Nhìn thẳng vào
khủng hoảng giáo dục VN
1. Nhìn lại một chặng đường giáo dục
|
GS Hoàng Tuỵ |
Mặc dù tín hiệu báo động đỏ đã phát ra từ lâu, và nguyên Thủ
Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chính thức sự không
thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của giáo
dục VN vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm
vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu to lớn, thực và ảo, của giáo
dục.
Đương nhiên, nếu cô lập VN với thế giới thì không đến nỗi quá lo
lắng. Song nếu đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhìn tình
hình một cách khách quan và có trách nhiệm, thì không thể nhắm mắt
trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục VN so với các nước xung
quanh, và so với yêu cầu phát triển của xã hội.
Thực tế, đất nước nghìn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự
suy thoái trầm trọng của giáo dục kéo dài suốt ba mươi năm qua.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, cấu
trúc, tổ chức (bao gồm các phần tử và các hệ thống con), phương thức
vận hành và hiệu quả hoạt động. Nếu mỗi yếu tố ấy đều có quá
nhiều trục trặc nghiêm trọng kéo dài hàng thập kỷ mà không khắc phục
được, khiến mọi sự điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi đều không
cứu vãn nổi, thì tình trạng ấy phải được xem là sự khủng hoảng toàn
diện.
Những dấu hiệu…
Nhìn lại hệ thống giáo dục VN, những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ
từ lâu và ngày càng đậm nét.
Từ chỗ trước đây dù sao cũng là sự nghiệp toàn dân, là “bông hoa của
chế độ”, nay giáo dục đã dần dần mất phương hướng, không còn rõ giáo
dục cho ai, vì ai, để làm gì.
Trách nhiệm của Nhà nước
đối với giáo dục có nguy cơ sút giảm để dần dần nhường chỗ cho quan
niệm tư nhân hóa cực đoan, phủ nhận giáo dục với tư cách lợi ích
công hòng biến nó thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận mua vừa
bán theo cung cầu của một thứ thị trường vô tâm.
Giữa mục tiêu lý thuyết và thực tiễn thực hiện tồn tại khoảng
cách ngày càng gia tăng, có nguy cơ đẩy giáo dục xa rời lý tưởng
công bằng, dân chủ, văn minh mà xã hội đang hướng tới.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động
giáo dục mất cân đối, rối loạn trầm trọng giữa giáo dục phổ thông,
dạy nghề, cao đẳng, đại học, giữa trường tư, trường công, giữa
chuyên tu, tại chức, đào tạo liên kết, v.v.... tất cả làm thành một
hệ thống tạp nham, rối ren không đồng bộ, thiếu nhất quán, hoạt động
phân tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ, thiển
cận, nhiều hơn là quan tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài của cộng
đồng (gần đây nhất, giữa lúc Chính Phủ kêu gọi mọi ngành ngăn cơn
bão giá thì ngành giáo dục tăng giá sách giáo khoa 10%).
Nội dung và phương pháp
giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian học
những kiến thức lạc hậu vô bổ (sau nhiều lần bàn cãi cũng chỉ mới
giảm được thời lượng bắt buộc).
Mặt khác lại quá thực dụng thiển cận, thiên về triết lý mì ăn liền
mà coi nhẹ những vấn đề có ý nghĩa cơ bản suốt đời cho mỗi người
như: hình thành nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm
thụ.
Coi nhẹ kỹ năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức tính
trung thực, năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng, là những đức tính
thời nào cũng cần nhưng đặc biệt thời nay càng cần hơn bao giờ hết.
Bằng cách đặt nặng quá mức bằng cấp và thi cử, nhà trường đã vô tình
tuôn ra xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại: bằng giả, bằng dỏm, học
giả, v.v.
Chất lượng giáo dục
sa sút một thời gian dài, nhất là ở đại học, cao đẳng và dạy nghề,
khiến nhân lực đào tạo ra còn rất xa mới đáp ứng được đòi hỏi thực
tế về cả chất lượng và số lượng, do đó đang trở thành nhân tố cản
trở nghiêm trọng sự phát triển kinh tế.
Dân trí thấp - hệ quả tất nhiên của giáo dục yếu kém -- tác động
tiêu cực đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn giao thông, và
hàng loạt vấn nạn khác.
