Tôi đi lượm lá bồ đề
-
28.11.2008 |
Dr. Nguyễn
Văn Trần
Sau
khi khối cộng sản sụp đổ, mọi người nghĩ rằng nhân loại từ đây sẽ được
sống an lạc thái bình. Không ngờ sau đó chẳng bao lâu, bạo loạn do
tranh giành quyền lợi ở các nơi nổi lên làm cho đời sống của nhiều dân
tộc bị mất tự do. Mà tự do là cốt lõi của sự sống.
Tất cả các vấn đề của quốc gia hay của thế giới đều qui về sự sống.
Như vậy mới biết có điều hòa được sự sống, có giải quyết được vấn đề
sống cho con người của mỗi quốc gia thì thế giới mới có hòa bình.
Mà sống là sống bằng thể xác, bằng tình cảm, bằng tinh thần, tức bằng
tâm linh. Thiếu vắng một yếu tố thì chưa có thể nói đó là sự sống của
con người.
Sự thiếu vắng ấy do mất tự do bởi tự do là yếu tố giúp con người nảy
nở hài hòa, toàn diện, không ngừng.
Hiện nay, nhân dân Việt Nam tranh thủ tự do, tức tranh đấu phục hồi
đời sống đúng với nhân phẩm con người. Nhân dân mất tự do là mất đi
chủ quyền quốc gia. Đó là mối hiểm họa dẫn đến mất nước. Mà mất nước
vì lệ thuộc phe xã hội chủ nghĩa như tình trạng của Việt Nam ngày nay
thì không có nghĩa chỉ là mất chủ quyền, mất lãnh thổ, mà là một cách
mất nước triệt để, trọn vẹn. Một trạng thái nô lệ mới, ở đây là nô lệ
cho Tàu.
Nhưng có người nói trên đời này làm gì có tự do. Ngay cả nhiều quốc
gia dân chủ trên thế giới cũng không hẳn có tự do. Phải chăng vì trong
thực tế, nhiều người hô hào tự do lại đem quân đội, dùng bạo lực xâm
lăng nước láng giềng. Như Trung quốc thôn tính Tây Tạng, chiếm các hải
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, Nga kéo xe tăng qua can thiệp
chủ quyền của Géorgie.
Ở Việt Nam, Hồ chí Minh nêu khẩu hiệu “Không gì quí hơn Độc lập, Tự
do” gây cuộc nội chiến tương tàn, thiết lập chế độ cộng sản toàn trị,
chà đạp tự do của nhân dân trên cả nước.
Như vậy ta có thể cho rằng người hoài nghi trên đời này không có tự do
là có lý.
Nhưng có nói đến tự do thì tự do ắt phải có. Nếu không có ngoài đời
thì chúng ta thử tìm tự do trong tôn giáo, vì tôn giáo từ ngàn xưa vẫn
là yếu tố thiết yếu của đời sống con người. Đối với Việt Nam, tôn giáo
là hơi thở của văn hóa dân tộc.
Khi nói đến tìm tự do trong tôn giáo, tôi vội nghĩ ngay đến Phật giáo.
Bởi tôi vẫn cho rằng mình hiểu biết chút ít Phật giáo, tuy hiểu biết
tắc, tức hiểu biết ngang hông vì không từng bước, bước vào kinh điển
hay qua những khóa tu học. Vốn hiểu biết Phật giáo của tôi thu thập
lõm bõm qua những lần chuyện trò với hai vị tu sĩ tại một ngôi chùa lá
nghèo nàn ở Phú Định, một cái thôn nhỏ ngoại ô Sài Gòn qua khỏi Phú
Lâm một chút. Hai vị tu sĩ này là Phật tử xuất gia, qui y ở Chùa Vạn
Đức, Gò Dưa Thủ Đức, tu hành độc lập, không theo Giáo hội Ấn Quang,
cũng không theo Việt Nam Quốc tự trước năm 1975. Tôi thưa chuyện với
hai ông bằng Anh Hai, người lớn tuổi hơn, và Anh Năm có Pháp danh là
Minh Thiền.
Anh Hai mất trước 1975 tại Tổ đình Vạn Đức do bệnh tật. Anh Năm mất
năm 1990 cũng do bệnh tật, tuy ông còn là một Đông y sĩ có tài, hậu
quả sau thời gian dài bị cộng sản cải tạo tập trung.
