Một vài nét văn hóa Việt
nam nối dài
Hiện tượng
Cộng sản nắm quyền cai trị ở Việt nam, phân nửa nước rồi trên cả nước
là một tai nạn lịch sử làm tắc nghẽn sự tiến hóa xã hội, tức tắc nghẽn
dòng văn hóa dân tộc. Người Việt trong và ngoài nước tranh đấu chấm
dứt sự cai trị độc tài của Cộng sản để khai thông sự tắc nghẽn ấy, làm
cho xã hội nảy nở và vươn lên với thời đại. Công cuộc tranh đấu ngày
càng định hình rõ nét, trong ngoài không nhứt thiết phải giống nhau
nhưng đều nhằm chung một mục tiêu là Việt nam phải có một chế độ dân
chủ tự do thật sự. Người Việt nam ai cũng thấy chế độ Cộng sản độc tài
tồn tại đến ngày nay như vậy là đã quá đủ rồi !
1.- Người Việt Hải ngoại và Việt kiều
Ngày nay, người Việt hải ngoại gồm vào khoảng 3 triệu người sanh sống
trên 90 quốc gia, tập trung đông đảo ở Bắc Mỹ, Âu châu và Úc Châu.
Phần lớn họ đến từ sau biến cố 30/4/75. Khi chúng ta nói người Việt
hải ngoại có 3 triệu thì chúng ta đừng quên đã có hàng triệu người
cũng ra đi cùng thời điểm ấy nhưng bất hạnh không đến được bờ tự do !
Trong số 3 triệu người Việt hải ngoại có một thiểu số rất nhỏ đang
sanh sống ở hải ngoại nhưng không thể gọi chung họ là người Việt hải
ngoại được, bởi vì sự có mặt của họ ở đây không cùng một lý do và một
hoàn cảnh lịch sử giống như phần lớn những người kia. Rõ nhứt về lý
lịch, họ là công dân của nhà cầm quyền Hà nội, hoặc chính họ tự xác
nhận quan hệ của họ với Hà nội trên cùng quan điểm chánh trị xã hội
chủ nghĩa nên thành phần nầy được nhận diện là Việt kiều.
Sự phân biệt tách bạch giữa người Việt hải ngoại và Việt
kiều chỉ cần căn cứ trên một điểm duy nhứt đó là người Việt hải
ngoại không chấp nhận chế độ cộng sản độc tài ở Việt nam ngày nay !
Về nguồn gốc, người Việt hải ngoại không cùng nguồn gốc với cộng sản
Hà nội và Việt kiều, bởi khi cộng sản tới thì họ liều thân bỏ nước ra
đi. Từ giữa thế kỷ qua, chúng ta đã một lần bỏ nhà cửa, ruộng vườn,
tài sản, để thoát khỏi vùng bị cộng sản tạm chiếm. Năm 1954, chúng ta
đã rời bỏ miền Bắc chạy vào Nam. Năm 1975, chúng ta, bộ phận nhỏ của
dân tộc may mắn chạy thoát được chế độ cộng sản (vẫn không quên đại bộ
phận còn ở lại phải chịu thay chúng ta mọi áp bức, trù dập của cộng
sản Hà nội), đã phải đau lòng bỏ cả đất nước để bảo vệ cái không
chung nguồn gốc với người cộng sản một lần nữa. Đó
là cái còn của chúng ta và
hôm nay giữ được là nhờ sanh sống ở hải ngoại. Cái còn, đó
là văn hóa chánh trị dân chủ tự do. Đó là cái mầm văn hóa
được giữ gìn và nay đem cấy lại trên mãnh đất tự do, nó nảy nở giúp
cho 3 triệu người Việt hải ngoại phát triển với những thành tựu vẻ
vang về nhiều mặt. Hằng năm, người Việt hải ngoại gởi về Việt nam giúp
thân nhơn, đi về du lịch... một số tiền lên đến hơn 4 tỉ mỹ kim/năm.
(theo thông tin 8/2008 là hơn 6 tỉ mỹ kim/năm trong lúc lợi tức của cả
Việt nam chỉ có 29 tỉ mỹ kim /năm).
