.    

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói, nhưng tôi có thể chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó  #  I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it  #  Je désapprouve ce que vous dites, mais je défendrai à la mort votre droite de la dire (Voltaire)
 CHUYÊN MỤC

Tư Tưởng

n Học

Ký sự

Giáo Dục

Diễn Đàn

Chính Luận

Môi Trường

Văn minh - Văn hóa

Viễn tượng Việt Nam

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 TỦ SÁCH

 Sách mới : Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp : Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên : Đêm giữa ban ngày

 

 

Bài đăng trong mục này là quan điểm riêng của tác giả, Phù Sa hoàn toàn không có trách nhiệm.

Một vài nét văn hóa Việt nam nối dài

  • PSN - 31.08.2008 - Nguyễn Văn Trần - Paris

Hiện tượng Cộng sản nắm quyền cai trị ở Việt nam, phân nửa nước rồi trên cả nước là một tai nạn lịch sử làm tắc nghẽn sự tiến hóa xã hội, tức tắc nghẽn dòng văn hóa dân tộc. Người Việt trong và ngoài nước tranh đấu chấm dứt sự cai trị độc tài của Cộng sản để khai thông sự tắc nghẽn ấy, làm cho xã hội nảy nở và vươn lên với thời đại. Công cuộc tranh đấu ngày càng định hình rõ nét, trong ngoài không nhứt thiết phải giống nhau nhưng đều nhằm chung một mục tiêu là Việt nam phải có một chế độ dân chủ tự do thật sự. Người Việt nam ai cũng thấy chế độ Cộng sản độc tài tồn tại đến ngày nay như vậy là đã quá đủ rồi !

1.- Người Việt Hải ngoại và Việt kiều 

Ngày nay, người Việt hải ngoại gồm vào khoảng 3 triệu người sanh sống trên 90 quốc gia, tập trung đông đảo ở Bắc Mỹ, Âu châu và Úc Châu. Phần lớn họ đến từ sau biến cố 30/4/75. Khi chúng ta nói người Việt hải ngoại có 3 triệu thì chúng ta đừng quên đã có hàng triệu người cũng ra đi cùng thời điểm ấy nhưng bất hạnh không đến được bờ tự do !

Trong số 3 triệu người Việt hải ngoại có một thiểu số rất nhỏ đang sanh sống ở hải ngoại nhưng không thể gọi chung họ là người Việt hải ngoại được, bởi vì sự có mặt của họ ở đây không cùng một lý do và một hoàn cảnh lịch sử giống như phần lớn những người kia. Rõ nhứt về lý lịch, họ là công dân của nhà cầm quyền Hà nội, hoặc chính họ tự xác nhận quan hệ của họ với Hà nội trên cùng quan điểm chánh trị xã hội chủ nghĩa nên thành phần nầy được nhận diện là Việt kiều.

Sự phân biệt tách bạch giữa người Việt hải ngoạiViệt kiều chỉ cần căn cứ trên một điểm duy nhứt đó là người Việt hải ngoại không chấp nhận chế độ cộng sản độc tài ở Việt nam ngày nay !

Về nguồn gốc, người Việt hải ngoại không cùng nguồn gốc với cộng sản Hà nội và Việt kiều, bởi khi cộng sản tới thì họ liều thân bỏ nước ra đi. Từ giữa thế kỷ qua, chúng ta đã một lần bỏ nhà cửa, ruộng vườn, tài sản, để thoát khỏi vùng bị cộng sản tạm chiếm. Năm 1954, chúng ta đã rời bỏ miền Bắc chạy vào Nam. Năm 1975, chúng ta, bộ phận nhỏ của dân tộc may mắn chạy thoát được chế độ cộng sản (vẫn không quên đại bộ phận còn ở lại phải chịu thay chúng ta mọi áp bức, trù dập của cộng sản Hà nội), đã phải đau lòng bỏ cả đất nước để bảo vệ cái không chung nguồn gốc với người cộng sản một lần nữa. Đó là cái còn của chúng ta hôm nay giữ được là nhờ sanh sống ở hải ngoại. Cái còn, đó văn hóa chánh trị dân chủ tự do. Đó là cái mầm văn hóa được giữ gìn và nay đem cấy lại trên mãnh đất tự do, nó nảy nở giúp cho 3 triệu người Việt hải ngoại phát triển với những thành tựu vẻ vang về nhiều mặt. Hằng năm, người Việt hải ngoại gởi về Việt nam giúp thân nhơn, đi về du lịch... một số tiền lên đến hơn 4 tỉ mỹ kim/năm. (theo thông tin 8/2008 là hơn 6 tỉ mỹ kim/năm trong lúc lợi tức của cả Việt nam chỉ có 29 tỉ mỹ kim /năm). 