Thêm vào đó, chất lượng giáo dục quá thấp là nguyên nhân quan trọng
gây ra nạn chảy máu chất xám đang làm xã hội mất đi những nguồn lực
trí tuệ quý giá.
Trong khi chất lượng giáo dục sa sút thì chi phí giáo dục
tăng liên tục, trở thành gánh nặng phi lý không chỉ cho ngân sách
quốc gia, mà còn cho mọi gia đình vì phần đóng góp trực tiếp của dân
ngoài thuế lên đến hơn 40% tổng chi phí giáo dục.
Tuy nhiên, còn may là vượt lên trên tình hình chung không mấy sáng
sủa đó vẫn có những điểm sáng nhất định (lác đác trong từng cấp học
đều có những đơn vị khá thành công), chứng tỏ tiềm năng phát triển
giáo dục ở đất nước này còn nhiều.
Hai năm gần đây đã có một số chuyển biến tích cực nhưng vì chưa
động tới các vấn đề cốt lõi - nơi sức ỳ đã bám rễ trong nhiều năm -
nên chưa tạo đủ xung lực cho một cuộc lột xác của giáo dục hiện đang
là đòi hỏi cấp bách của xã hội.
2. Đi tìm nguyên nhân
Điều gì đã khiến nền giáo dục của một đất nước vốn có truyền thống
hiếu học lâu đời rơi vào suy thoái trầm trọng vào đúng thời điểm mà
lẽ ra nó phải là bệ phóng cho kinh tế cất cánh?
Hoàn toàn không phải do nghèo,
vì công sức, tiền của lãng phí, thât thoát hàng năm vô cùng lớn.
Nguyên nhân phải thẳng thắn nhìn nhận là do quản lý, lãnh đạo
dưới tầm.
Từ quan niệm, tư duy cơ bản (triết lý giáo dục, theo cách nói
gần đây) cho đến thiết kế hệ thống và quản lý, điều hành,
mọi khâu đều có những bất cập, sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu
cực đến toàn bộ hệ thống.
Quan niệm, tư duy về giáo dục xơ cứng, cũ kỹ
Cái gốc của phần lớn sai lầm ấy là quan niệm, tư duy xơ cứng về
giáo dục, quá cũ kỹ mà qua hai thập kỷ hầu như không thay đổi.
Vẫn cách suy nghĩ thiển cận, vẫn những quan điểm giáo điều thời bao
cấp, được biến tấu ít nhiều để thích nghi với những xu hướng phiêu
lưu du nhập từ bên ngoài phù hợp với từng nhóm lợi ich chi phối các
hoạt động giáo dục.
Mọi người đều biết thời nào, chế độ nào thì một nền giáo dục chân
chính cũng có sứ mạng cao cả giống nhau về giáo dục con người. Đồng
thời trên cái nền chung đó mỗi thời, mỗi xã hội đặt những nhiệm vụ,
yêu cầu cụ thể khác nhau cho giáo dục. Không thấy hai mặt đó mà chỉ
thiên một mặt này hay mặt kia, thậm chí để hai mặt đó xung đột, sẽ
dẫn đến một nền giáo dục hoặc thoát ly thực tế hoặc thực dụng thiển
cận, hoặc vừa có cả hai tính chất đó.
Chẳng hạn, thời nào thì con người sống trong xã hội lành mạnh cũng
cần trung thực, và muốn đóng góp vào sự phát triển của xã hội cũng
phải ít nhiều có đầu óc sáng tạo, nhưng chưa bao giờ hai đức tính đó
thiết yếu như bây giờ trong thế giới toàn cầu hóa và kinh tế tri
thức.
Điều đó tiếc thay đã không được chú ý trong suốt quá trình xây dựng
giáo dục ở VN. Trong khi xã hội và môi trường quốc tế đã biến đổi
cực kỳ sâu sắc mà từ mẫu giáo đến đại học, nhà trường vẫn dựa vào
kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập
và xây dựng chủ nghĩa xã hội để rèn luyện nhân cách, kỹ năng sống,
kỹ năng giao tiếp, thì với sự vênh đó giữa lý thuyết và đời sống,
cộng thêm sự xuống cấp nhanh đạo đức xã hội, làm sao có thể giáo dục
trung thực và sáng tạo có hiệu quả?
