John Dewey,
giáo dục chính là cuộc sống
-
30.06.2008 | Ngô Tự Lập
http://www.tiasang.com.vn/news?id=2787

John
Deway, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri thức, Hà
Nội, 2008 |
Đối với không ít người, nền giáo dục của nước Mỹ luôn là một
hình mẫu đáng được tham khảo. Nền giáo dục đó đã góp một phần không
nhỏ vào việc tạo nên sức mạnh của một siêu cường trong thế giới hiện
đại. Muốn hay không, ngay tại nhiều nước có truyền thống giáo dục
lâu đời cũng đang phải tham khảo những kinh nghiệm của nước Mỹ trong
việc cải tổ hệ thống giáo dục của chính mình. Dự luật cải cách giáo
dục đại học đang được tiến hành tại nước Pháp chính là một trong
những bằng chứng của điều đó. Điều gì đã làm nên thành công đó? Cuốn
sách của John Deway mới được xuất bản gần đây có thể giúp chúng ta
sáng tỏ đôi điều.
Những cuốn sách về triết lý giáo dục thường
có xu hướng quy về việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục cụ thể của một
số nhà triết học-giáo dục học. Việc này có thật sự có cơ sở hay
không? Ảnh hưởng của cá nhân các nhân vật đó lúc sinh thời, cho dù
họ là những vĩ nhân, không phải bao giờ cũng lớn đến mức có thể định
hình cả một nền giáo dục. Trong nhiều trường hợp, những ảnh hưởng đó
chỉ là sự hư cấu của những thế hệ sau, vốn bị tách rời khỏi bối cảnh
lịch sử và suy nghĩ bằng một lô gích khác.
Câu trả lời của tôi là, không phải tình cờ mà
những nhà giáo dục lớn thường cũng là những nhà triết học lớn.
Socrates, Platon, Aristotle, Khổng Tử, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni,
Kant là những ví dụ điển hình. Tất cả những con người khổng lồ này
đều đứng ở cội nguồn của những nền giáo dục vĩ đại. Lý do thật ra
rất đơn giản. Bất kỳ nền giáo dục nào đáng gọi là một nền giáo dục
đều phải bắt đầu từ một triết lý giáo dục mà ba câu hỏi quan trọng
nhất là:
1. Bản chất con người là gì? 2. Chúng ta muốn
con người trở thành như thế nào? 3. Phải làm gì để có con người
chúng ta mong muốn? Để trả lời những câu hỏi này, người ta cần đến
triết học.
Ảnh hưởng của các nhà triết học lúc sinh thời
có thể không lớn, nhưng điều đó không hề làm giảm tính đại diện của
họ đối với một truyền thống triết lý, trong đó có triết lý giáo dục.
Lý do là những độc giả của các thế hệ sau có thể bị tách rời khỏi
bối cảnh lịch sử của thời đại khi các tác phẩm triết học được viết
ra, nhưng tác giả của những tác phẩm ấy thì gắn liền với bối cảnh
đó. Về bản chất, các nhà tư tưởng cũng là sản phẩm của thời đại họ
sống. Vì thế, ngay cả trong trường hợp tác phẩm của họ chưa thật sự
được phổ biến lúc sinh thời, nó vẫn phản ánh ít ra là mầm mống của
xu hướng, hay một trong những xu hướng, trí tuệ của thời đại.

Chân dung John Dewey vẽ bở Edwin B. Child |
Những điều này rất đúng với John Dewey, với Thực dụng luận, trong đó
có Công cụ luận (instrumentalism) do Dewey phát triển, và với triết
lý giáo dục của ông.
John Dewey (1859-1952), tác giả của cuốn sách “Dân chủ và giáo dục”
là một nhà giáo dục vĩ đại đồng thời là triết gia xuất sắc như vậy.
Là một trong ba nhà sáng lập Thực dụng luận1, gia tài tư
tưởng triết học và giáo dục đồ sộ của ông bao trùm đời sống trí tuệ
của nước Mỹ suốt thế kỷ 20 và ông thực sự trở thành thần tượng của
những trí thức Hoa Kỳ lỗi lạc nhất. Richard Rorty tuyên bố: “Triết
gia tôi ngưỡng mộ nhất, người tôi được coi mình là học trò nhất, là
John Dewey”2. Noam Chomsky, người hồi nhỏ từng theo học
rồi về sau dạy học ở một trường theo đường lối của Dewey, cũng thừa
nhận thường xuyên trích dẫn John Dewey như một người có ảnh hưởng to
lớn đến cuộc đời mình.
