Giáo
dục phải bắt đầu
bằng cái Tâm hướng thiện
-
14.11.2009 |
Lê Minh Thịnh
Trong
lịch sử Đông Nam Á, Quốc Tử Giám – được xây dựng vào triều Lý (1010
-1225) – là một trong những đại học đầu tiên đào tạo nhân tài cho
đất nước Việt Nam. Ngoài ra, bộ luật Hồng Đức dưới triều Lê
(1428-1788) đã được cố Gs. Oliver Oldman (1920–2008) – cựu Giám đốc
Chương trình Luật học Đông Nam Á của Đại học Harvard, qua phần giới
thiệu quyển sách The Lê Code,
Law in Traditional Vietnam của các tác giả Nguyễn Ngọc
Huy, Tạ Văn Tài, và Trần Tử Bình – đánh giá rằng có “nhiều
điểm canh tân mà được coi là vô cùng hiện đại so với nhiều tiêu
chuẩn Tây Phương”.
Thế nhưng trong hiện tại, bài nghiên cứu “Sự lựa chọn thành công”
(Choosing Success: The Lessons of East and Southeast Asia and
Vietnam’s Future, A Policy Framework for Vietnam’s Socioeconomic
Development, 2011-2020) do Chương trình Harvard Vietnam xuất bản tháng
1 năm 2008 đã báo động đỏ: giáo dục Việt Nam đang khủng hoảng ở nhiều
trình độ. Và mới đây tháng 10 năm 2009, sự kiện trang
Tia sáng online bị thu
hồi tên miền sau khi đăng bài nhận định thẳng thắn của Gs. Hoàng Tụy,
“Giáo
dục: xin cho tôi nói thẳng”, càng cho thấy những bất ổn trong nền
giáo dục Việt Nam là sự thật đáng quan tâm.
Chia sẻ với Gs. Hoàng Tụy, cùng những trí thức, và người dân băn khoăn
về hiện trạng nền giáo dục nước nhà, người viết xin được đặt ra một số
câu hỏi, rồi từ đó, xin được cùng độc giả cùng tìm ra câu trả lời.
1. Những sự kiện lịch sử ảnh hưởng tiêu cực đến giáo
dục?
Văn hóa là nền tảng của giáo dục. Và chính trị chi phối tổng thể,
trong đó kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục. Người viết chưa
được may mắn đọc qua những tài liệu nghiên cứu về xã hội, văn hóa, và
giáo dục hoàn chỉnh trong đó phân tích đầy đủ về những kết quả – tốt
và xấu – của sự kiện Cải cách ruộng đất (1949 – 1953) với phương châm
“trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”; sự kiện Nhân văn giai
phẩm (1955 – 1958) tại miền Bắc; và sự kiện Cải tạo công thương nghiệp
sau 1954 tại miền Bắc, và sau 1975 tại miền Nam.
Mới đây, Gs. Neil Koblitz – Giáo sư Toán, Đại học Washington tại
Seattle – trong bài phản biện mang tựa đề “Ý kiến thứ hai của một
người Mỹ về Cải cách Giáo dục Đại học và hậu Đại học tại Việt Nam” (A
Second Opinion by an American on Higher Education Reform in Vietnam,
tháng 10, 2009) nhận xét thêm về văn hóa giáo dục trong giai đoạn có
sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam:
(trích) “Sự tàn phá của người Mỹ không phải chỉ ở khía cạnh vật chất
mà còn cả về mặt văn hóa, đặc biệt là ở miền Nam, nơi đã chịu đựng sự
chiếm đóng của quân đội Mỹ trong suốt 11 năm. Tiền bạc của họ đã nuôi
sống các tệ nạn như mại dâm, nghiện hút, và tham nhũng với qui mô
khủng khiếp. Giống như vũ khí của Mỹ mang lại sự tàn bạo và chết chóc,
tiền bạc của Mỹ đã ăn dần ăn mòn các cơ cấu văn hoá và xã hội Việt Nam
ở phía nam vĩ tuyến 17″ (hết trích).
Cách đây vài năm, trong lần thay mặt Phân Khoa Điện và Điện Toán tại
Đại học Quốc gia Singapore nơi mình làm việc, tiếp đón một phái đoàn
các Giáo sư từ một Đại học khá nổi tiếng tại Hà Nội, người viết – nay
nhớ lại – có dịp chứng kiến câu chuyện sau đây. Khi một Gs. từ Hà Nội
và người viết đi tham quan phòng máy tính, một em sinh viên Việt Nam
đứng nghiêm chỉnh và khoanh hai tay cúi đầu và nói “Chào thầy”. Vị Gs.
này liền nhận xét, “Trẻ em trong Nam lễ phép quá nhỉ?”. Người viết
ngạc nhiên hỏi lại, “Ý Gs. nói trong Nam là sao?” Vị Gs. trả lời, “Là
từ vĩ tuyến 17 trở vào”. Không biết gì hơn, người viết đành giữ im
lặng.