Đó là nguyên nhân sâu xa khiến sự giả dối và nạn giáo điều lan tràn,
từ tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tich, bệnh thi đua hình thức,
cho đến nạn sao chép, dạy mẫu, học thuộc lòng, cứ tồn tại dai dẳng
bất chấp sự lên án của dư luận xã hội.
Cần phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công
Gần đây, những cuộc tranh cãi xung quanh đề án tăng học phí, nạn học
sinh bỏ học, ngồi nhầm lớp, v.v. cho thấy rõ một nguyên nhân căn bản
của nhiều vấn nạn ấy là do nhận thức về công bằng, dân chủ trong
giáo dục còn quá hời hợt và thô sơ. Chỉ mới chú ý yêu cầu sơ
đẳng bảo đảm quyền học tập (nói chính xác là quyền bình đẳng về cơ
hội học tập), mà ngay việc này cũng chưa được hiểu đúng và làm tốt.
Trong khi đó, với chế độ học tập như hiện nay, buộc học sinh phải
học thêm ngoài giờ rất nhiều (kể cả làm bài tập ở nhà và học thêm
ngoài giờ có trả học phí), thì con em các gia đình nghèo làm sao có
được cơ hội học tập thành công bình đẳng với con em các gia đình khá
giả.
Cho nên được đi học mới chỉ là bình đẳng một phần. Bình đẳng về cơ
hội học tập không thôi chưa đủ mà phải bình đẳng về cơ hội học tập
thành công. Không phải không có lý do mà ở nhiều nước, để bảo đảm
công bằng về cơ hội thành công trong học tập, để giúp con em nhà
nghèo không bỏ học giữa chừng, học sinh tiểu học và trung học không
phải làm bài tập ở nhà mà đều làm hết ở trường, trong những giờ tự
học có thầy giám sát.
Ở các nước ấy cũng không có chuyện phải học thêm ngoài giờ ở lớp và
không có học sinh phải bỏ học chỉ vì chương trình nặng, học không
nổi hay sách giáo khoa quá đắt, không có tiền mua. Vì vậy hiện tượng
học sinh bỏ học nhiều cần được nhìn nhận là dấu hiệu đáng lo ngại
của một nền giáo dục thiếu công bằng.
Vào những năm 80 thế kỷ trước, khi kinh tế bế tắc, hệ thống giáo duc
cũ gần như tan rã. Sai lầm cơ bản khi ấy là đã không xuất phát từ
gốc để cải tạo hệ thống giáo dục mà chỉ cải sửa tùy tiện từng phần
của nó trong khi vẫn khư khư giữ nền móng tư duy lạc hậu cũ. Rốt
cuộc đã đẻ ra một hệ thông giáo dục dị dạng, đầu Ngô mình Sở, thường
xuyên gặp khó khăn, đòi hỏi phải liên tục cải sửa, song càng sửa
càng rối, càng bất cập.
Như trên đã nói, khủng hoảng giáo dục là từ bên trong, tức là chủ
yếu do hậu quả của hàng loạt sai hệ thống. Trong đó đáng nêu nhất có
một số sai căn bản như sau.
Sai đầu tiên tai hại nhất là về chính sách đối với
người thầy
Xuất phát từ quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy
trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà
trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối theo quan niệm “không
thầy đố mầy làm nên”, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và
tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại,
phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục.
Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh
một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách
giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại
học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn
toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực giáo
dục hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng
người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là
chính sách lương.
Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được
đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân
sách eo hẹp (thật ra chỉ là sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc
các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm
thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy trên 30 giờ/tuần).
Rốt cuộc phần thu nhập thêm đó cũng từ ngân sách hoặc tiền đóng góp
của dân mà ra, nhưng cái giá phải trả cho cái nghịch lý lương/thu
nhập đó là chất lượng giáo dục bị hy sinh, đạo lý xuống cấp, cần
kiệm liêm chính mất dần, gây ra tình trạng hỗn loạn rất khó đảo
ngược để lập lại trật tự, dân chủ, văn minh trong giáo dục.