Trở lại với người tìm hiểu đạo Phật. Khi đọc về cuộc đời tu tập của
Đức Thích Ca, ít có ai không dừng lại để suy gẫm về mấy sự việc sau
đây:
- Đức Thích Ca khi chọn ngồi dưới gốc Bồ đề để suy tư về cuộc đời,
Ngài tự nhủ chỉ đứng dậy, rời khỏi chỗ này khi nào tìm được chơn lý.
Như vậy, nếu Ngài không tìm được chơn lý thì Ngài ngồi luôn ở đó cho
đến chết?
Đức Thích Ca làm việc ấy không vì bị một áp lực nào mà phải làm. Hoàn
toàn do ý chí của Ngài phát nguyện. Một thứ tự do ý chí, tự do chọn
lựa. Nói theo ngôn ngữ nhân quyền ngày nay, đó là tự do tinh thần.
- Khi Đức Thích Ca tìm được chân lý, tức Ngài giác ngộ. Nói cách khác,
chính Ngài là chân lý. Ngài tiếp tục ngồi lại ở đó sống với cái chân
lý, hay để xác định với chính Ngài “chân lý với Ngài là một ”.
Nhờ tự do ý chí, Đức Thích Ca tìm được chân lý. Khi Ngài sống với chân
lý cũng chính là sống với tự do.
Con người, sinh vật, trong vũ trụ, trong sự vận hành sinh tử đều chịu
sự chi phối của một định luật. Nhà Phật gọi là nghiệp lực.
Thế mà đức Thích Ca, hoàng tử, một con người sinh học bình thường
nhưng nhờ có tự do ý chí vĩ đại mà tự mình thoát khỏi sự chi phối của
cái nghiệp lực kia.
Nghiệp lực là một sức mạnh xô đẩy chúng ta sống, hành động, suy nghĩ,
ham muốn theo thói quen. Trong lúc đó, đừng quên chúng ta vẫn có một
sức mạnh khác cùng ở trong ta, có thể thôi thúc ta từ khước để chọn
lựa cho mình một nếp sinh hoạt khác hơn. Ý muốn nói chúng ta có tự do
chọn lựa đi theo nghiệp ác hay nghiệp thiện và hậu quả là tất yếu của
sự chọn lựa ấy.
Có thể hình dung nghiệp lực như một cổ xe tự động. Người lái chỉ có
chọn cho mình lộ trình để cổ xe chạy trên con đường bằng phẳng, đầy
bông hoa ngát hương thơm, đầy trăng thanh gió mát hay chạy trên con
đường đầy chướng ngại và rơi xuống vực thẩm. Chỉ có điều là chúng ta
không thể rời bỏ cổ xe vì không muốn đi nữa, mà phải ngồi trong cổ xe
để xe chạy hoài hết kiếp này đến kiếp khác. Bởi vậy, sách vở nhà Phật
dạy “Người thế gian sợ quả, Bồ-Tát sợ nhân”!
Với người Phật tử, tự do chưa phải là Niết-Bàn, mà chỉ mới là sự lựa
chọn cho mình con đường dẫn đến Niết-Bàn. Với người tranh đấu dân chủ
cho Việt Nam, nhứt là người việt hải ngoại, tự do là phải biết lựa
chọn con đường dẫn đến Dân chủ đích thực. Và khi có Dân chủ đích thực,
thì Dân chủ là sức mạnh bảo vệ và phát huy tự do.
Như vậy, tự do là một trạng thái tinh thần. Thể xác ta có thể bị khống
chế, nhưng tinh thần ta vẫn có thể sống tự do. Khi nói về tự do, ta
cần phải biết ta, tức ta phải biết “trở về với chính mình”.
Người học Phật đều biết rằng con người do những yếu tố gọi là ngũ
uẩn hợp thành. Và con người khi sống thì có thân tâm sinh hoạt. Nhìn
qua con người sẽ thấy tương quan giữa tự do với con người vô cùng
mỏng manh. Cũng giống như thân phận của chính mình. Nếu không nắm
lấy được tự do ý chí thì con người không tìm ra đâu là tự do cho
mình. Bởi con người kết thành bằng những cái biến đổi không ngừng,
không nhứt định, tức là vô thường. Khi con người dựa vào cái bản ngã
vô thường mà hô hào đem tự do đến cho thiên hạ như “không có gì quí
hơn độc lập tự do” thì Hồ Chí Minh đã sát hại hàng triệu sinh mạng
đồng bào là điều hiển nhiên. Tai hại hơn nữa, Hồ Chí Minh đem thực
hiện mơ ước không tưởng của một nhóm người lên toàn dân tộc mình,
hậu quả đau thương còn di hại cho đến ngày nay, càng ngày càng thêm
trầm trọng.