Với một dân số 3 triệu người, với sự giàu có, sự hiểu biết, với nền
văn hóa Việt nam, với thực tế sanh sống trên nhiều vùng đất, với cờ
vàng làm biểu tượng của sắc tộc Việt nam, chúng ta có thể tự xác định
chúng ta là một Việt nam Hải ngoại. Khi xác định như vậy, chúng
ta đã long trọng tuyên bố toàn thể chúng ta có một nước Việt nam
Hải ngoại cho chúng ta. Như Đài
loan đối với Trung cộng về mặt
kinh tế, văn hóa, xã hội. Hơn nữa, về mặt pháp lý quốc tế, chúng ta
còn có quyền dân tộc tự quyết, được ghi rõ trong hai Hiệp định
quốc tế về chấm dứt chiến tranh và tái lập hoà bình cho Việt nam, năm
1954 và năm 1973. Sự xác định nầy sẽ cho chúng ta, trong quan hệ với
nhà cầm quyền ở Việt nam ngày nay, một tư cách ứng xử tự chủ và tự
trọng. Để thật sự chấm dứt quan hệ cũ xin /cho. Trong lúc chúng
ta là kẻ cho.
2.- Nổ lực và thành tựu
Sanh sống ở hải ngoại nhưng chúng ta vẫn đặc biệt thường xuyên quan
tâm đến đời sống của bà con, bạn bè tại Việt nam đang sống dưới chế độ
độc tài toàn trị, nên chúng ta từ hơn ba mươi năm nay, không ngừng nỗ
lực tranh đấu để Việt nam sớm có được một chế độ dân chủ tự do. Thành
tựu hùng hồn nhứt, và gần đây hơn hết, là tại hơn 80 thành phố và tiểu
bang của Huê kỳ, cờ vàng của người Việt hải ngoại được chánh thức thừa
nhận. Nhiều chánh quyền địa phương ở Úc và Canada cũng nhìn nhận cờ
vàng của cộng đồng trong các dịp lễ lộc. Năm nay (2008), người
Việt
hải ngoại ở khắp nơi long trọng kỷ niệm 60 năm Cờ Vàng. Đặc biệt ở
Pháp, quốc gia có nền văn hóa khác hơn Mỹ, Úc và Canada về chánh sách
hội nhập, hồi tháng 6 vừa qua, hai Thành phố Voisins-le-Bretonneux và
Montigny-le-Bretonneux (Tỉnh 78, Yvelines) chấp nhận chánh thức, với
nghi lễ, cho Cộng đồng Người việt Hải ngoại treo Cờ Vàng suốt 3 ngày
ngay trước Tòa Thị sảnh. Nhờ sự vận động của người Việt hải ngoại ở
Huê kỳ, Quốc hội Huê kỳ thông qua nhiều dự luật về nhơn quyến để áp
dụng đối với Việt nam. Huê kỳ trước đây còn ghi Việt nam vào danh sách
“ các quốc gia cần theo dõi ”.
Người Việt hải ngoại luôn luôn theo đuổi những hoạt động tranh đấu về
nhơn quyền, vận động sự yểm trợ của quốc tế, để làm áp lực lên nhà cầm
quyền Hà nội phải thay đổi chế độ theo hướng dân chủ tự do.
Việt nam ngày nay, như ta thấy, có nới lỏng trên một vài lãnh vực, như
mức độ đàn áp, bản án tù dành cho những người chống đối tại Việt nam,
là nhờ sự tranh đấu của người Việt hải ngoại.
3.- Nhìn chung về tình hình chống đối ở Việt nam
Sau chiến tranh lạnh chấm dứt, chỗ dựa phe xã hội chủ nghĩa mất, Việt
nam phải tự đối phó với sức ép của Huê kỳ và Âu châu về Nhơn quyền.
Mặt khác, nhờ gia nhập Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (Asean) và nhứt là
mối quan hệ với Tàu, Việt nam cực lực chống đỡ để duy trì chế độ độc
tài, nên chỉ cải tổ kinh tế vừa đủ để làm dịu những căng thẳng xã hội.