Sai lớn thứ hai là chú trọng thi hơn học
|
Cử nhân ra trường có đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống? (Ảnh
minh hoạ. Nguồn: Tuần Việt Nam) |
Có quá nhiều kỳ thi “quốc gia”, mà thi theo cách học thuộc lòng, sao
chép bài mẫu, lại thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc
biệt của giáo dục VN, tái diễn cảnh lều chõng xa xưa ngay giữa thời
toàn cầu hóa và kinh tế tri thức (với tâm lý rớt thi đặc trưng “đau
quá đòn ghen, rát hơn lửa bỏng, hổ bút hổ nghiên, hổ lều hổ chõng”).
Có thể nói không ngoa, muốn hiểu thực chất việc học ở VN như thế nào
chỉ cần quan sát xã hội VN trong mùa thi.
Thực học hay hư học, học để biết, để làm, để sống cuộc sống hữu ích,
hay học để làm gì, tất cả đều phơi bày ra hết ở mùa thi. Trên thì Bộ
Giáo dục & Đào tạocó cả một bộ máy đồ sộ để nghiên cứu nghĩ ra cách
tổ chức thi, ra đề thi, chấm thi, thanh tra, giám sát thi, mỗi năm
một kiểu, dưới thì các lò luyện thi, các lớp học thêm, dạy thêm, các
máy sao chụp đua nhau hoạt động phục vụ học sinh đi thi. Suốt mấy
năm trời hết ba chung rồi hai chung, hết tự luận rồi trắc nghiệm,
thảo luận không dứt, nhưng không hề băn khoăn: có cần thiết bấy
nhiêu kỳ thi và thi căng thẳng như vậy không?
Mặc dù đã có nhiều ý kiến đề nghị bỏ bớt các kỳ thi và thay đổi cách
thi, nhưng với sức ỳ cố hữu của cơ quan quản lý, phải mất tám năm
mới bỏ được cách thi kỳ quặc dựa theo bộ đề thi có sẵn, sau đó nhiều
năm mới bỏ được thi tiểu học, thi THCS. Còn lại hai kỳ thi căng
thẳng tốn kém nhất là thi THPT và thi tuyển sinh đại học, dự kiến
kết hợp lại làm một, cũng là một tiến bộ dù chỉ mới nửa vời. Ở đại
học, do đào tạo theo niên chế nên “thi tốt nghiệp” theo cách nặng
nề, hình thức mà ít hiệu quả.
Từ cách thi nhiêu khê sinh ra lắm dich vụ ăn theo kỳ lạ ở mọi cấp:
kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng
thật nhưng học giả, v.v. Cho nên chừng nào còn thi kiểu này, còn học
chỉ để thi, thì hư học còn phát triển, gây lãng phí lớn cho Nhà Nước
và cả xã hội. Nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục
vụ cho các kỳ thi thì tốn kém lên tới con số khủng khiếp khó có thể
chấp nhận.
Sai lớn thứ ba là chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng
Bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc
hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với giáo dục các nước
trong khu vực. Điều này rõ nhất, nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và
cao học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ). Thật ra, từ giữa thế kỷ XX mâu
thuẫn gay gắt giữa số lượng và chất lượng đã xuất hiện phổ biến
trong phát triển giáo dục ở hầu hết các nước trên thế giới.
VN càng không phải là ngoại lệ, nhưng VN đi sau, có thể học hỏi kinh
nghiệm của các nước để tránh sai lầm. Tiếc rằng nhiều kinh nghiệm
tốt ở các nước đã không được áp dụng, hoặc áp dụng không thành công,
chủ yếu vì thiếu nghiên cứu cho thấu đáo và không có cách nhìn hệ
thống (đào tạo nghề, đại học đại cương là những ví dụ). Trong thời
đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn
trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc
tế.
Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường xây dựng một đại học về cơ
sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển chọn, đánh giá
GS, PGS, tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh nghiên
cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá các
đại học v.v. phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa
vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và
rất khác so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học,
thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ich riêng cho từng nhóm thay
vì phục vụ sự nghiệp chung.
Với cách quản lý xô bồ đó, số phế phẩm tuôn ra xã hội ngày càng
đông, tài năng làng nhàng chiếm ưu thế, rồi phế phẩm thế hệ 1 sản
xuất ra phế phấm thế hệ 2, cứ thế thành cái vòng xoáy trôn ốc nhấn
chìm giáo dục trong một mớ bòng bong, không gỡ ra được (tình hình
lộn xộn về các bằng cấp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ trong nước và các
chức danh GS, PGS hay các danh vị khác đã khiến các sản phẩm giáo
dục VN mất giá thảm hại trên quốc tế).