Khi con người không biết trở về với chính mình, không thấu hiểu cái
bản ngã vô thường của mình thì cái tự do mà mình hô hào cho mình, cho
người, không gì khác hơn là phóng ảnh của cái vô thường. Đó là mộng
trong giấc mộng!
Trở về với chính mình để thấy con người sinh học không thể sống ngoài
sự vận hành của tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý. Ý nghĩa và sức mạnh
của sự sống đã thôi thúc con người ta, từ qui mô cá nhân đến quốc gia
và quốc tế, tranh thủ nhằm đạt được sự thỏa mãn các thứ đó. Trong sự
tranh thủ sự sống ấy, tự do chọn lựa của người này không tránh khỏi
đụng chạm đến tự do của người khác, của dân tộc khác.
Phải thấy Tây Tạng là trường hợp điển hình. Dân tộc Việt Nam là nạn
nhân từ hơn nửa thế kỷ nay.
Đó là tự do đàn áp tự do, tự do giết tự do.
Nhìn qua góc độ khác, người ta sẽ thấy con người bị áp lực của sáu thứ
“tai, mắt, mũi,” khống chế, nên tự do ý chí mất đi.
Như vậy, phải chăng tự do vốn có ở mỗi con người? Nói theo ngôn ngữ
nhân quyền, tự do là quyền bất khả nhượng của con người. Tức quyền tự
nhiên. Nói rõ hơn, theo ông Fitche “Nhà nước không thể tước đoạt và
không thể ban phát cho chúng ta những quyền, như tự do, vốn là sở hữu
của chúng ta”.
(Considération sur
la Révolutin
française 1793, Paris). Và, cũng về vấn đề này, ông Jellnet viết “Nhà
nước không tạo ra tự do. Nhà nước chỉ nhìn nhận nó và nhìn nhận bằng
cách chính Nhà nước tự giới hạn mình”. (La Déclaration
des Droits de l’Homme et du Citoyen, 1895, Paris). “Tôi không muốn xem
con người như một sinh vật, mà phải xem đó là một “tâm linh”, ông
Fitche viết tiếp.
Nói cách khác, nếu tự do tự nó có giá trị như luật pháp, thì nó hàm
nghĩa rằng con người thật sự là một giá trị tâm linh.
Chúng ta thấy giá trị con người là siêu đẳng, nó vượt lên giá trị của
Nhà nước, bởi con người sáng tạo ra Nhà nước để thực hiện chức năng
quản trị xã hội, trong đó con người phải được sống xứng đáng đúng theo
nhân vị của mình. Quan niệm về thuyết nhân bản vị này đã lưu hành ở
Anh trong thế kỷ thứ XVII.
Vậy, giá trị con người không thể tách rời khỏi tự do mà có được. Thấy
được tự do hay tìm được tự do thật sự, thứ tự do đúng mức, trọn vẹn,
rốt ráo, không có cách gì khác hơn là định tâm theo phương pháp của
nhà Phật. Định tâm có nghĩa là làm chủ chính mình để con người sinh
học của mình trong thoáng đã không vụt chạy xa ngàn dặm mà cũng
không nhảy múa lăng xăng. Theo tu sĩ Phật giáo Tây Tạng,
ông Mathieu Ricard
(nhà sinh học của Pháp, 62 tuổi, con trai của triết gia Jean-François
Revel. Ông kể chuyện: nếu ông không sống hơn 30 năm trên Hi-Mã-Lạp
sơn, thì ngày nay, ông đã là nhà nghiên cứu làm việc trong một phòng
thí nghiệm của Huê kỳ; nếu ở Pháp, ông đã làm nghề thầy thuốc), thì
định tâm có nghĩa là “vun trồng tinh thần”, giúp nhìn thấy sự vật một
cách đúng, chính xác hơn, gần gũi với lòng vị tha, sự trìu mến,… những
đức tánh mà chúng ta đều có nhưng ở dạng tìm ẩn. Nếu bất chợt chúng ta
có biểu hiện thì cũng chỉ thoáng qua. Định tâm thật ra là sự buông thả
trọn vẹn chính mình, một trạng thái tinh thần “trống không vĩ đại”.
