũng cố tình chọn (với sự cộng tác “nhịp
nhàng” của Xuân Hồng, đài BBC) một thời điểm “nhạy cảm”, là ngày miền
Nam thất thủ, ngày người Cộng sản chiếm trọn quyền hành cả nước: 30
tháng Tư! Chọn ngày “được và mất”, “thắng và thua” ấy để nói “hòa
giải” thì thật là tuyệt cú. Thế nhưng vấn đề “hòa giải” tự bản chất
không phải là “biểu kiến”: giọng điệu thiết tha, thời điểm động tâm mà
chính là ở thực chất: Ông Kiệt có thật tâm muốn “hòa” để “giải” và
“giải” để “hòa” hay không? Ông Kiệt muốn hòa hay nói thay cho chế độ,
cho đảng muốn “hòa”? Và còn biết bao “thực chất” khác cần đưa ra, cần
chứng tỏ, cần “đối thoại”!
Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 2007, ngày BBC phát thanh phần đầu của cuộc
phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt đến khi ông mất đã có trên dưới gần 50 bài
viết ở trong nước và ngoài nước lên tiếng “trả lời” (có thể có nhiều
hơn, mà người viết không có dịp đọc để tổng kết đúng). Nói chung, phần
lớn đều KHÔNG TIN ông Kiệt và chế độ CSVN có thiện chí hòa giải nhưng
cũng đa số ấy đã đồng ý “hòa giải” là một NHU CẦU của Dân Tộc Việt
Nam. Nhiều người nghi ngờ ông Kiệt vì kinh nghiệm quá khứ hòa giải với
Cộng sản chỉ là tự sát. Có người đã xem lời kêu gọi hòa giải của ông
Kiệt như là một chiêu bài, một động thái chính trị nhằm “hóa giải” hoàn cảnh bị bế tắc của đảng Cộng sản, tác giả bài viết nêu lên
nhiều câu hỏi “tại sao” rất thực tế và hợp lý để dẫn đến kết luận rằng
đảng CSVN lại “rất xảo quyệt” khi chơi trò “hòa giải”! Thật ra, liên
hệ nhân quả là vậy. Chính Sự Thật Của Quá Khứ đầy chua cay đã
trở thành bức tường vây chặt
khiến người ta khó thể tiến vào tương lai
và không thể chấp nhận một thử thách mới.
Thế nhưng cũng có những Sự Thật Của Hiện Tại đáng để chúng
ta suy nghĩ, cân nhắc:
Một là : Con Người Thay Đổi
- Thực tế minh chứng người Cộng sản VN (tạm gọi những người trong đảng
cầm quyền hiện nay ở trong nước là thế) không là người Cộng sản VN của
40, 50 năm về trước, thậm chí 10 năm về trước. Con người CSVN của thời
1954, 1965 là tập thể duy vật, duy ý chí, giáo điều mù quáng
theo kiểu Mao-Sít. Đến 1975, 1985, hào quang chiến thắng bất ngờ biến
họ trở thành những kẻ hãnh tiến, sốc nổi, ngây thơ, nhưng đến năm
1995, 2005 thì vỡ mộng chỉ còn biết sống cho hiện tại theo đà “đổi
mới” duy lợi để hiện sinh, và rồi đến ngày hôm nay thì thật sự
biến “chất” thành duy tâm cấp thấp! Những việc đặt bàn thờ Phật
nơi văn phòng đảng bộ đốt hương mù mịt để cầu phước, Tổng Bí Thư về
làng cúng tổ (tổ Dân Tộc rồi tổ giòng họ Hồ), quan chức chính quyền và
đảng thay nhau xem bói, xin xăm… Con người CSVN đã thay đổi trong thực
chất nhưng chế độ và đảng thì cứ phủ nhận, cường điệu là … “làm gì có”
. Thế nhưng lịch sử vẫn tiến từ tư duy của những con người. Tư duy đổi
thì dòng chảy lịch sử cứ thế mà tuôn tràn, cộng hưởng từ nhiều phía
thuận và nghịch để bùng phá thành dòng thác cách mạng, tiệm tiến
chuyển đổi cả nền móng xã hội (diễn biến hòa bình) hay đột biến phá vỡ
kiểu quân biến, chính biến, dân biến. Đó không phải là câu hỏi có hay
không mà chính là: Bao giờ !
Hai là: Bối Cảnh Thay Đổi
- Thời thế của quá khứ và hiện tại hoàn toàn khác nhau. Xu hướng thế
giới của 1945 – 1954 là Giải Thực. Cái đuôi của xu hướng này kéo dài
đến tận 1975 mà lực lượng Hoa Kỳ đến bảo vệ chính thể non yếu Miền Nam
Việt Nam trở thành nạn nhân kẻ đánh đuổi quân xâm lược thành người xâm
lược. CSVN rất quỷ quyệt khi gán tính chất nội chiến cho cuộc chiến
Nam Bắc và để đặt tên cho quân viễn chinh Hoa Kỳ tại Việt
Nam
là “thực dân kiểu mới”. Đó là thời cực thịnh của tả phái mà cuộc rút
lui của Hoa Kỳ tại Việt
Nam
là đỉnh điểm đăng quang của họ.