Khó khắc phục năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều
hành
Sau cùng, mà có thể là nguyên nhân quan trọng nhất, tuy khó khắc
phục nhất, là năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều
hành. Xây dựng giáo dục để hội nhập thành công trong thời toàn cầu
hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi một trình độ chuyên nghiệp cao và
một tinh thần trách nhiệm lớn.
Đó là khâu đầu tiên phải giải quyết đúng, phải “thắng”, thì mới bảo
đảm thành công. Cho nên khi giáo dục lâm vào khủng hoảng toàn diện
thì nguyên nhân thất bại đầu tiên phải tìm ngay trong khâu mấu chốt
đó.
Không thể đổ cho thiếu tiền, vì tuy một số lĩnh vực như đại học cần
thật sự được tăng đầu tư, nhưng nhìn chung, quản lý tài chính trong
toàn ngành yếu kém, thiếu minh bạch, không tạo được niềm tin tăng
đầu tư cho giáo dục sẽ tăng chất lượng tương ứng.
Một ví dụ: Một đề án 6 năm để phát triển giáo dục đại học được đâu
tư 115 triệu USD (trong đó vay của World Bank 85 triệu), mới thực
hiện được vài năm đã bị WB dọa đình chỉ vì quản lý quá kém, thế
nhưng sau đề án đó lại tiếp tục một đề án khác 70,5 triệu USD trong
đó khoảng gần 5 triệu USD chỉ để… nâng cao năng lực quản lý của Bộ
GD và ĐT.
Chỉ một thông tin như thế đủ cho thấy trình độ chuyên nghiệp của bộ
máy quản lý yếu kém đến mức nào. Mà đó chỉ là một đề án. Xung quanh
Bộ Giáo dục & Đào tạocó nhiều vụ, viện với biên chế rất lớn, từng có
thời gian dài có bộ phận biên chế đến 500 người mà năng suất rất
thấp, mặc dù đã tốn hàng nghìn chuyến đi nước ngoài với danh nghĩa
học tập kinh nghiệm … viết sách giáo khoa.
Hằng năm khoản chi để “bồi dưỡng năng lực quản lý” theo kiểu đó đã
ngốn một phần công quỹ lớn thì còn đâu ngân sách trả lương đàng
hoàng cho thầy cô giáo! Ở TƯ đã vậy thì ở các địa phương cũng lặp
lại mô hình đó, sự thiếu chuyên nghiệp, cọng với thiếu công tâm, là
đặc trưng nổi bật của bộ máy quản lý, đẻ ra một kiểu quản lý tập
trung quan liêu, thiếu trách nhiệm và kém hiệu quả.
Bên cạnh Bộ Giáo dục & Đào tạothiếu chuyên nghiệp mà rất cồng kềnh,
còn có một Hội đồng Quốc gia Giáo dục với nhiệm vụ giúp sự chỉ đạo
của Chính Phủ và một Hội đồng Chức danh GS, PGS lo việc xem xét công
nhận các chức danh này. Thành phần chủ chốt của cả hai hội đồng đều
có nhiều người chỉ hiểu biết hời hợt về giáo dục hiện đại, nhất là
đại học, cho nên có thể nói ảnh hưởng khá tiêu cực đối với sự phát
triển giáo dục.
Tình trạng sa sút của giáo dục đại học vừa qua có một phần trách
nhiệm rất quan trọng của chính hai hội đồng này. Với một bộ máy quản
lý vừa thiếu chuyên nghiệp vừa quan liêu như thế, không lạ gì chủ
trương coi giáo dục cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng
đầu đã gần như bị vô hiệu hóa hoàn toàn, và hơn mười năm sau khi đề
ra chủ trương đó nhiệm vụ chấn hưng giáo dục và khoa học đặt ra càng
gay gắt hơn bao giờ hết.
3. Lối ra nào?
GS Hoàng Tuỵ - Một nhà toán học và giáo dục lớn của Việt Nam |
Trước tình hình khủng hoảng của giáo dục, năm 2004 đã có một bản
kiến nghị của 24 tri thức, chuyên gia trong nước và Việt kiều kêu
gọi cải cách giáo dục toàn diện và mạnh mẽ. Cách đây gần một năm,
trong một bài viết đầy tâm huyết, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc
lại và nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện những biến đổi có tính
cách mạng để chấn hưng giáo dục.