Với một dân số 3 triệu người, với sự giàu có, sự hiểu biết, với nền văn hóa Việt nam, với thực tế sanh sống trên nhiều vùng đất, với cờ vàng làm biểu tượng của sắc tộc Việt nam, chúng ta có thể tự xác định chúng ta là một Việt nam Hải ngoại. Khi xác định như vậy, chúng ta đã long trọng tuyên bố toàn thể chúng ta có một nước Việt nam Hải ngoại cho chúng ta. Như Đài loan đối với Trung cộng về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Hơn nữa, về mặt pháp lý quốc tế, chúng ta còn có quyền dân tộc tự quyết, được ghi rõ trong hai Hiệp định quốc tế về chấm dứt chiến tranh và tái lập hoà bình cho Việt nam, năm 1954 và năm 1973. Sự xác định nầy sẽ cho chúng ta, trong quan hệ với nhà cầm quyền ở Việt nam ngày nay, một tư cách ứng xử tự chủ và tự trọng. Để thật sự chấm dứt quan hệ cũ xin /cho. Trong lúc chúng ta là kẻ cho.

2.- Nổ lực và thành tựu

Sanh sống ở hải ngoại nhưng chúng ta vẫn đặc biệt thường xuyên quan tâm đến đời sống của bà con, bạn bè tại Việt nam đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị, nên chúng ta từ hơn ba mươi năm nay, không ngừng nỗ lực tranh đấu để Việt nam sớm có được một chế độ dân chủ tự do. Thành tựu hùng hồn nhứt, và gần đây hơn hết, là tại hơn 80 thành phố và tiểu bang của Huê kỳ, cờ vàng của người Việt hải ngoại được chánh thức thừa nhận. Nhiều chánh quyền địa phương ở Úc và Canada cũng nhìn nhận cờ vàng của cộng đồng trong các dịp lễ lộc. Năm nay (2008), người Việt hải ngoại ở khắp nơi long trọng kỷ niệm 60 năm Cờ Vàng. Đặc biệt ở Pháp, quốc gia có nền văn hóa khác hơn Mỹ, Úc và Canada về chánh sách hội nhập, hồi tháng 6 vừa qua, hai Thành phố Voisins-le-Bretonneux và Montigny-le-Bretonneux (Tỉnh 78, Yvelines) chấp nhận chánh thức, với nghi lễ, cho Cộng đồng Người việt Hải ngoại treo Cờ Vàng suốt 3 ngày ngay trước Tòa Thị sảnh. Nhờ sự vận động của người Việt hải ngoại ở Huê kỳ, Quốc hội Huê kỳ thông qua nhiều dự luật về nhơn quyến để áp dụng đối với Việt nam. Huê kỳ trước đây còn ghi Việt nam vào danh sách “ các quốc gia cần theo dõi ”.

Người Việt hải ngoại luôn luôn theo đuổi những hoạt động tranh đấu về nhơn quyền, vận động sự yểm trợ của quốc tế, để làm áp lực lên nhà cầm quyền Hà nội phải thay đổi chế độ theo hướng dân chủ tự do.