Tương tự như thế, hiện tại thế giới đang di dần đến trang chót của
phong trào Giải Cộng. Sau sự sụp đổ hàng loạt chế độ Cộng sản tại Đông
Âu và Liên Xô. Con quái vật Cộng sản quốc tế chỉ còn lại chệch choạc
một chiếc nanh Trung Cộng và vài cái răng hư Việt Nam Cộng sản và Bắc
Hàn, Cu Ba. Con quái vật ấy không còn cắn được ai nhưng vẫn còn nét
hung bạo, hù dọa thế giới. Hơn ai hết, những nước Cộng sản cuối cùng
này biết được sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng sản đã đến gần … thế
nhưng vẫn cố nói “làm gì có”. Thực tế này không phải là câu hỏi có hay
không mà là: Bao giờ xảy ra !?
Ba là: Nhu cầu tự giải cứu của người Cộng sản là có thật.
Nói “Làm gì có” nhưng “có” cứ lù lù ra. Người CSVN có thể dối được cả
thế giới nhưng không thể dối được chính họ. Đảng CSVN may mắn sống sót
sau cơn động đất lớn ở Đông Âu và Liên Xô nhưng khó mà thoát khỏi trận
bão thế kỷ Giải Cộng sắp tới. Họ biết và muốn sống, muốn tồn tại. Lột
xác chính là giải pháp mà họ phải chọn. Nhưng giữa thời buổi thông tin
toàn cầu này, con người thông minh hơn xưa nhiều lắm. Lột xác để hóa
kiếp như nhộng hóa thành ngài thì sẽ được toàn dân chấp nhận vì bản
chất đã thay đổi nhưng nếu lột da (như rắn) mà tưởng đã hóa thân để
tồn tại thì trước sau gì cũng bị nhận diện và trừ khử. Nhu cầu thoát
xác của người Cộng sản muốn được viên thành phải cần song hành với
tiến trình hòa giải. Vì đó là giọt nước cam lồ tắm gội xác thân mới mẻ
của họ để thành một con người mới: Người Việt
Nam
với tố chất Việt
Nam!
Hòa giải là con đường tự cứu duy nhất mà người Cộng sản phải đi. Trước
mặt là ngõ cụt cho chủ nghĩa Cộng sản. Ngay chính đảng Cộng sản Trung
quốc cũng thấy điều ấy và từng bước mở ra cánh cửa kêu gọi hòa giải
với Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Cái khó của Bắc Kinh không phải là hòa
với những người bất đồng chính kiến Quốc Dân Đảng Trung Hoa mà là
những thế lực dân bản địa Đài Loan. Địa phương tính đẩy nhóm người ở
hải đảo này đi xa hơn, họ muốn độc lập hoàn toàn, tách rời hẳn Trung
Hoa lục địa. Với Việt
Nam
sẽ tránh được tình trạng kêu gọi “độc lập” này, còn lại là sự hòa giải
chân phương.
Tóm lại : Hòa giải là một nhu cầu có thật của Dân tộc Việt
Nam
trước hiểm họa ngoại xâm. Chìa khóa để giải quyết lối ra cho Việt
Nam
hôm nay chính là lòng Can Đảm và sự Bao Dung.
Những người yêu nước ở hai đầu cuộc chiến cần vượt qua chính mình để
chấp nhận nhau. Phải can đảm nhìn nhận dù là Kẻ Chiến thắng hay Người
Chiến bại đều có vinh quang và sự chua chát.
Lịch sử đi qua để lại vết hằn trong tâm lý những nạn nhân của nó nhưng
lịch sử không đứng lại.
Vì tương lai của con cháu chúng ta, những thành phần hệ lụy trong cuộc
chiến cũ có trách nhiệm phải “làm hòa” với nhau để không để lại một
gia sản thù hận chất chồng cho con cháu mình.
Nhưng trên hết, Tổ Quốc chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm diệt vong.
Bên trong, kẻ thù ngàn đời phương Bắc đang trèo cao, cắm sâu vào guồng
máy chế độ, tình báo của chúng mở lưới, mọc rễ ở khắp nơi. Bên ngoài,
chúng từng bước giành lấn biên giới, cưỡng chiếm hải phận, hải đảo của
nước ta, rồi công khai ngăn cấm nước ngòai đầu tư hợp tác khai thác
với Việt
Nam.
Khi ra mặt “đụng chạm” với Hoa Kỳ qua việc cảnh cáo hãng Exxon Mobil
không được thăm dò vùng biển Trường Sa, Bắc Kinh đã nói với thế giới
rằng toàn bộ Biển Đông của Việt
Nam
là thuộc về của họ.
Mất Biển Đông không phải chỉ mất 200 tỷ thùng dầu thô (như ước lượng
của Bắc Kinh) hay non 20 tỷ thùng (theo Hoa Kỳ) mà là mất cả nguồn hải
sản giàu có vào bậc nhất thế giới và nguy hại hơn nữa chính là cửa ngõ
của Tổ Quốc bị bịt kín.
Sự kiêu ngạo của Kẻ Chiến thắng hay mối hận của Người Chiến bại chỉ
nhất thời ở một hay hai thế hệ nhưng sự trường tồn của nòi giống, danh
dự của dân tộc, tương lai của bao thế thệ tiếp nối phải được đặt lên
trên.
Những năm gần đây, chúng ta nghe nhiều đến hai từ “phản tỉnh” nhưng
thật ra chúng ta cần một cuộc ĐẠI THỨC TỈNH cho toàn Dân Tộc trước khi
quá muộn!
Nguyễn Tường Long