Rồi cách đây vài tháng, một nhóm 11 chuyên gia Việt kiều và trong
nước cũng đã có một đề án mới về cải cách giáo dục. Gần đây nhất
nhóm nghiên cứu về giáo dục do nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị
Bình chủ trì lại đưa ra một kiến nghị nữa về cải cách giáo dục. Đủ
thấy tình hình thật sự nước sôi lửa bỏng trên mặt trận giáo dục.
Chưa bao giờ xã hội có mối quan tâm lo lắng nhiều như hiện nay đối
với việc học của con em.
Thật ra không phải chỉ mấy năm qua khủng hoảng giáo dục mới được
nhận dạng, mà ngay từ năm 1995, trong một hội nghị lớn do Thủ Tướng
Võ Văn Kiệt hồi ấy triệu tập và chủ trì đã có ý kiến thẳng thắn nêu
lên thực trạng nguy kịch của giáo dục và lên tiếng kêu cứu cho ngành
này.
Nhìn thẳng
Nhiều nhận định và kiến nghị tâm huyết đề xuất trong hội nghị đó và
một loạt hội thảo tiếp theo đã được tiếp thu và ghi nhận trong nghị
quyết TƯ II khóa 8, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nhận thức và
tư duy lãnh đạo đối với giáo dục. Nhưng từ đó đến nay giáo dục vẫn ì
ạch, chưa có dấu hiệu bứt ra được khỏi thế trì trệ triền miên. Thật
đáng buồn khi giở ra xem lại báo chí thời đó, hóa ra những nhận định
và đánh giá 15 năm trước bây giờ vẫn còn nguyên tính thời sự.
Thế mà trong 15 năm ấy thế giới đã đổi thay biết bao, ngày càng
phẳng và trí tuệ hơn, có biết bao cơ hội mới đã mở ra, đồng thời
biết bao thách thức lớn ở phía trước ! Điều gì sẽ xảy ra cho đất
nước 15 năm nữa nếu vẫn sức ỳ này chi phối giáo dục?
Trong thực tế, dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo dục & Đào tạocũng như bất
cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang
làm đau đầu cả xã hội. Chỉ có điều, để khắc phục các vấn nạn ấy,
ngành giáo dục thực hiện những sửa đổi vụn vặt, chắp vá, chậm chạp,
thiếu nhất quán, nên tác dụng và hiệu quả thấp, dẫn đến tình trạng
các vấn nạn kéo dài triền miên hết năm này qua năm khác, ngày càng
trở nên phức tạp vượt quá tầm kiểm soát.
Phân ban hay không phân ban?
Sức ỳ và tinh thần ngại thay đổi, cộng với tính thiếu chuyên nghiệp
biểu hiện rõ nhất trong vấn đề thi cử và phân ban. Suốt hơn hai chục
năm trời, những cải cách về thi cử chỉ đạt được kết quả là bỏ thi
theo bộ đề thi (mất 8 năm), bỏ thi tiểu học, thi THCS (mới cách đây
vài năm), kết hợp thi THPT với thi tuyển sinh đại học làm một (giải
pháp nửa vời chưa tốt lắm), nhưng chưa bỏ được mà còn tăng cường thi
tốt nghiệp ở đại học.
Về việc chương trình THPT có nên phân ban hay không, và phân ban như
thế nào, thì loay hoay mãi 15 năm trời, thí điểm đi thí điểm lại các
phương án phân ban kiểu cũ (theo hướng chuyên môn hóa dứt điểm từ
lớp 10 hay 11), sau thất bại nhiều lần đến năm 2006 mới bắt đầu sửa
theo kinh nghiệm các nước tiên tíến, nhưng cũng chỉ sửa nửa vời vì
vẫn tiếc rẻ chương trình, sách giáo khoa đã trót soạn và in theo
tinh thần phân ban cũ từ mấy năm trước.
Trong cả hai chuyện (thi cử và phân ban) , sở dĩ mò mẫm mãi và cải
cách chỉ đến nửa vời là vì xuất phát từ tư duy giáo dục cũ kỹ: Coi
nhẹ văn hóa phổ quát, muốn chuyên môn hóa dứt điểm rất sớm, do đó
phổ thông thì phân ban, đại học thì học theo niên chế (đào tạo theo
chuyên môn hẹp), cả phổ thông và đại học đều phải thi tốt nghiệp.