Việt nam ngày nay, như ta thấy, có nới lỏng trên một vài lãnh vực, như mức độ đàn áp, bản án tù dành cho những người chống đối tại Việt nam, là nhờ sự tranh đấu của người Việt hải ngoại.

3.- Nhìn chung về tình hình chống đối ở Việt nam 

Sau chiến tranh lạnh chấm dứt, chỗ dựa phe xã hội chủ nghĩa mất, Việt nam phải tự đối phó với sức ép của Huê kỳ và Âu châu về Nhơn quyền. Mặt khác, nhờ gia nhập Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (Asean) và nhứt là mối quan hệ với Tàu, Việt nam cực lực chống đỡ để duy trì chế độ độc tài, nên chỉ cải tổ kinh tế vừa đủ để làm dịu những căng thẳng xã hội.

Tình trạng xã hội căng thẳng không phải ở ngày nay, mà ngay từ sau khi Việt nam thống nhứt, đánh mất đi ý nghĩa thật sự của chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong hàng ngũ đảng viên đã xuất hiện những bất mãn chống đối chánh sách của đảng cộng sản. Sự chống đối ngày càng lan rộng hơn và rõ nét hơn như ngày nay chúng ta thấy. Những hiện tượng chống đối không chỉ xuất phát từ một số cá nhơn bất mãn mà xuất phát thật sự từ những người có tâm huyết tranh đấu dân chủ. Họ luôn luôn bị nhà cầm quyền đàn áp, trù dập bởi chống đối, phản kháng vẫn không được luật pháp nhìn nhận, mặc dù chống đối bằng những phê phán ôn hòa đi nữa. Nên đừng vội cho rằng ở Việt nam ngày nay có đối lập chánh trị.

3.1- Đặc tính chung của chống đối phản kháng ở Việt nam 

Nhìn chung những người chống đối ở Việt nam cho tới nay chưa đông đảo nên chưa đủ để trở thành một lực lượng. Họ còn rời rạc. Về những yêu sách đưa ra, những phê phán chánh sách của Đảng cũng không thống nhứt. Phần lớn những người ở trong nước hoặc gốc cộng sản chống đối chế độ nhưng vẫn phải ca ngợi công lao của Đảng, nhứt là công lao đã lãnh đạo thành công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua. Phải chăng họ phải ca ngợi công lao của đảng để đồng thời nhắc lại công lao của chính họ nữa ?

Ngay như Hà Sĩ Phu, không phải đảng viên, có nhiều ý kiến phê phán Đảng và Nhà nước rất gay gắt nhưng vẫn cho “ Đảng là con thuyền chở dân tộc đến bờ ”. Một số người chống đối bày tỏ mục đích là muốn làm cho Việt nam phú cường và mang sức sống mới lại cho Đảng Cộng sản. Bao giờ người trí thức ở Việt nam, phần lớn, cũng đều gắn liền với Chánh quyền. Muốn vươn lên, họ phải giữ sự trung thành với chế độ. Họ không dám mạnh dạn lên tiếng nói rõ ràng những điều họ muốn như phải chấm dứt vai trò lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản, phải thay đổi chế độ theo dân chủ tự do, nên không tạo được sức mạnh xã hội để thúc đy một tiến trình dân chủ hóa Việt nam nhanh chóng. Một số khác có xu hướng chờ đợi sự phát triển kinh tế đến một lúc nào đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về chánh trị bởi sự phát triển kinh tế sẽ tạo nên một từng lớp trung lưu, với những quan tâm, những khát vọng, khác với nhà cầm quyền nên sẽ gây một sức ép lên chánh trị. Nhưng nếu nhìn lại, chúng ta sẽ rũ bỏ ngay ảo tưởng bởi chúng ta thấy giới trung lưu ở Việt nam ngày nay thành hình không phải bên ngoài Đảng cộng sản, mà bên trong Đảng cộng sản, nên họ phải bảo vệ Đảng.