Tình trạng xã hội căng thẳng không phải ở ngày nay, mà ngay từ sau khi
Việt nam thống nhứt, đánh mất đi ý nghĩa thật sự của chiến tranh giải
phóng dân tộc. Trong hàng ngũ đảng viên đã xuất hiện những bất mãn
chống đối chánh sách của đảng cộng sản. Sự chống đối ngày càng lan
rộng hơn và rõ nét hơn như ngày nay chúng ta thấy. Những
hiện tượng chống đối không chỉ xuất phát từ một số cá nhơn bất mãn mà
xuất phát thật sự từ những người có tâm huyết tranh đấu dân chủ. Họ
luôn luôn bị nhà cầm quyền đàn áp, trù dập bởi chống đối, phản kháng
vẫn không được luật pháp nhìn nhận, mặc dù chống đối bằng những phê
phán ôn hòa đi nữa. Nên đừng vội cho rằng ở Việt nam ngày nay có đối
lập chánh trị.
3.1- Đặc tính chung của chống đối phản kháng ở Việt nam
Nhìn chung những người chống đối ở Việt nam cho tới nay chưa đông đảo
nên chưa đủ để trở thành một lực lượng. Họ còn rời rạc. Về những yêu
sách đưa ra, những phê phán chánh sách của Đảng cũng không thống nhứt.
Phần lớn những người ở trong nước hoặc gốc cộng sản chống đối chế độ
nhưng vẫn phải ca ngợi công lao của Đảng, nhứt là công lao đã lãnh đạo
thành công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua.
Phải chăng họ phải ca ngợi công lao của đảng để đồng thời nhắc lại
công lao của chính họ nữa ?
Ngay như Hà Sĩ Phu, không phải đảng viên, có nhiều ý kiến phê phán
Đảng và Nhà nước rất gay gắt nhưng vẫn cho “ Đảng là con thuyền chở
dân tộc đến bờ ”. Một số người chống đối bày tỏ mục đích là muốn làm
cho Việt nam phú cường và mang sức sống mới lại cho Đảng Cộng sản. Bao
giờ người trí thức ở Việt nam, phần lớn, cũng đều gắn liền với Chánh
quyền. Muốn vươn lên, họ phải giữ sự trung thành với chế độ. Họ không
dám mạnh dạn lên tiếng nói rõ ràng những điều họ muốn như phải chấm
dứt vai trò lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản, phải thay đổi chế độ
theo dân chủ tự do, nên không tạo được sức mạnh xã hội để thúc đẩy một
tiến trình dân chủ hóa Việt nam nhanh chóng. Một số khác có xu hướng
chờ đợi sự phát triển kinh tế đến một lúc nào đó sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chánh trị bởi sự phát triển kinh tế sẽ tạo nên một từng lớp
trung lưu, với những quan tâm, những khát vọng, khác với nhà cầm quyền
nên sẽ gây một sức ép lên chánh trị. Nhưng nếu nhìn lại, chúng ta sẽ
rũ bỏ ngay ảo tưởng bởi chúng ta thấy giới trung lưu ở Việt nam ngày
nay thành hình không phải bên ngoài Đảng cộng sản, mà bên trong
Đảng cộng sản, nên họ phải bảo vệ Đảng.
Chế độ dân chủ thường chủ trương những cuộc cải cách kinh tế xã hội để
giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giữa người có đất
đai, tài sản với người vô sản nên lại khó tránh có xu hướng càng ngày
càng mạnh cản trở tiến trình dân chủ. Ở Việt nam ngày nay, nghiệp chủ,
người giàu có lại là đảng viên, cán bộ. Tất yếu họ phải đứng về phía
chế độ để bảo vệ quyền lợi của họ nay đã gắn liền với chế độ.
Trong gần đây, có nhiều nhóm khá đông nông dân nỗi dậy nhưng vẫn chưa
đủ tạo thành lực lượng tranh đấu cho dân chủ vì thiếu tổ chức.
Trong giới thợ thuyền ở các thành phố lớn có nghiệp đoàn công nhơn
nhưng do Đảng tổ chức và lãnh đạo nên họ không tranh đấu cho quyền lợi
công nhơn. Hơn nữa, Nghiệp đoàn và Nhà cầm quyền độc tài phải bảo vệ
quyền lợi của giới chủ nhơn, cả chủ nhơn ngoại quốc, vì đã ăn tiền của
chủ nhơn trả cho, tính trên tiền lương của công nhơn. Công Đoàn và Nhà
cầm quyền xã hội chủ nghĩa cho phép công nhơn biểu tình chỉ khi nào
muốn làm áp lực với chủ nhơn để đòi thêm tiền. Ngày nay, người công
nhân từ Hà nội đến Sài gòn, đã hiểu rõ quyền lợi của họ phải do chính
họ bảo vệ nên họ đã đứng lên hàng vạn tranh đấu với chủ nhân và cả với
Nhà cầm quyền Việt nam.