Trong khi đó nếu xuất phát từ quan điểm coi học chứ không phải thi
là chính, trọng văn hóa phổ quát, không chuyên môn hóa dứt điểm quá
sớm, nhằm tạo điều kiện cho người học có khả năng hợp tác liên ngành
và khả năng thích nghi với môi trường ngành nghề thường xuyên biến
động trong thời kinh tế tri thức.
Do đó học theo chế độ tín chỉ, thi theo từng học phần dứt điểm,
không có thi tốt nghiệp mà cứ hội đủ số tín chỉ theo yêu cầu thì tôt
nghiệp. Như vậy, thich hợp hơn với các điều kiện làm viêc thực tế
hiện đại, không bị áp lực thi cử quá nặng nề, giảm bớt stress học
tập cho giới trẻ.
Nhìn lại vấn đề đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và xét duyệt chức danh GS,
PGS
Hai vấn đề lớn khác là chế độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, và chế độ
xét duyệt, công nhận chức danh GS, PGS. Đây là hai lĩnh vực công tác
có nhiều sai lầm nghiêm trọng tác động tiêu cực đến toàn bộ hệ thống
giáo dục nhưng trong suốt ba mươi năm vẫn được duy trì hầu như không
thay đổi.
Nhiều kiến nghị liên tục của chuyên gia trong nước và Việt kiều kêu
gọi chấn chỉnh hai công tác này đều bị xếp xó. Mãi đến mấy năm gần
đây một số kiền nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu và chấp nhận một
phần, nhưng khi thực hiện lại cũng trì hoãn thêm một số năm nữa,
không ai hiểu vì lý do gì. Sự ngập ngừng, tiến vài bước rồi lại lùi,
có khi quay ngược 180 độ, biểu hiện tư duy lấn cấn, chưa thông
suốt, chưa sẵn sàng đổi mới, ngay cả khi sự cấp thiết phải thay đổi
đã quá rõ và đã được chính thức thừa nhận.
Bấy nhiêu kinh nghiệm thất bại là những bài học cho thấy không thể
chấn hưng giáo dục bằng những cải cách nửa vời, chậm chạp, tùy tiện,
như ngành giáo dục đã làm hơn hai mươi năm qua. Ngay những biện pháp
tich cực hai năm gần đây, tuy rất cần thiết và đáng hoan ngênh, cũng
chỉ mới có tác dụng sửa sang bề ngoài bộ mặt nhà trường cho dễ coi,
chứ thật sự chưa động tới cốt lõi.
Chống tiêu cực phải chống tới gốc
Chẳng hạn, chống tiêu cực trong thi cử chỉ mới làm cho quang cảnh
thi cử sạch sẽ hơn chứ chưa động tới cái gốc của hội chứng thi;
chống hành vi xâm phạm nhân phẩm học sinh của một bộ phận thầy giáo
chỉ mới cải thiện chút it hình ảnh người thầy chứ chưa động tới các
nguyên tắc giáo dục trong nhà trường hiện đại (thầy chẳng những
không được đánh đập, mà cũng không được quở mắng, làm nhục học sinh
trươc lớp, dù chỉ với ý tốt để răn dạy các em).
Quản lý chặt chẽ việc dạy thêm, học thêm tràn lan, giải quyết vấn
nạn bỏ học, ngồi nhầm lớp chưa hề động tới nguyên tắc công bằng
trong giáo dục; kế hoạch đào tạo hai vạn tiến sĩ chưa động tới cốt
lõi vấn đề tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đại
học.
Trong khi những đề nghị cải cách nhằm tới một nền giáo dục hiện đại,
công bằng, dân chủ, văn minh, đều rất khó được tiếp thu thì ngược
lại nhiều ý tưởng về tự do hoá và thị trường hoá giáo dục lại được
hưởng ứng với một nhiệt tình mù quáng, tưởng như đó là chiếc đũa
thần để chữa mọi căn bệnh trầm kha của giáo dục VN.