Chế độ dân chủ thường chủ trương những cuộc cải cách kinh tế xã hội để giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giữa người có đất đai, tài sản với người vô sản nên lại khó tránh có xu hướng càng ngày càng mạnh cản trở tiến trình dân chủ. Ở Việt nam ngày nay, nghiệp chủ, người giàu có lại là đảng viên, cán bộ. Tất yếu họ phải đứng về phía chế độ để bảo vệ quyền lợi của họ nay đã gắn liền với chế độ.

Trong gần đây, có nhiều nhóm khá đông nông dân nỗi dậy nhưng vẫn chưa đủ tạo thành lực lượng tranh đấu cho dân chủ vì thiếu tổ chức.

Trong giới thợ thuyền ở các thành phố lớn có nghiệp đoàn công nhơn nhưng do Đảng tổ chức và lãnh đạo nên họ không tranh đấu cho quyền lợi công nhơn. Hơn nữa, Nghiệp đoàn và Nhà cầm quyền độc tài phải bảo vệ quyền lợi của giới chủ nhơn, cả chủ nhơn ngoại quốc, vì đã ăn tiền của chủ nhơn trả cho, tính trên tiền lương của công nhơn. Công Đoàn và Nhà cầm quyền xã hội chủ nghĩa cho phép công nhơn biểu tình chỉ khi nào muốn làm áp lực với chủ nhơn để đòi thêm tiền. Ngày nay, người công nhân từ Hà nội đến Sài gòn, đã hiểu  rõ quyền lợi của họ phải do chính họ bảo vệ nên họ đã đứng lên hàng vạn tranh đấu với chủ nhân và cả với Nhà cầm quyền Việt nam.

Còn lớp dân tư sản chỉ mới xuất hiện và lại phụ thuộc Nhà nước để có điều kiện và tư thế kinh doanh. Hiện tại ở Việt nam không có tư sản độc lập và mạnh.

Các thành phần xã hội khác như công nhơn, viên chức, làm việc ở các xí nghiệp, nhứt là xí nghiệp ngoại quốc, lẽ ra họ phải được độc lập nhưng họ lại cũng phụ thuộc vào nhà cầm quyền để có việc làm và giữ việc làm giống như giới tư sản.

Còn những người được dịp đi ra nước ngoài chỉ đủ khả năng nhận thấy sự khác biệt về giá cả và phẩm chất hàng hóa nên cũng không đem về những thông tin có giá trị về các mặt của đời sống ở nước dân chủ. Trong lúc đó, đáng lấy làm buồn là Nhà nước cộng sản không thật sự mạnh vì không được toàn dân ủng hộ, nhưng vẫn tồn tại nhờ ở những điều kiện xã hội ấy và, mặt khác, nhờ công an và quân đội sẵn sàng bảo vệ bằng bạo lực (được gọi là bạo lực cách mạng).

3.2- Những khuôn mặt chống đối thật sự 

Chống đối, phản kháng ở Việt nam xuất hiện không phải chỉ từ việc khẳng định các quyền lợi độc lập của các thành phần xã hội, mà quan trọng từ xung đột bên trong bộ máy lãnh đạo và cầm quyền. Có thực hiện cải tổ chánh trị ở qui mô này thì cũng chỉ liên quan đến việc đối phó với những xung đột bên trong Nhà nước và đảng cộng sản, chớ không phải nhằm giải quyết sự xung đột giữa Nhà nước và xã hội. Như họ đòi hỏi Quốc hội phải có nhiều quyền hơn, gồm nhiều chuyên viên hơn để đưa ra nhiều đề nghị cho đảng chọn lựa. Họ chưa đòi hỏi cơ bản như các cơ cấu Chánh quyền phải độc lập với nhau và độc lập với đảng cộng sản.

Tuy nhiên, có vài người đã đưa ra những phê phán và những đòi hỏi rõ ràng, quyết liệt. Cụ Hoàng Minh Chính dứt khoát: “Cái gốc của bất hạnh Quốc gia là điều 4 Hiến pháp. Nó cho phép đảng cộng sản độc tôn lãnh đạo. Như thế, đảng ở trên Quốc gia, trên dân tộc, trên hết ”.