Còn lớp dân tư sản chỉ mới xuất hiện và lại phụ thuộc Nhà nước để có
điều kiện và tư thế kinh doanh. Hiện tại ở Việt nam không có tư sản
độc lập và mạnh.
Các thành phần xã hội khác như công nhơn, viên chức, làm việc ở các xí
nghiệp, nhứt là xí nghiệp ngoại quốc, lẽ ra họ phải được độc lập nhưng
họ lại cũng phụ thuộc vào nhà cầm quyền để có việc làm và giữ việc làm
giống như giới tư sản.
Còn những người được dịp đi ra nước ngoài chỉ đủ khả năng nhận thấy sự
khác biệt về giá cả và phẩm chất hàng hóa nên cũng không đem về những
thông tin có giá trị về các mặt của đời sống ở nước dân chủ. Trong lúc
đó, đáng lấy làm buồn là Nhà nước cộng sản không thật sự mạnh vì không
được toàn dân ủng hộ, nhưng vẫn tồn tại nhờ ở những điều kiện xã hội
ấy và, mặt khác, nhờ công an và quân đội sẵn sàng bảo vệ bằng bạo lực
(được gọi là bạo lực cách mạng).
3.2- Những khuôn mặt chống đối thật sự
Chống đối, phản kháng ở Việt nam xuất hiện không phải chỉ từ việc
khẳng định các quyền lợi độc lập của các thành phần xã hội, mà quan
trọng từ xung đột bên trong bộ máy lãnh đạo và cầm quyền. Có thực hiện
cải tổ chánh trị ở qui mô này thì cũng chỉ liên quan đến việc đối phó
với những xung đột bên trong Nhà nước và đảng cộng sản, chớ không phải
nhằm giải quyết sự xung đột giữa Nhà nước và xã hội. Như họ đòi hỏi
Quốc hội phải có nhiều quyền hơn, gồm nhiều chuyên viên hơn để đưa ra
nhiều đề nghị cho đảng chọn lựa. Họ chưa đòi hỏi cơ bản như các cơ cấu
Chánh quyền phải độc lập với nhau và độc lập với đảng cộng sản.
Tuy nhiên, có vài người đã đưa ra những phê phán và những đòi hỏi rõ
ràng, quyết liệt. Cụ Hoàng Minh Chính dứt khoát: “Cái gốc của bất
hạnh Quốc gia là điều 4 Hiến pháp. Nó cho phép đảng cộng sản độc tôn
lãnh đạo. Như thế, đảng ở trên Quốc gia, trên dân tộc, trên hết ”.
Hay
Phan Đình Diệu
nhận xét: “Chúng ta phải nhìn nhận rằng lý thuyết cộng sản và chủ
nghĩa xã hội dựa vào giai cấp đấu tranh, kinh tế chỉ huy và độc quyền
lãnh đạo của đảng đã mang lại quá nhiều tai ương cho đất nước”.
Ở trong miền Nam, tư tưởng chống đối, đòi thay đổi dứt khoát về dân
chủ. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế là một trường hợp điển hình.
Ở Việt nam sự có mặt của thanh niên, sinh viên trong hàng ngũ chống
đối chưa đủ mạnh như ở Nam Hàn hay Nam Dương trước đây, bởi sinh viên
Việt nam ở các thành phố chỉ mới chiếm 2% dân số. Ngoài ra, họ phần
lớn còn là con em của chế độ, hoặc ít ra, thuộc thành phần được ưu đãi
nên họ không dám dấn thân, sợ mất cơ hội tốt cho tương lai mà gia đình
đã đầu tư quá nhiều.