Đặc biệt, chưa nghiên cứu kỹ để hiểu đúng tinh thần cuộc cải cách
quản lý đại học gần đây ở các nước phát triển đã vội vã noi theo họ
đề ra chủ trương phiêu lưu cổ phần hóa đại học công và phát triển
đại học tư vì lợi nhuận mạnh hơn cả ở các nước ấy, gây lo lắng cho
nhiều tầng lớp xã hội trước sự buông lơi trách nhiệm của Nhà Nước
đối với giáo dục.
Như chúng tôi đã phát biểu trong bản kiến nghị năm 2004, trước tình
hình khủng hoảng kéo dài của giáo dục, chỉ có một lối ra tiết kiệm
và nhanh chóng là thực hiện một cuộc cải cách giáo dục toàn diện,
triệt để, nhằm xây dựng lại hệ thống giáo dục từ gốc, tiến tới một
nền giáo dục thật sự hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung
của thế giới, và tạo tiền đề cho đất nước hội nhập quốc tế thành
công.
Cải cách GD là mệnh lệnh của cuộc sống
Đó thật sự là mệnh lệnh cuộc sống, nếu chúng ta không muốn bị đẩy ra
ngoài lề thế giới văn minh ngày nay. Tốt nhất Chính Phủ nên thành
lập một tổ đặc nhiệm, độc lập với Bộ GD và ĐT, chịu trách nhiệm xây
dựng trong thời hạn 12 tháng một đề án cải cách giáo dục toàn diện
kèm theo một lộ trình thực hiện đề án đó sau khi được Chính Phủ đồng
ý để trình Quốc Hội thông qua.
Tổ đặc nhiệm này cần có một nòng cốt gồm một số không nhiều (dưới 5)
những chuyên gia thật sự có năng lực và thật sự am hiểu giáo dục
hiện đại, làm việc toàn thời gian, và bên cạnh đó môt hội đồng rộng
hơn, làm việc bán thời gian, gồm có đại diện Bộ GD và ĐT, các nhà
khoa học, nhà văn hóa, và doanh nhân.
Trong thời gian chuẩn bị đề án cải cách căn cơ, nên gác lại việc xây
dựng chiến lược phát triển giáo dục 2008-2020 (cần rút kinh nghiệm
về thất bại của chiến lược phát triển giáo dục 2000-2010 do Bộ Giáo
dục & Đào tạođã xây dựng).
Đồng thời, để tạo cơ sở và mở đường chuyển sang cải cách toàn diện
cần tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về những lỗi hệ
thống trầm trọng đã nêu ở trên:
1) Chính sách đối với thầy cô giáo, đặc biệt là nghịch lý lương/thu
nhập hiện nay.
2) Thi cử và đi liền với nó là phân ban ở THPT và chế độ tín chỉ ở
đại học.
3) Nhấn mạnh chất lượng và chuẩn mực thay vì chạy theo số lượng, bất
chấp chuẩn mực.
4) Cải tổ quản lý (đặc biệt quản lý tài chính), khắc phục bệnh tập
trung quan liêu, tăng tính chuyên nghiệp và tính trách nhiệm, chống
lãng phi, tham nhũng trong nội bộ ngành.
Trên thực tế, từ hai năm nay Bộ Giáo dục & Đào tạođã có nhiều cố
gắng để kéo cổ xe giáo dục ra khỏi sa lầy, vực giáo dục lên nhằm đáp
ứng các yêu cầu bức thiết hội nhập và phát triển kinh tế và nguyện
vọng chính đáng của người dân được hưởng một nền giáo dục công bằng,
dân chủ, hiện đại.
Giờ đây cả nước, từng gia đình, không ai không thấm thía những hậu
quả của khủng hoảng giáo dục. Mong rằng trong hoạ này cũng có cái
may, và đây chính là cơ hội lịch sử để nền giáo dục tự ý thức đầy đủ
sự yếu kém của minh, tìm thấy trở lại động lực mạnh mẽ để phát huy
tiềm năng và vươn lên hoàn thành sứ mạng cao cả trong giai đoạn đầy
trách nhiệm đối với tương lai đất nước.
GS Hoàng Tụy
Ghi chú: Đây là bài diễn thuyết của GS Hoàng Tuỵ với chủ đề: "Khủng
hoảng giáo dục: Nguyên nhân và lối ra trước thách thức toàn cầu
hoá" được trình bày và thảo luận tại Viện IDS ngày 6/6/2008.
|