Hay Phan Đình Diệu nhận xét: “Chúng ta phải nhìn nhận rằng lý thuyết cộng sản và chủ nghĩa xã hội dựa vào giai cấp đấu tranh, kinh tế chỉ huy và độc quyền lãnh đạo của đảng đã mang lại quá nhiều tai ương cho đất nước”.

Ở trong miền Nam, tư tưởng chống đối, đòi thay đổi dứt khoát về dân chủ. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế là một trường hợp điển hình.

Ở Việt nam sự có mặt của thanh niên, sinh viên trong hàng ngũ chống đối chưa đủ mạnh như ở Nam Hàn hay Nam Dương trước đây, bởi sinh viên Việt nam ở các thành phố chỉ mới chiếm 2% dân số. Ngoài ra, họ phần lớn còn là con em của chế độ, hoặc ít ra, thuộc thành phần được ưu đãi nên họ không dám dấn thân, sợ mất cơ hội tốt cho tương lai mà gia đình đã đầu tư quá nhiều.
 

Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói, nhưng tôi có thể chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó  #  I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it  #  Je désapprouve ce que vous dites, mais je défendrai à la mort votre droit de la dire (Voltaire)

4.- Người Việt hải ngoại có thể giúp Việt nam sớm thay đổi dân chủ

Phê phán, chống đối chế độ ở Việt nam chưa được đông đảo dân chúng hưởng ứng, bởi những điều này vẫn chưa có giá trị đại biểu cho quyền lợi thiết thực của họ, nên những người chống đối, phản kháng còn bị cô lập ngay tại chỗ. Những lập luận của những người chống đối công kích chế độ và, mặt khác, những bài học Mac-Lê, tư tưởng Hồ chí Minh của chế độ phổ biến, cả hai đối với dân chúng không khác nhau. Về phía những người chống đối vẫn thiếu sáng kiến vận động xã hội mà lại còn thiếu sự liên lạc, sự phối họp giữa họ với nhau nữa.

Phải giúp họ tạo môi trường thảo luận ở trong nước và với ngoài nước, và những cuộc gặp gỡ nhau. Hai ông Trần Khuê và Phạm Quế Dương lập “Hội nhơn dân ủng hộ đảng và Nhà nước chống tham nhũng” là việc làm rất hay, nhưng đảng cộng sản thấy ngay hiểm họa ở đó nên đã dẹp bỏ và còn bắt người đề xuất. Thật ra, tổ chức này chỉ mới kết nạp những người gốc trong đảng, chớ chưa được bên ngoài xã hội tham gia.

Hải ngoại cần phải chuyển ti về trong nước các lý thuyết chuyển đổi theo dân chủ, những kinh nghiệm thay đổi ở Đông Âu, ôn hòa, không bạo động mà thành công. Tìm cách giúp những người ở trong nước hiểu biết về xã hội dân sự, quyền lực của những người không có quyền lực, những bài học về những phong trào tranh đấu dân chủ trên thế giới, những khuôn mặt lãnh đạo gương mẫu để kích thích và động viên tinh thần những người ở Việt nam.

 

Vì thiếu thông tin, những người thức tỉnh cũng không dám quan hệ với những người công khai tranh đấu. Người Việt Hải ngoại nên chuyển ti về nước thật nhiều thông tin về công cuộc tranh đấu dân chủ, uy thế mạnh của dân chủ, khả năng yểm trợ và binh vực dân chủ của cả thế giới ngày nay.

 

Những việc làm cụ thể và nhỏ nhưng tác động rất lớn đối với xã hội như Nguyễn Khắc Toàn làm đơn giúp nạn nhơn của chế độ đi khiếu kiện. Phương Nam đứng chụp hình chung với dân chúng Quận Bình Thạnh đi ra Hà nội kiện thưa Chánh phủ trung ương.