4.- Người Việt hải ngoại có thể giúp Việt nam sớm thay đổi dân chủ
Phê phán, chống đối chế độ ở Việt nam chưa được đông đảo dân chúng
hưởng ứng, bởi những điều này vẫn chưa có giá trị đại biểu cho quyền
lợi thiết thực của họ, nên những người chống đối, phản kháng còn bị cô
lập ngay tại chỗ. Những lập luận của những người chống đối công kích
chế độ và, mặt khác, những bài học Mac-Lê, tư tưởng Hồ chí Minh của
chế độ phổ biến, cả hai đối với dân chúng không khác nhau.
Về phía
những người chống đối vẫn thiếu sáng kiến vận động xã hội mà lại còn
thiếu sự liên lạc, sự phối họp giữa họ với nhau nữa.
Phải giúp họ tạo môi trường thảo luận ở trong nước và với ngoài nước,
và những cuộc gặp gỡ nhau. Hai ông Trần Khuê và Phạm Quế Dương lập
“Hội nhơn dân ủng hộ đảng và Nhà nước chống tham nhũng” là việc làm
rất hay, nhưng đảng cộng sản thấy ngay hiểm họa ở đó nên đã dẹp bỏ và
còn bắt người đề xuất. Thật ra, tổ chức này chỉ mới kết nạp những
người gốc trong đảng, chớ chưa được bên ngoài xã hội tham gia.
Hải ngoại cần phải chuyển tải về trong nước các lý thuyết chuyển đổi
theo dân chủ, những kinh nghiệm thay đổi ở Đông Âu, ôn hòa, không bạo
động mà thành công. Tìm cách giúp những người ở trong nước hiểu biết
về xã hội dân sự, quyền lực của những người không có quyền lực, những
bài học về những phong trào tranh đấu dân chủ trên thế giới, những
khuôn mặt lãnh đạo gương mẫu để kích thích và động viên tinh thần
những người ở Việt nam.
Vì thiếu thông tin, những người thức tỉnh cũng không dám quan hệ với
những người công khai tranh đấu. Người Việt Hải ngoại nên chuyển tải
về nước thật nhiều thông tin về công cuộc tranh đấu dân chủ, uy thế
mạnh của dân chủ, khả năng yểm trợ và binh vực dân chủ của cả thế giới
ngày nay.
Những việc làm cụ thể và nhỏ nhưng tác động rất lớn đối với xã hội như
Nguyễn Khắc Toàn làm đơn giúp nạn nhơn của chế độ đi khiếu kiện.
Phương Nam đứng chụp hình chung với dân chúng Quận Bình Thạnh đi ra Hà
nội kiện thưa Chánh phủ trung ương.
Trong việc đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam vẫn còn thiếu lý thuyết về
dân chủ đúng đắn để thay thế thứ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt nam
hiện nay, nên Phạm Hồng Sơn dịch “Dân chủ là gì?” của Huê kỳ đã làm
Hà nội sợ hãi, nên bị án tù.
Trong những thông tin ấy đừng để thiếu báo động với đồng bào trong
nước rằng Việt nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Đây là một thực
tế. Mất nước lần này không có nghĩa là mất chánh quyền, mà là mất hết
tất cả: đất đai, sông núi và dân tộc. Việt nam sẽ trở thành một tỉnh
lẻ của Tàu. Trước 30/4/75, người miền nam
chúng ta thấy mất nước cho cộng sản vì đồng minh “tháo chạy”, Việt cộng tràn ngập từ cao nguyên
xuống đồng bằng. Ngày nay, mất nước vì chế độ độc tài toàn trị Hà nội
đã thỏa hiệp với kẻ cướp nước phương bắc trong tinh thần cùng “ phe xã
hội chủ nghĩa anh em” (lãnh đạo ở Hà nội từng tuyên bố về Hoàng Sa
và Trường Sa: “thà giao cho Trung quốc anh em còn hơn để cho
bọn ngụy Sài gòn chiếm giữ”), và, quan trọng vô cùng, mất
nước vì toàn xã hội mất sức đề kháng do bị hệ thống xã hội chủ nghĩa
thủ tiêu từ 2/9/45.
5.- Viễn ảnh mất nước không xa
Chúng ta hãy nhìn lại tiền lệ: Mông Cổ, Tây Tạng và Đài Loan và cũng
đừng quên một trường hợp minh thị chủ quyền mới của Bắc triều trên
lãnh thổ Việt nam khi cách nay vài năm, Giang Trạch Dân đến Việt nam
tắm biển Hội An không cần thông báo Hà nội, không cần bảo vệ an ninh.