Định tâm là một hình thức sơ thiền của người tu Phật. Vả lại, người tu
thiền không nhứt thiết là Phật tử, bởi thiền chỉ là một nếp sống trọn
vẹn. Mọi người, không phân biệt tôn giáo, đều có thể thực hành và đều
có lợi cho bản thân. Nếu là một người có tín ngưỡng, thì thiền sẽ giúp
thăng hoa tín ngưỡng của mình. Nói rõ hơn, theo Phật giáo Tây Tạng, “tịnh
tâm là cái đầu của thiền, buông xả là chân của thiền, tỉnh giác là
thân của thiền ”.
Cách đây chừng mươi năm, ở Pháp, nếu có ai gợi lên vấn đề định tâm
trong nhóm các nhà khoa học, thì sẽ bị mọi người chế diễu ngay. Nhưng
ngày nay, môn học về thần kinh quan sát (neuroscience contemplative)
đã làm thay đổi nếp suy nghĩ cố hữu của những người này. Nên hiểu định
tâm trong tư thế ngồi ngay ngắn, mắt mở hí nhìn xuống đầu sóng mũi,
không phải là ngủ gục, mà đó là sống mãnh liệt để cải thiện thân tâm
của mình. Và ngày nay, ở Pháp, có tới 5 triệu người Pháp đến với đạo
Phật. Họ, phần đông là những nghệ sĩ, trí thức, nhà khoa học, … vì họ
thấy đạo Phật không xa với khoa học. Phật giáo không có vấn đề siêu
hình. Phật là mọi người, còn là chúng sanh nữa. Nên người tu Phật
không bị khuất phục dưới một thần linh nào hết cả. Hoàn toàn có tự do.
Nói qua chánh trị quốc gia. Khi một nước không biết chọn lựa xây dựng
cho mình một nền chánh trị phù hợp với văn hóa dân tộc, với nguyện
vọng của toàn dân, mà chạy theo một chủ thuyết đã chết trên quê hương
của nó hoặc ngã theo ngoại bang phương Bắc như Việt Nam ngày nay để
tồn tại, thì không thể nói đến tự do và độc lập.
Dĩ nhiên tự do và độc lập không có nghĩa là mình sống một mình, tự cô
lập, muốn làm gì thì làm, mà sống chung trong cái định luật liên lập
của thế giới toàn cầu ngày nay. Nhưng mỗi quốc gia phải là một đơn vị
sống tự do và độc lập trong định luật liên lập vì biết tự do là biết
chủ động trong sự vận hành chung của định luật ấy.
Hà nội ngày nay từ khước sự chọn lựa, mà chỉ biết theo phe xã hội chủ
nghĩa để chết sống phải giữ chế độ xã hội chủ nghĩa tồn tại, thì đừng
nghĩ đến tự do.
Trong nước, chánh quyền tập trung rình rập, đàn áp nhân dân, vì lúc
nào cũng lo sợ bị nhân dân lật đổ. Nhân dân thường xuyên bị chánh
quyền của mình đàn áp thì không có tự do. Nhà nước sợ nhân dân do mình
cai trị thì cũng mất tự do.
Giáo lý Nhà Phật chỉ cho ta thấy con người sống không thể tách rời
khỏi mắt, miệng, tai, mũi, … Những thứ này càng tinh vi, nhạy bén, thì
con người càng thỏa mãn tận hưởng đời sống hơn. Nhưng đừng quên là
sống cho ta mà đồng thời cũng sống cùng với mọi người. Nếu trong đời
sống cá nhân phải có tự do thì cũng phải có tự do chung cho đời sống
mọi người.
Tóm lại, ta có thể hiểu tự do là cái gì giúp vào sự nảy nở đời sống
con người. Cái gì ép buộc, áp bức, trù dập sự nảy nở là phản tự do,
tiêu diệt tự do. Tức muốn nói đó là thứ phản động hung hản hơn hết.
Người Mác-Lê cho rằng đời sống là sự tranh đấu giải quyết sự mâu thuẫn
nên lấy mâu thuẫn làm định luật cho cuộc sống. Cách giải quyết mâu
thuẫn theo người Mác-Lê đã sát hại cả trăm triệu sanh mạng con người
trong vòng hơn nửa thế kỷ qua.
Nhưng định luật liên lập vận hành thì không có mâu thuẫn hủy diệt mà
chỉ có bổ sung để nảy nở, thăng tiến hài hòa.
Do đó mà con người được sống trong tự do.
Như trên đây, chúng ta thấy đối với người tu Phật, tự do chưa phải là
Niết-Bàn, mới chỉ là con đường dẫn đến Niết-Bàn.
Nguyễn văn Trần