 

Trong việc đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam vn còn thiếu lý thuyết về dân chủ đúng đắn để thay thế thứ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay, nên Phạm Hồng Sơn dịch “Dân chủ là gì?” của Huê kỳ đã làm Hà nội sợ hãi, nên bị án tù.

Trong những thông tin ấy đừng để thiếu báo động với đồng bào trong nước rằng Việt nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Đây là một thực tế. Mất nước lần này không có nghĩa là mất chánh quyền, mà là mất hết tất cả: đất đai, sông núi và dân tộc. Việt nam sẽ trở thành một tỉnh l của Tàu. Trước 30/4/75, người miền nam chúng ta thấy mất nước cho cộng sản vì đồng minh “tháo chạy”, Việt cộng tràn ngập từ cao nguyên xuống đồng bằng. Ngày nay, mất nước vì chế độ độc tài toàn trị Hà nội đã thỏa hiệp với kẻ cướp nước phương bắc trong tinh thần cùng “ phe xã hội chủ nghĩa anh em” (lãnh đạo ở Hà nội từng tuyên bố về Hoàng Sa và Trường Sa: “thà giao cho Trung quốc anh em còn hơn để cho bọn ngụy Sài gòn chiếm giữ”), và, quan trọng vô cùng, mất nước vì toàn xã hội mất sức đề kháng do bị hệ thống xã hội chủ nghĩa thủ tiêu từ 2/9/45.

5.- Vin ảnh mất nước không xa

Chúng ta hãy nhìn lại tiền lệ: Mông Cổ, Tây Tạng và Đài Loan và cũng đừng quên một trường hợp minh thị chủ quyền mới của Bắc triều trên lãnh thổ Việt nam khi cách nay vài năm, Giang Trạch Dân đến Việt nam tắm biển Hội An không cần thông báo Hà nội, không cần bảo vệ an ninh. Ngày nay, Trung cộng đã chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển Việt nam bằng sự im lặng đồng tình của đảng cộng sản Hà nội.

Như vậy, dân chủ hoá chế độ là để vực dậy lòng yêu nước của toàn dân, thực hiện đại đoàn kết, động viên sức đề kháng dân tộc chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc Việt nam của người Việt nam không xã hội chủ nghĩa.

Trong việc chuyển ti thông tin về Việt nam, chúng ta đừng quên vai trò của người Việt Đông Âu bởi mối liên lạc của họ với Việt nam rất bén nhạy.

Còn một việc làm cụ thể nữa để thâu phục nhơn tâm và giới hạn ảnh hưởng của Hà nội. Ở một số quốc gia thuộc Đông Âu cũ, ngày nay là thành viên của Liên Hiệp Âu Châu, có đông đảo người Việt sanh sống. Họ đến từ miền Bắc và đại bộ phận trong tình trạng không hợp lệ. Hoặc họ đến theo đoàn du lịch và ở lại luôn hoặc họ mua giấy tờ ở công an Hà nội, tới Mạc-tư-khoa, rồi bằng đường bộ, lẻn tới các nưóc Đông Âu cũ như Ba lan, Tiệp khắc,… Các quốc gia này chưa có qui chế ngoại kiều cho những người Việt nam đang sanh sống tại đây. Họ cứ sống như vậy và làm ăn vô cùng vất vả, nhưng lại được tự do, tuy tự do tạm. Họ không phải lo sợ Chánh quyền sở tại mà lại lo sợ toà Đại sứ Hà nội. Một thứ lo sợ kinh niên bám theo họ từ Việt nam. Giải quyết nỗi lo sợ này, họ phải tỏ ra “ biết điều » có định kỳ đối với nhơn viên toà Đại sứ. Tức phải đóng tiền cho nhân viên Tòa Đại sứ. Nếu vận động các dân biểu, chánh giới ở đó ban hành được một qui chế tạm thời nhìn nhận sự có mặt của những người Việt này để họ yên tâm làm ăn, sanh sống thì phía tranh đấu dân chủ Việt nam sẽ có thêm một lực lượng quan trọng.