Ngoài ra, qua nhiều năm các Hội Ái hữu tại hải ngoại như An Giang, Gò
Công, Hưng Yên, Kiên Giang, Long Xuyên, Nha Trang, Ninh Hòa, Phú Yên,
Quảng Ngãi, Trà Vinh, Tuy Hòa, v.v… ; cũng như Hội Ái hữu các trường
học như Ban Mê Thuột, Bùi Thị Xuân, Chu Văn An, Gia Long, Hồ Ngọc Cẩn,
Lê Văn Duyệt, Minh Đức, Ngô Quyền, Nguyễn Đình Chiểu, Petrus Trương
Vĩnh Ký, Phú Yên, Quốc Học Đồng Khánh, Sương Nguyệt Anh, Trần Hưng
Đạo, Võ Trường Toản, v.v… đã họp mặt trong tình đồng hương, tình thầy
trò – có nhiều học trò nay đã lên chức ông bà – vẫn đậm đà, vui vẻ,
trong tinh thần tương thân tương kính.
Sự phân tích một cách tường tận và khoa học về những sự kiện lịch sử
ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục sẽ là những bài học quý giá cho hiện
tại và tương lai.
2. Pháp nhân nào có quyết định sau cùng trong việc chấn
hưng giáo dục Việt Nam?
Khi các các học giả, trí thức cùng các nhà quản lý giáo dục đề ra
phương hướng và giải pháp chấn hưng giáo dục, câu hỏi đầu tiên nên đặt
ra là pháp nhân nào có quyền quyết định sau cùng: Quốc hội, Bộ Giáo
dục, hay một thế lực nào đó? Khi chưa có câu trả lời minh bạch thì
những gì đã và đang được đề ra, sẽ đi vào khoảng trống, và chỉ làm cho
người tham gia, càng nhiệt huyết càng thêm mệt mỏi.
Trên mảnh đất hình chữ S đã bị đầu teo, eo hẹp này, không ít kẻ manh
nha về quyền lực, tài lực và bằng cấp, nhưng rất mê muội về những giá
trị của giáo dục. Ai biết chắc cuộc sống dư thừa về quyền lực, vật
chất, và bằng cấp lại thỏa mãn những thiếu thốn về tinh thần? Và những
nhiễu nhương xảy ra trong cuộc sống hàng ngày chẳng phải là những hệ
quả của sự thiếu tài nhưng lắm quyền, và sự bất cân bằng trong cuộc
sống tinh thần hay sao? Sự kém cỏi về “tầm” và nông cạn về “tâm” của
giới lãnh đạo – những pháp nhân có quyết định sau cùng – đã đẩy cả dân
tộc vào con đường nghèo nàn về giáo dục, hèn yếu về phẩm giá con
người, và nguy cơ bị xâm lăng kinh tế, văn hóa, lãnh hải cũng như lãnh
thổ đang gần kề.
3. Mục tiêu hay thành quả của giáo dục là gì?
Mục tiêu là giáo dục con người để trở thành công dân có trách nhiệm và
hữu ích cho gia đình và xã hội. Con người được giáo dục đúng mức sẽ
trở thành người con hiếu thảo, cha mẹ yêu thương và có trách nhiệm với
con cái và gia đình, vợ chồng yêu thương và có trách nhiệm với nhau.
Ngoài xã hội, người có giáo dục – nhờ có kỹ năng học hỏi được – sẽ
đóng góp tích cực vào công cuộc tạo ra, tích trữ của cải cho xã hội,
đóng góp vào ngân quỹ quốc gia; lãnh đạo, xây dựng, cải tiến xã hội
trở nên một môi trường sinh sống tươi đẹp hơn, văn minh hơn, phồn
thịnh hơn.
Đặc biệt, người có giáo dục sẽ biết quý trọng những sản phẩm họ và
đồng nghiệp tạo ra, có trách nhiệm hơn khi những sai trái có thể xảy
ra. Họ sẽ trân trọng đồng tiền do chính mồ hôi và trí óc họ làm nên,
và kính trọng sự hy sinh – đôi khi cả sinh mạng – của người khác đang
bảo vệ trật tự công cộng, và an ninh quốc gia. Người có giáo dục sẽ
biết quý trọng văn hóa của dân tộc họ cũng như những cái hay của người
ngoài.