Thực dụng luận, nền triết học đặc biệt Hoa Kỳ, là sản phẩm của một
xã hội kỳ lạ. Xã hội ấy được đặc trưng không chỉ bởi tính dân chủ
(cho dù khi đó mới chỉ áp dụng với người da trắng), bởi một nền kinh
tế tự do chưa từng có trong lịch sử3 với mạng lưới phức
tạp của những quan hệ xã hội, và trên hết là bởi một mặc cảm không
quá khứ vô tiền khoáng hậu dẫu nền tảng tư tưởng của nó vẫn gắn liền
với truyền thống duy lý phương Tây. Chính những đặc điểm này, bằng
cách nào đó, đã thúc đẩy Charles Peirce và William James, và sau đó
là John Dewey, từ bỏ Siêu hình học và đề cao sự hữu ích cũng như
tính hiệu quả - những ý tưởng chính của Thực dụng luận. Các nhà Thực
dụng luận cho rằng tri thức của chúng ta không hề có một nền tảng
khách quan tuyệt đối nào, vì thế, thay vì đánh giá tri thức qua sự
tương ứng của nó với chân lý khách quan, chúng ta chỉ có thể đánh
giá tri thức qua khả năng ứng dụng để lý giải và dự báo thực tại
trong những hoàn cảnh cụ thể. Nói theo cách của Công cụ luận, chân
lý chỉ là một thứ công cụ để chúng ta giải quyết các vấn đề của thực
tại. Khi thực tại thay đổi, các vấn đề cũng thay đổi, các công cụ
bắt buộc cũng phải thay đổi theo. Về điểm này, họ chính là những
tiền bối của chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Thực dụng luận được thể hiện một cách xuất sắc qua triết lý giáo dục
của John Dewey với những tác phẩm như “Trường học và xã hội” (The
School and Society ,1899), “Cách chúng ta nghĩ” (How We Think,
1910), “Kinh nghiệm và giáo dục” (Experience and Education, 1938),
và “Dân chủ và giáo dục” (Democracy and Education, 1916)…, trong đó
ông chủ trương một nền giáo dục gắn liền lý thuyết và thực tiễn.
Thật ra, học đi đôi với hành không phải là hoàn toàn mới, nhưng ở
John Dewey, nó dựa trên một quan niệm độc đáo. Nếu như trước đây
người ta quan niệm giáo dục như là quá trình truyền đạt kiến thức và
kinh nghiệm, hoặc là quá trình rửa tội và thanh lọc tâm hồn, hoặc
nữa, một quá trình khai sáng nhằm giúp con người tự do sử dụng lý
trí, thì với John Dewey, “giáo dục chính là bản thân cuộc sống”
(Education is life itself). Dewey lập luận rằng trái với con vật chủ
yếu sống bằng những bản năng bẩm sinh, con người sống chủ yếu bằng
kinh nghiệm ứng xử với thế giới xung quanh.
Lý thuyết của John Dewey về kinh nghiệm dựa trên hai nguyên lý
chính, đó là nguyên lý liên tục (continuity) và nguyên lý tương tác
(interaction). Nguyên lý liên tục khẳng định rằng những kinh nghiệm
mà con người tích luỹ được trong quá khứ sẽ ảnh hưởng đến tương lai
của người đó, còn nguyên lý tương tác hàm ý rằng tương tác của kinh
nghiệm quá khứ với hoàn cảnh hiện tại sẽ tạo ra kinh nghiệm mới,
kinh nghiệm trong hiện tại.
Ứng dụng vào giáo dục, lý thuyết của John Dewey hàm ý rằng người
thầy không thể không quan tâm đến những kinh nghiệm quá khứ của
người học và kinh nghiệm quá khứ ấy cũng không nhất thiết phải là
tiêu cực hay tích cực đối với quá trình giáo dục. Người thầy không
thể kiểm soát quá khứ của người học, nhưng có thể tổ chức bối cảnh
học tập phù hợp để tạo cho người học kinh nghiệm hiện tại thông qua
tương tác giữa bối cảnh học tập với kinh nghiệm quá khứ của người
học. “Giáo dục –John Dewey viết- là một hoạt động của cuộc sống, chứ
không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai”.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, nhà trường không thể tách
khỏi hoạt động thực tiễn, và kiến thức không thể được áp đặt từ bên
ngoài. Đây chính là cơ sở cho khẩu hiệu “Hãy phá bỏ hàng rào nhà
trường” mà mục tiêu là đưa nhà trường hòa nhập với cuộc sống của
toàn xã hội.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống,
không thể có một thứ giáo dục chung cho tất cả mọi người. Người thầy
phải ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, nó
phải là quá trình của người học chứ không phải của người dạy. Giáo
dục là quá trình mà người học là trung tâm.
Nói cách khác, giáo dục phải là một quá trình
dân chủ sâu sắc./.
----------------
1 Ở Việt Nam, từ lâu từ “Chủ nghĩa thực dụng” đã bị hiểu theo nghĩa
hẹp và tiêu cực, vì thế tôi chủ trương dùng từ “Thực dụng luận” để
dịch từ “Pragmatism”.
(N.T.L)
2 “The philosopher I most admire, and of whom I should most like to
think of myself as a disciple, is John Dewey”. Habermas, Rorty and
Kolakowski, “Debating the State of Philosophy”, Praeger Publishers,
88 Post Road West, Westport, 1996, tr. 32.
3 Xin đọc thêm bài “Về Hoa Kỳ như một đặc khu kinh tế tự do”, trong
“Minh triết của giới hạn”, NXB.
Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2005.
Ngô Tự Lập
|