 

Nếu đề nghị này chưa thực hiện được thì ít ra một vấn đề cũng nên đuợc nhìn thấy hoặc được nhắc lại!

Tranh đấu dân chủ hoá Việt nam ngày nay không còn là những vận động chánh trị, được hiểu theo nghĩa giành Chánh quyền hay thay đổi Chánh phủ mà chính là để “cứu nước" không mất vào tay giặc truyền kiếp phương bắc.                                

Có dân chủ tự do, Việt nam mới giải quyết được thực tế thảm hại: xã hội bị phân hoá thành những mảnh vụn xung đột lẫn nhau (trong đảng, ngoài đảng - địa phương, giàu nghèo – cai trị/bị trị, ..) làm cho nhơn tâm ly tán, đạo lý suy đồi, văn hoá tụt hậu chưa từng thấy (giáo dục, y tế,...), xã hội băng hoại (bán rẻ lao động, gái ra nước ngoài).

Chúng ta chuyển tải tài liệu về cho cán bộ cộng sản địa phương trong nước để giúp họ hiểu rõ rằng chủ thuyết cộng sản (còn cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh thì không hề có) hoàn toàn không có khả năng mở ra tương lai nên ở Đông âu và Liên xô cũ, cộng sản đã sụp đổ như thật sự nó chưa bao giờ xuất hiện.

 

Ở Việt nam, nếu Hà nội tiếp tục bám theo chủ nghĩa cộng sản và “tư tưởng Hồ Chí Minh”, tức tư tưởng Sít-ta-lin và Mao Trạch Đông, thì không gì khác hơn dọn đường biến Việt nam sớm trở lại “ngàn năm nô lệ Bắc triều”!

 

Nguyễn văn Trần

Bài đăng trong mục này là quan điểm riêng của tác giả, Phù Sa hoàn toàn không có trách nhiệm.

DIỄN ĐÀN TỰ DO

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế,     Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Thế Nào Là Dân Chủ ? 

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 SỰ KIỆN

v Ngày 9 tháng 12 năm 2006  :
Hội Dân Oan Việt Nam ra đời tại Hà-nội.   

v Ngày 10 tháng 12 năm 2006  :
Tuyên bố thành lập Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam

v Ngày 2 tháng 11 năm 2006  :
Tthành lập Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.   

v Ngày 31 tháng 10 năm 2006  :
Tthành lập Hiệp Hội Đoàn Kết Công - Nông VN.   

v Ngày 20 tháng 10 năm 2006  : 
Công Đoàn Độc Lập Việt Nam ra đời.   

v Ngày 16 tháng 10 năm 2006  :
Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền VN ra đời.   

v Ngày 8 tháng 9 năm 2006  : 
Đảng Thăng Tiến Việt Nam tự công bố thành lập tại Huế.   

v Ngày 7 tháng 9 năm 2006  : 
Nhóm Thanh Niên Dân Chủ Sơn Hà ra đời tại hà Nột

v Ngày 2 tháng 9 năm 2006  : 
Tập san Tự do Dân chủ ra đời tại Hà-nội.   

v Ngày 8 tháng 6 năm 2006  : 
Đảng Dân Chủ XXI tuyên bố tái họat động

v Ngày 8 tháng 5 năm 2006  : 
Tập Hợp Thanh Niên Dân chủ ra đời cùng website Tiếng Nói Thanh Niên Dân Chủ

v Ngày 15 tháng 4 năm 2006  : 
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ra đời tại Sài Gòn và phát hành khắp nước.   

v Ngày 8 tháng 4 năm 2006  : 
Tuyên Ngôn Dân Chủ ra đời tại Việt Nam.   

v Tối ngày 25 tháng 1 năm 2006  :
Nghị viện Âu Châu ra Nghị Quyết 1481 lên án tội ác chống nhân loại của các nhà nước Cộng Sản.   

 
vResolution1481.2006.Nghị quyến 1481.2006
 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).     
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.     
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.