Ngoài ra, người có giáo dục sẽ cố tránh làm những điều trái lương tâm
và vi phạm pháp luật. Họ sẽ cảm thấy xấu hổ khi làm điều gì trái với
lương tâm, sẽ bị pháp luật nghiêm xử khi phạm pháp. Mặt khác, những
ràng buộc của xã hội sẽ làm cho công chức và thương gia phải chịu
trách nhiệm trước người dân và người tiêu dùng. Mặt khác, nhờ giáo
dục, lương tâm nghề nghiệp và những ràng buộc của xã hội sẽ làm cho
công chức và thương gia phải đắn
đo hơn trước những hành động của mình, và
chịu trách nhiệm nhiều hơn
trước người dân và người tiêu dùng.
Thành quả lý tưởng – đôi khi không tưởng – của giáo dục là một xã hội
hướng thiện, trong đó đời sống vật chất càng đầy đủ hơn, sức khỏe con
người được chăm sóc tốt hơn, và nhất là con người không quá coi trọng
vật chất, sống hợp đạo nghĩa, tôn trọng pháp luật và giá trị nhân văn.
4. Giáo dục bao gồm những môi trường nào?
Ba môi trường giáo dục là: gia đình, học đường (hay nhà trường), và xã
hội. Gia đình là cái nôi hoàn thiện nhất để nuôi dạy con trẻ. Tình
thương và sự chăm sóc ân cần của cha mẹ – và đôi khi ông bà, chú cô,
cậu dì – có kiến thức, sẽ cho con trẻ khỏe mạnh, hạnh phúc, và tự tin.
Khi lớn lên, xã hội là môi trường sống và làm việc suốt phần còn lại
của cuộc đời mà con người va chạm, học hỏi điều hay và đôi khi sa ngã
vào những tệ nạn. Xã hội chính là môi trường giáo dục phổ quát nhất mà
con người học hỏi, thụ hưởng, hay phải chịu đựng hàng ngày.
Vì cuộc sống bận rộn và khó khăn, việc khoán giáo dục con cái cho nhà
trường là chuyện thường tình. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào giáo
dục học đường sẽ không giải quyết tận gốc rễ sự suy thoái giáo dục.
Nếu cha mẹ không có thì giờ chăm sóc, thương yêu con cái, sẽ rất khó
dạy con nên người. Nếu cha mẹ kiếm tiền một cách bất chính, bất lương,
trách sao con cái không sống cuộc đời lương thiện?
Qua sự kiện của anh sinh viên Hồ Quang Phương, người viết đồng cảm với
gia đình và cộng đồng, và căm phẫn trước bạo lực của cảnh sát San
Jose. Tuy nhiên, câu nói đùa, “Ở Việt Nam, tôi có thể giết ông bằng
con dao này”, vì miếng thịt bò bị người cùng phòng làm bẩn, cho
thấy sự thiếu văn hóa của người đi học, mặc dù được bằng cấp sau khi
tốt nghiệp ở một đại học tân tiến.
Xã hội là sản phẩm do chính quyền, các tôn giáo và tổ chức NGO, và
người dân cùng tạo ra. Tuy nhiên, người dân chỉ đóng vai trò phụ vì
những hành vi của người dân đều do sự giáo dục họ có được từ những
chính sách giáo dục và đào tạo của chính quyền trải qua nhiều thế hệ.
Lãnh đạo còn nhiều bất cập về mọi phương diện ngôn hành (chẳng hạn:
chuyện thầy giáo và ứng viên Đỗ Việt Khoa bị Hiệu trưởng lấn át ở vòng
hiệp thương tại trường Trung học Vân Tảo; chuyện cố khai thác bauxite
bằng được dù biết rằng an ninh, môi trường, văn hóa sẽ lâm vòng nguy
hiểm; chuyện Tu viện Bát Nhã được cấp giấy phép nhưng bị áp chế sau đó
mà không can thiệp; vụ án Huỳnh Ngọc Sĩ; chuyện ông Tư Hảo trong bút
ký Võ Đắc Danh, “… ông nầy …, danh hiệu bốn mươi năm tuổi Đảng, nhưng
vợ con vừa bị bắt giam, nhà cửa đất đai sắp bị cưỡng chế”; chuyện đại
ngôn “… chỉ 20 đến 30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế
lớn nhất thế giới” v.v…) trách sao xã hội không đảo điên, trên bảo
dưới không nghe. Người xưa có câu thượng bất chính, hạ tắc loạn.
5. Giáo dục học đường cụ thể bao gồm những đề tài gì?
Người viết xin mạn phép đưa ra một số ý niệm ban đầu làm đề tài cùng
suy ngẫm.
-
Mẫu giáo phải nhấn mạnh trung thực và bác ái.
-
Tiểu học phải bao gồm giáo huấn gia đình, vệ sinh thường thức, thể
dục, và kiến thức tổng quát về địa lý, thiên nhiên.