Ngày nay, Trung cộng đã chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển Việt
nam bằng sự im lặng đồng tình của đảng cộng sản Hà nội.
Như vậy, dân chủ hoá chế độ là để vực dậy lòng yêu nước của toàn dân,
thực hiện đại đoàn kết, động viên sức đề kháng dân tộc chống ngoại
xâm, bảo vệ Tổ quốc Việt nam của người Việt nam không xã hội chủ
nghĩa.
Trong việc chuyển tải thông tin về Việt nam, chúng ta đừng quên vai
trò của người Việt Đông Âu bởi mối liên lạc của họ với Việt nam rất
bén nhạy.
Còn một việc làm cụ thể nữa để thâu phục nhơn tâm và giới hạn ảnh
hưởng của Hà nội. Ở một số quốc gia thuộc Đông Âu cũ, ngày nay là
thành viên của Liên Hiệp Âu Châu, có đông đảo người Việt sanh sống. Họ
đến từ miền Bắc và đại bộ phận trong tình trạng không hợp lệ. Hoặc họ
đến theo đoàn du lịch và ở lại luôn hoặc họ mua giấy tờ ở công an Hà
nội, tới Mạc-tư-khoa, rồi bằng đường bộ, lẻn tới các nưóc Đông Âu cũ
như Ba lan, Tiệp khắc,… Các quốc gia này chưa có qui chế ngoại kiều
cho những người Việt nam đang sanh sống tại đây. Họ cứ sống như vậy và
làm ăn vô cùng vất vả, nhưng lại được tự do, tuy tự do tạm. Họ không
phải lo sợ Chánh quyền sở tại mà lại lo sợ toà Đại sứ Hà nội. Một thứ
lo sợ kinh niên bám theo họ từ Việt nam. Giải quyết nỗi lo sợ này, họ
phải tỏ ra “ biết điều » có định kỳ đối với nhơn viên toà Đại sứ. Tức
phải đóng tiền cho nhân viên Tòa Đại sứ. Nếu vận động các dân biểu,
chánh giới ở đó ban hành được một qui chế tạm thời nhìn nhận sự có mặt
của những người Việt này để họ yên tâm làm ăn, sanh sống thì phía
tranh đấu dân chủ Việt nam sẽ có thêm một lực lượng quan trọng.
Nếu đề nghị này chưa thực hiện được thì ít ra một vấn đề cũng nên đuợc
nhìn thấy hoặc được nhắc lại!
Tranh đấu dân chủ hoá Việt nam ngày nay không còn là những vận động
chánh trị, được hiểu theo nghĩa giành Chánh quyền hay thay đổi Chánh
phủ mà chính là để “cứu nước" không mất vào tay giặc truyền kiếp
phương bắc.
Có dân chủ tự do, Việt nam mới giải quyết được thực tế thảm hại: xã
hội bị phân hoá thành những mảnh vụn xung đột lẫn nhau (trong đảng,
ngoài đảng - địa phương, giàu nghèo – cai trị/bị trị,
..) làm cho nhơn
tâm ly tán, đạo lý suy đồi, văn hoá tụt hậu chưa từng thấy (giáo dục,
y tế,...), xã hội băng hoại (bán rẻ lao động, gái ra nước ngoài).
Chúng ta chuyển tải tài liệu về cho cán bộ cộng sản địa phương trong
nước để giúp họ hiểu rõ rằng chủ thuyết cộng sản (còn cái gọi là tư
tưởng Hồ Chí Minh thì không hề có) hoàn toàn không có khả năng mở ra
tương lai nên ở Đông âu và Liên xô cũ, cộng sản đã sụp đổ như thật sự
nó chưa bao giờ xuất hiện.
Ở Việt nam, nếu Hà nội tiếp tục bám theo chủ nghĩa cộng sản và “tư
tưởng Hồ Chí Minh”, tức tư tưởng Sít-ta-lin và Mao Trạch Đông, thì
không gì khác hơn dọn đường biến Việt nam sớm trở lại “ngàn năm nô lệ
Bắc triều”!
Nguyễn văn Trần