-
Trung học phải hàm chứa giáo dục công dân, tâm sinh lý con người,
cũng như kiến thức tổng quát về chính trị và lịch sử thế giới. Nói
chung, giáo dục phổ thông phải quảng bá, miễn phí, và bao gồm đức
dục, trí dục, và thể dục.
-
Giáo dục cao đẳng phải chú trọng hướng nghiệp.
-
Giáo dục đại học phải đặt trọng tâm vào khoa học kỹ thuật (sciences)
và khoa học nhân văn (humanity); và bao gồm giảng dạy, nghiên cứu
song song với phản biện, và quản trị.
Để chấn hưng, những yếu tố kết thành nền tảng giáo dục cho mọi lứa
tuổi và mọi trình độ phải được phát triển bằng cái Tâm hướng thiện của
người thầy cũng như người quản trị. Với một tư duy đúng đắn, từ nền
tảng giáo dục căn bản mang sắc thái dân tộc, những kiến thức hay của
nhân loại, những phương pháp nghiên cứu, giảng dạy, và quản trị cấp
tiến sẽ được xây dựng lên, bổ sung vào, không nhất thiết phải theo mô
hình Mỹ, Âu, Úc, hay Á.
6. Giáo dục nước ta không thiếu tiền, vậy tiền được chi
vào những khoản nào?
Theo Gs. Nguyễn Xuân Hãn, “… giáo dục nước ta không thiếu tiền. Nếu
thu chi công khai, minh bạch, quản lý tốt và chi tiêu hợp lý, thậm chí
có thể giảm học phí”. Cũng theo Gs. Nguyễn Xuân Hãn, “Tài chính cho
giáo dục từ cơ sở đến Trung ương là một ẩn số. Gs. Phạm Minh Hạc –
nguyên Bộ trưởng Giáo dục cũng từng gọi đây là “bí mật của các bí
mật”. Vậy, tiền đúng ra cho giáo dục, được chi vào những khoản nào? Ai
chịu trách nhiệm cho việc chi sai? Thưởng phạt và đền bù như thế nào?
Phải chăng có hiện tượng tham nhũng trong giáo dục? Phải chăng số tiền
dành cho giáo dục đã bị lạm dụng, hay phí phạm vì một mục tiêu nào đó?
Về nhân lực, trong phạm vi gia đình, các anh chị lớn có thể phụ cha mẹ
dạy dỗ em nhỏ. Trong phạm vi xã hội, người đi trước hướng dẫn người đi
sau. Trong một xã hội với trên 86 triệu dân, việc đào tạo người thầy
của mọi lứa tuổi, tạo cơ hội cho họ vừa giảng dạy và nghiên cứu, vừa
tu nghiệp, vừa có cuộc sống tạm đủ (để không nhiễu nhương phụ huynh và
người trò) là một nhu cầu tối thượng và cấp bách.
Tưởng cũng nên lưu ý rằng, trong lịch sử nhân loại, những chính quyền
thiếu chính danh, thiếu bản lãnh thường thay đổi mục tiêu của giáo dục
để mỵ dân và tuyên truyền nhằm củng cố quyền lực. Tuy nhiên, những xảo
thuật này đã và sẽ được đặt vào vị trí của nó: thùng rác của lịch sử.
7. Lời kết
Với niềm kính trọng của kẻ hậu sinh đối với vị cố Tổng đốc bất khuất,
và của người trẻ đối với vị học giả uyên bác, tận tâm với tiền đồ giáo
dục và dân tộc, người viết xin được đơn cử hai sự kiện lịch sử quan
trọng – qua hai nhân vật khả kính – đánh dấu sự mất còn của lãnh thổ
cũng như bản sắc dân tộc Việt Nam.
Xưa thất thủ Hà Thành, Tổng đốc Hoàng Diệu đành tuẫn tiết;
Nay chấn hưng giáo dục, Giáo sư
Hoàng Tụy nỡ bó tay?
Đằng sau anh linh của Tổng đốc Hoàng Diệu là hồn thiêng sông núi đã
hội tụ từ bao đời. Thành trì mất nhưng hồn phách (spirit) còn. Bên
cạnh Gs. Hoàng Tụy, hàng ngàn (nếu không muốn nói hàng trăm ngàn) trí
thức, và người dân trong và ngoài nước sẽ phải mạnh dạn gióng lên
tiếng nói của lương tâm và trí tuệ, tạo nên sức mạnh cộng hưởng để bảo
vệ và giữ vững cơ đồ Việt Nam, mà việc đầu tiên là chấn hưng giáo dục,
có lẽ bằng cái Tâm hướng thiện.
LMT
Singapore, ngày
6-11-2009